Hạnh Phương
Cầm bút viết những dòng chủ yếu nói về mẹ, tôi có ý minh định rằng
Mẹ Tôi: Vô Ngã. Nhưng nghĩ lại,
tôi thấy hình như cái nhan đề ấy chưa ổn. Vì tôi vừa
nhận ra ngay sau đó; yếu tố cốt tủy, yếu tố căn để sâu xa nơi mẹ là tình thương.
Thiền sư Nhất Hạnh, năm mươi năm trước đã từng viết: “Nói đến mẹ là nói đến tình thương”.
Và tôi thật hạnh phúc khi kịp nhận ra tình thương nơi mẹ, tình thương của mẹ mới
chính là yếu tố hoàn toàn vô ngã.
Thực vậy, tình thương của mẹ, dù cho người muốn nói rõ hơn, tình thương của mẹ
dành cho riêng tôi, thì căn để tình thương ấy vẫn
cứ là hoàn toàn Vô ngã. Tình thương của mẹ mênh mông vô tận;
dạt dào bao la; ngọt ngào man mác chính nhờ yếu tố Vô ngã và dành cho tính chất
Vô ngã.
Ngay từ độ tuổi vừa mới thành niên, tập tễnh vào đời, được đọc “Làm Con Nên Nhớ” của nhà văn Lộc Đình, hơn ba mươi lăm năm trước,
tôi đã cảm nhận được một số ấn tượng sâu sắc khi đọc câu văn thống thiết của ông,
mà sau đó nhà thơ Đông Hồ nhắc lại đến hai lần trong lá thư viết gởi lại ông: “Một
nỗi thương tâm chung cho loài người là khi hiểu được tình của cha mẹ thì cha mẹ
thường đã khuất bóng”.
Cha tôi rời bỏ tôi đi quá sớm, khi tôi vừa lên bốn, tôi chưa hề nếm
được hương vị tình thương của cha ngọt bùi, mặn nhạt ra sao.
Tôi chưa hề thấy ánh mắt thầy giáo, nghiêm phụ nơi cha long lanh tinh tế thế nào.
Thú thật khi cha bỏ con đi, con chưa đủ tri thức, chưa đủ trình độ nhận thức nỗi
đau của đứa trẻ mồ côi cha cay đắng, bất hạnh thế nào. Nhưng cũng rất trung thực
mà nói, khi vừa có chút tri giác nhận thức, tôi không mấy thích khi phải học
thuộc lòng câu tục ngữ ví von đầy ấn tượng: “Con
không cha như nhà không nóc”. Dù thiếu vắng cha, tôi thấy tôi còn hạnh phúc,
tôi còn may mắn hơn rất nhiều các em bé bất hạnh mồ côi cả cha lẫn mẹ, có em
không có cả ông bà, không chú, không dì…đã phải gởi thân nương nhờ ở các viện mồ
côi. Tôi bất hạnh vắng cha nhưng may mắn còn có mẹ. Tôi chủ
quan hạnh phúc nghĩ rằng mình còn mẹ là còn có cả một gia tài tình thương đầy ắp.
Người còn có mẹ là người còn có cả một kho báu tình thương vô giá; trái
tim người mẹ là nguồn suối tình thương dạt dào vô tận. Con của mẹ có ích
kỷ tham lam muốn giành lấy tình thương của mẹ cho riêng mình thôi, thì giành mấy
cũng không hết. Vì tình thương của mẹ là suối nguồn không bao
giờ cạn, chẳng lúc nào khô.
Ngay từ thuở tập tễnh vào đời, quan niệm thường trực về tình thương
của cha mẹ; câu văn như lời cảnh tỉnh nói trên của nhà văn Lộc Đình đối với tôi
trở thành một nỗi ám ảnh. Tôi thắp sáng tư tưởng ấy làm ngọn đuốc soi
đường. Mẹ tôi còn đó. Tôi có mặt ở đây. Tôi tự nhủ mình “phải
có trách nhiệm”. Làm sao hiểu được tình thương của mẹ khi mẹ còn có
mặt ở giữa cuộc đời này, khi mẹ còn ở bên ta, cầm tay
vuốt tóc mà nói “Tội nghiệp con tôi, thương quá con tôi”.
Từng ngày từng ngày, tôi thắp sáng ý thức tự răn mình rằng, hãy mở mắt mà nhìn,
hãy lắng tai mà nghe, hãy tỉnh thức đón nhận, cảm thụ tình thương của mẹ, ngay
khi mẹ còn có mặt bên mình; đừng bao giờ nông nổi vô tâm đợi đến khi “Mẹ
bỏ con đi đường xa vạn dặm” mình mới nghe ra tình thương của mẹ. Đừng để “Trong khi con ngồi, mẹ bỏ con đi, trong khi
con nằm, mẹ bỏ con đi” rồi mới nghe ra nhịp đập trái tim dạt dào tình thương
của mẹ, vị ngọt thơm tho muôn đời của dòng sữa .
