Phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, TENZIN GYATSO, về vấn đề tái sanh của Ngài
http://dalailama.com/messages/tibet/reincarnation-statement
Ngày 24 tháng 9 năm 2011
(Dịch Việt: Konchog Jimpa Lhamo)
Giới
Thiệu
Những người dân Tây Tạng
thân mến của tôi, ở cả trong lẫn ngoài đất nước Tây Tạng, cùng tất cả những ai
đang tu tập theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và những ai đang có những nối
kết với Tây Tạng và người Tây Tạng: do bởi sự nhìn xa thấy rộng của những
vị quân vương thời cổ, cùng các vị thừa tướng và các vị học giả cao thâm mà toàn
bộ giáo lý của đức Phật, gồm có những giáo lý kinh điển, kinh nghiệm tu tập của
cả Ba Thừa và Bốn Cấp Độ Mật Điển, cùng với những đề tài và các môn học liên hệ
khác, đã được thăng hoa, phát triển một cách rộng rãi trên Xứ Tuyết. Đối với cả thế giới, Tây Tạng đã trở thành suối nguồn của truyền
thống Phật giáo cũng như của các truyền thống văn hoá liên quan đến Phật giáo.
Đặc biệt, Tây Tạng đã cống hiến một cách đáng kể cho hạnh phúc của vô lượng
người dân đang sống tại châu Á, kể cả những ai đang ở tại Trung Hoa, Tây Tạng và
Mông Cổ.
Trong một chuỗi dài của
việc duy trì truyền thống Phật giáo tại Tây Tạng, chúng tôi đã nuôi dưỡng một
truyền thống Tây Tạng đặc thù, [đó là] công nhận sự
tái sanh của các vị học giả cao thâm, là những người đã đóng góp một cách to lớn
cho Giáo pháp và cho chúng sinh, đặc biệt hơn nữa là cho cộng đồng tu sĩ.
Kể từ khi đấng toàn giác
Gedun Gyatso đã được nhận diện và tuyên nhận là hoá thân của ngài Gedun Drub vào
thế kỷ thứ mười lăm, và từ khi Gaden Phodran Labrang tức là hệ thống tái sinh
của đức Đạt Lai Lạt Ma được thiết lập, thì những vị hoá thân kế tiếp [của đức
Đạt Lai Lạt Ma] cũng đã được tuyên nhận. Vị hoá thân thứ Ba
trong truyền thống ấy, ngài Sonam Gyatso, đã được ban cho pháp hiệu Đạt Lai Lạt
Ma. Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Năm, ngài Ngawang Lobsang Gyatso, đã
thành lập Chính Quyền Gaden Phodrang vào năm 1642, trở thành vị lãnh đạo tâm
linh lẫn chính trị của Tây Tạng. Đã trải qua hơn 600 năm từ ngài Gedun
Drub trở đi cho đến nay, một chuỗi dài bao gồm các vị hoá thân thuộc dòng truyền
thừa của Đạt Lai Lạt Ma đã được công nhận một cách hoàn toàn đúng đắn, không hề
sai trật.
Các vị Đạt Lai Lạt Ma [trong
quá khứ ] đã nhận lãnh trách nhiệm như là những vị lãnh đạo chính trị và tâm
linh của Tây Tạng trong suốt 369 năm từ năm 1642 cho đến nay. Giờ đây, bản thân tôi [Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, Tenzin Gyatso] đã
tình nguyện chấm dứt [việc nhận lãnh trách nhiệm] như trên. Tôi hãnh diện
và hài lòng là giờ đây chúng tôi có thể noi theo một hệ
thống chính quyền dân chủ là một hệ thống đang nở rộ ở khắp nơi trên thế giới.
