Hạnh Phương
“Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.
Sinh đời không gặp Phật, khéo thờ cha mẹ chính là thờ
Phật. Những lời Phật dạy đã phổ cập thành châm ngôn,
tựa như phong dao, tục
ngữ, thành ngữ… như câu nói cửa
miệng hằng ngày.
Có thể do chủ quan, do cảm nhận, do kinh nghiệm hành trì của
riêng mình, mỗi khi nhớ
tới, mỗi khi thầm đọc những câu kinh, những
lời Phật dạy, tôi vừa liên tưởng tới Phật, cùng lúc vừa liên
tưởng tới
cha mẹ, tôi cảm nhận có đức Phật ở trong mình thì cùng
lúc tôi
thấy
có cha mẹ ở trong lòng mình.
Lạ lắm. Đức
Phật, Ngài đang ngồi yên lặng trên tòa sen
đó, nhưng bỗng dưng tôi thấy Ngài hình như
động đậy…
Ngài vẫn đang… “sống”. Ngài mở đôi mắt từ bi nhìn tôi,
thương
tôi. Ngài chìa bàn tay từ ái mát mẻ
rờ lên trán tôi. Ngài
mỉm cười và nói với
tôi: “Tội nghiệp con tôi”.
Tôi cảm nhận
rõ ràng
Đức
Phật đã hóa thân thành
cha tôi, Phật ứng thân thành thân phụ
tôi.
Cảm quan ấy tôi
thấy hình như nó vượt
ngoài khái niệm đúng sai. Có vẻ ngây ngô, ngờ nghệch…. nhưng lại rất dễ thương.
Trong nghi thức tụng niệm hằng ngày, người Phật tử nào mà
không đọc những câu xưng tán Đức
Phật trước
khi lạy Người như “Thiên nhơn chi đạo sư. Tứ sanh chi từ
phụ” (Bậc đạo sư của trời và người,
vị cha lành của bốn loài chúng sinh).
Họ có quyền gọi Đức Phật là cha lành, là Từ
phụ. Tôi là một trong
vô số vô lượng chúng sinh
trong
bốn loài ba cõi… Chẳng lẽ
tôi không thể gọi ngài là Từ
phụ, là cha lành. Có khi nào mà Đức Phật lại không vui khi
chúng ta gọi Ngài một cách trìu mến, dễ thương như vậy.
Xót nghĩ, do kết
quả nghiệp lực nhiều đời, từ vô lượng vô biên kiếp
trước, tôi đã mồ côi cha quá sớm.
Tôi không có diễm phúc
trông thấy hình ảnh cha tôi, nên hoàn
toàn không có mảy may ký ức nào
về hình bóng người cha. Người bỏ tôi đi về
thế giới bên kia lúc tôi chưa
tròn bốn tuổi. Thế nên bây giờ,
nhiều lúc, mỗi khi xưng
tán “Thầy chỉ đường cho ba cõi,
vị cha hiền thương yêu bảo bọc cả bốn loài chúng sanh”,
không phải tôi mường tượng, không phải tôi hình dung…, lại càng không phải
tôi mộng tưởng…, mà rõ ràng mồn
một tôi đã thấy, đã rõ lắm:
Đức Phật chính là vị
cha hiền của tôi, là bố
của tôi, là ba tôi.
Ngày mẹ tôi
quy tiên… con gái đầu lòng của tôi đang đi
học xa, tại một trường cao đẳng ở Sài Gòn và đúng
thời điểm
con tôi đang chuẩn bị kỳ thi tốt
nghiệp cuối khóa. Tôi không
gọi điện báo tin cho con về thọ tang bà nội. Vì
tôi vẫn nghĩ, việc báo ân báo hiếu cốt tủy nằm ở trong lòng. Nhưng lạ lắm, đúng một giờ sáng ngày hôm đó,
ngay khi mẹ tôi trút
hơi thở cuối cùng thì con gái tôi
đang ở xa hơn hai trăm
dặm, nằm mộng thấy Phật Quan Âm. Phật Quan Âm mặc
áo trắng, trắng ngần như mây, Ngài
mỉm cười, nụ cười như hoa…, vừa dẫn mẹ tôi đi,
vừa quay lại nhìn con tôi
vẫy
tay từ
giã. Giây phút ấy con tôi thấy nhẹ nhõm lạ thường, an lạc lạ thường.
Nghe con kể lại, tôi thấy rất rõ một điều:
Đức Quan Thế Âm Bồ
Tát đích thực là mẹ
hiền của tôi. Người đã ứng thân, hiện thân, hóa thân
đúng lúc mẹ tôi qua đời. Người đã thị hiện tiếp dẫn mẹ tôi về cõi
Phật Di Đà, ánh sáng vô
lượng, tuổi
thọ vô lượng, công đức vô lượng…
Tôi thấy ngay khi mẹ
hiền tôi đi về cảnh giới tuyệt vời an lạc ở bờ bên kia,
thì Đức Quan Thế Âm đã ứng
hiện tức thì thành người
mẹ hiền ruột thịt nhau rốn của bản thân tôi, của
cả cuộc đời tôi.
Cầu chi tất ứng. Người
xưa thường bảo vậy.
Tôi không ưa lý
luận. Tôi tuyệt
đối đặt
niềm tin vào Phật, vào Tam bảo. Cất bước, tôi
niệm Quan Âm. Mở mắt thức
dậy, tôi niệm Quan Âm. Bước xuống giường
đặt chân mang dép, tôi
niệm Quan Âm.
Chí thành chí thiết
trì tụng Văn Từ Bi Thủy Sám. Nhất niệm chí thành trì chú
Đại Bi, khi khát ngưỡng, khi bức xúc,
khi hoạn nạn, khi đau khổ…, tôi thấy Người ứng hiện. Người cho tôi thấy sức mạnh nhiệm mầu, diệu lực vô biên
của Người.
Tôi thấy rất rõ ràng
Đức Bồ Tát Quán Thế
Âm đúng là mẹ hiền
của tôi.
Bao giờ cũng
vậy: Tin Phật niệm Phật thì thấy Phật ở trong ta. Phật là cha mẹ
ta.