Mẹ tôi, đích thị là bà mẹ chơn chất. Bà mẹ
quê như triệu triệu bà mẹ quê Việt Nam yêu dấu mà nhạc sĩ Phạm Duy đã từng hát
ngợi “Mẹ quê, mẹ quê vất vả trăm chiều”.
Mẹ tôi mù chữ, tận đến khi nhắm mắt xuôi tay từ giã
cuộc đời, mẹ tôi cũng chưa hề biết đến khái niệm tượng hình “o
tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ”…. Như thế có nghĩa về mặt tri thức, khái niệm, nhận thức, mẹ tôi chưa
hề vướng bận bất cứ một cơ sở, một nền tảng lý luận tư tưởng triết học cao siêu
nào về tình yêu, tình thương. Mẹ tôi mù chữ thật
đấy, nhưng tuyệt đối không “mù” tình thương. Mẹ có con nên mẹ thương con;
con khát sữa, mẹ vạch bú cho con bú. Con khát nước thì mẹ ngậm nước trún vào
miệng cho con uống. Năm ba tháng tuổi, con đói mẹ mem cơm cho
con tập ăn.
Mẹ làm tất cả những công việc ấy hệt như chim mẹ mớm mồi cho chim con vậy. Chim
mẹ khi vừa nhặt được miếng mồi ngon liền nghĩ tới chim con; chim mẹ nuốt mồi vào
giữa họng cổ bay về tới vòm cửa tổ là rùng mình rướn gân rướn cổ, trún ngược mồi
trở ra, mớm vào miệng con, nuôi con. Chim mẹ quên mất mình
cũng đang đói, mình cũng cần ăn. Mẹ cam chịu khắt cổ khắt họng mà sẵn
sàng dành cho con ngụm nước cam lồ mát ngọt.
Tình mẹ thương con là vậy. Khi mẹ thương con là lúc mẹ quên thân mẹ. Khi mẹ
thương con, mẹ không thấy còn bản thân mình nữa. Mẹ đã cùng con làm một với cuộc
đời rộng lớn ngoài kia. Tuyệt đối không hai.
Mẹ là con và con là mẹ. Tình thương đã khiến cho mẹ và con cùng lúc hoàn toàn Vô
ngã.
Tôi thường nghe người ta nói: Cha mẹ thương con sẵn sàng hy sinh cho con tất cả.
Thú thật tôi không thấy mặn mà với khái niệm hy sinh ấy. Thấy con sắp
chết đuối, dù không biết bơi, mẹ cũng cứ lao
xuống vực sâu sóng dữ mong cứu được con mình. Mẹ không có khái niệm hy sinh khi
thể hiện tình thương con mình. Lỡ bước đi xa về, thấy nhà đang cháy, mẹ tức tốc
lao
vào lửa tìm con. Mẹ có con “thì” tự
nhiên thương con. Và cha cũng vậy; cha mẹ có con “thì”
thương con. Tình thương của mẹ của cha không cần bất cứ một cơ sở lý luận nào
hết. Đức Phật dạy rằng dòng sữa mẹ con được nút bú từ vô lượng kiếp luân
hồi đến nay nhiều hơn cả nước bốn đại dương mênh mông. Đọc câu kinh ấy, tôi cảm
nhận ân
tình bao la sâu dày từ vô lượng kiếp đến nay mẹ đã cho mình. Nhưng khi đọc câu
kinh ấy, tôi có thiên hướng suy tư ân nghĩa hiếu đạo
cần báo đáp nhiều hơn tính Vô ngã nơi tình thương của mẹ. Rồi
đến khi được đọc những dòng tôi sẽ chép lại sau đây, thú thực tôi mới cảm nhận
tất cả tính Vô ngã nơi tình thương của mẹ. Dưới cái nhìn tràn đầy tuệ
giác, nhà văn, thầy thuốc Đỗ Hồng Ngọc từng viết những dòng tuyệt bút:
“Sữa mẹ là
những tế bào thân xác mẹ vỡ ra mà thành. Mẹ xanh xao đi để con được hồng hào. Mẹ lùn
thấp để con được vọt cao lên. Mẹ loãng xương để con được cứng cáp. Mẹ nhăn nheo
để con đầy đặn. Mẹ xấu xí từng ngày để con càng ngày càng rạng rỡ xinh tươi”.
Đồng cảm với tư tưởng trên của bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, tôi muốn nói thêm, khi
thương con thì mẹ quên tất cả, quên đói khát, quên nhan sắc thanh xuân, quên mệt
mõi rã rời, quên khổ đau khắc khoải… Ở giữa cuộc đời duy nhất,
mẹ chỉ thấy có con để dắt dìu đỡ nâng bảo bọc. Duy nhất mẹ chỉ thấy con
để mỉm cười vồn vã (khi con khôn khéo, thành đạt, nên vai nên vế). Duy nhất mẹ
chỉ thấy con để khổ đau đứt ruột (khi con trắc trở hoạn nạn, khi con ốm đau quằn
quại). Khi mẹ làm công việc người đời quen gọi “nuôi con” chính là lúc mẹ không còn thấy
mẹ. Mẹ hoàn toàn không để ý gì đến bản thân mẹ nữa.
Mẹ hồn nhiên vắt cạn máu huyết, sinh lực, mồ hôi, nước mắt cho con mà không hề
có mảy may ý niệm đòi con đền trả. Mẹ không bao giờ băn khoăn tự hỏi vì sao vai
mình oằn xuống, lưng mình còng đi. Mẹ không hề lo âu thắc mắc vì sao bây giờ
trông ra nắng lóa ngoài kia mắt mình nheo lại. Với toàn thể nhân loại, biểu hiện tình
thương của mẹ ai cũng dễ dàng nhận thấy, nó xuất
phát từ những nhịp đập trái tim.
Nhưng chính bản thân mẹ, khi thấy con té ngã là lập tức chạy tới ôm
siết con vào lòng… Ngay cả những lúc ấy dù trái tim
đang thình thịch, thình thịch rối bời nhịp đập mà mẹ nào có nghe ra. Mẹ quên mất
trái tim nơi lồng ngực của mẹ đang đau. Điều ấy cho chúng ta thấy
rõ ràng bản chất thuần nhiên tình thương của mẹ tuyệt đối vô ngã.
Khi trái tim mẹ rộng mở tình thương dành cho con mình thì cùng lúc tấm
lòng mẹ bao la rộng mở quan tâm đến người khác. Nhà thơ Xuân Diệu từng viết: “Nhà
tôi ba ngõ bốn bề trời”. Từ ý thơ, tứ thơ hào sảng ấy tôi liên tưởng đến
trái tim người mẹ cũng vậy. Trái tim mẹ luôn luôn rộng mở ba ngõ bốn bề trời.
Thấy ai đau khổ mẹ cũng thương. Gặp trẻ mồ côi không nơi nương tựa mẹ
rộng mở bàn tay ẵm bồng ru hời, ru hỡi…
Người nhà quê Việt Nam mình có nếp sinh hoạt cá biệt rất dễ thương
là cho trẻ “bú mày”. Bà
mẹ trẻ nhà hàng xóm, cơ cực làm thuê. Vừa tảng sáng sinh sương đã ra đồng
ruộng cấy, hoặc nửa khuya khi con thơ còn ngủ êm đềm, mẹ đã cất gánh rau, đội mớ
cải lên chợ Huyện… Trẻ ở nhà khát sữa, hoặc bà nội bà ngoại, hoặc chị nó anh nó…
bế cháu bế em qua nhờ bà mẹ trẻ Xóm Chùa, xuống nhờ bà mẹ Xóm Giữa, cho cháu “bú mày”.Và bà mẹ nào cũng vui vẻ, hoan hỉ,
sẵn sàng cho trẻ bú mày. Khi thấy con người ta bụ bẫm, ngậm lấy núm vú
mình mà nút mà bú thật khỏe mạnh, các bà mẹ trẻ còn khen tấm tắc: nó khỏe hơn
con mình. Nó dễ… ghét thật… Bà mẹ trẻ ấy hoàn toàn không tiếc chi bầu sữa đã cho
con họ bú nhờ. Bà mẹ trẻ hoàn toàn không có khái niệm bầu sữa nơi vú mình là chỉ
để riêng cho con mình.
Ngay thời đại văn minh tiến bộ bây giờ… Có dịp vào thăm khoa sản các bệnh viện
hiện đại, tôi vẫn thấy còn rất nhiều các em bé được các bà mẹ bồng cho con “bú mày”. Khi mẹ các bé chưa đủ sức ngồi dậy sau khi sinh.
Và tôi cũng đã thấy rất rõ các bà mẹ sinh trước vài hôm tươi tắn mỉm cười cho
trẻ “bú mày”. Có lẽ xã hội Tây phương hiện đại
khó có hình ảnh ấy.
Từ những hình ảnh được tận mắt chứng kiến, tôi có thể nói lên ý tưởng xác quyết:
khi mẹ thương yêu bồng ẵm con mình thì cũng là lúc mẹ hiểu ra tình thương bà mẹ
đang bồng ẵm con họ. Vì mẹ biết yêu thương con mình nên mẹ rất dễ dàng yêu trẻ
con người khác. Và tôi cũng nghiệm ra một điều mầu nhiệm: nơi trái
tim dạt dào tình thương của mẹ tôi, mẹ anh, mẹ chị, đều có một phần, có
một phần trăm, phần ngàn nào đó trái tim từ bi bao la vô tận của Bồ Tát Quán Thế
Âm nghìn tay nghìn mắt. Nghĩa là trái tim
người mẹ khi thực tập nuôi con đã từng bước từng bước xóa nhòa ranh giới trái
tim vị kỷ để hướng đến tình thương, tình yêu Vô ngã.