Thật ra, ngay từ năm 1969 xa xưa trở đi, tôi cũng
đã từng nói một cách hết sức minh bạch rằng những ai có mối liên hệ [với đức Đạt
Lai Lạt Ma và Tây Tạng], họ cần phải quyết định xem là các vị tái sanh của Đạt
Lai Lạt Ma có nên tiếp tục trong tương lai hay không. Tuy thế, trong khi thiếu
vắng những tôn chỉ rõ ràng, giả sử nếu cộng đồng
những người liên hệ bày tỏ một ước nguyện mạnh mẽ mong muốn các vị tái sanh của
Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục hiện hữu, thì có thể có một nguy cơ rõ rệt là sẽ
có những thế lực chính trị có chủ ý sẽ lợi dụng hệ thống tuyên nhận hoá thân này
để hoàn thành những chương trình [tham vọng] chính trị riêng tư. Do đó,
trong khi tôi vẫn còn đầy đủ sức khoẻ và tinh thần minh mẫn, tôi nghĩ rằng có lẽ điều quan trọng đối với tôi là chúng ta cần phải
thiết lập những tôn chỉ rõ ràng để tuyên nhận vị Đạt Lai Lạt Ma kế nhiệm, không
để bất kỳ khe hở nào cho sự hoài nghi hay gian trá. Để có thể hiểu được những
tôn chỉ này một cách trọn vẹn, điều thiết yếu là phải thấu hiểu về hệ thống
tuyên nhận Tulku (hoá thân) và về những khái niệm căn bản đằng sau hệ thống ấy. Bởi thế cho nên, tôi sẽ vắn tắt giải thích như sau.
Đức Đạt
Lai Lạt Ma phát biểu về vấn đề tái sanh của ngài (Ảnh: dalailama.com)
Kiếp quá khứ và kiếp tương
lai (kiếp trước kiếp sau)
Để có thể chấp nhận được
thuyết tái sanh hay về thực tại của các vị
Tulku (tức các vị hóa thân), chúng ta cần phải chấp nhận sự hiện hữu của đời
trước và đời sau, của các kiếp quá khứ và kiếp vị lai. Chúng sinh hiện hữu trong
cuộc đời hiện tại khởi đi từ những đời kiếp trước và chúng sinh đầu thai trở lại sau khi chết. Sự đầu thai trở lại một cách
liên tục này được công nhận bởi tất cả các truyền
thống tâm linh Ấn Độ cổ cũng như được công nhận bởi tất cả các trường phái triết
học, ngoại trừ phái Charvakas [cũng thuộc Ấn Độ cổ], là một phong trào duy vật. Có một số các triết gia hiện đại chối bỏ kiếp trước kiếp sau dựa
trên tiền đề cho là chúng ta không thể nhìn thấy được điều đó.
Có những người khác thì lại không vẽ ra những kết luận quá rõ rệt dựa trên cơ sở
này [của việc không “nhìn thấy” được là có kiếp trước kiếp sau].
Cho dù có rất nhiều truyền
thống tôn giáo công nhận việc đầu thai trở lại
thì các truyền thống này lại có những cái nhìn khác nhau, chẳng hạn như là các
quan điểm khác nhau về cái gì là cái đầu thai trở lại, đầu thai trở lại như thế
nào, và sự việc xảy ra như thế nào khi đi qua giai đoạn chuyển tiếp giữa hai
kiếp sống. Có một số truyền thống tôn giáo chấp nhận viễn ảnh
của kiếp tương lai, nhưng lại chối bỏ khái niệm về những đời quá khứ.
Nói chung, người Phật tử
tin tưởng rằng không có khởi đầu của sự chào đời và họ tin rằng một khi chúng ta
đạt được giải thoát khỏi vòng xoay luân hồi, bằng cách khắc phục được nghiệp báo
và các tâm thức tiêu cực, thì chúng ta sẽ không phải bị đầu thai trở lại dưới sự
lôi kéo của những điều kiện nghiệp duyên đó nữa. Do đó, người Phật tử tin rằng
có thể chấm dứt việc đầu thai như là kết quả của nghiệp báo và các tâm thức tiêu
cực, nhưng đa số các trường phái triết học Phật giáo đều không chấp nhận
rằng có sự chấm dứt của dòng tâm thức. Việc chối bỏ quá khứ và chối bỏ sự
đầu thai trong tương lai sẽ tương phản với các khái niệm Phật giáo liên quan đến
[các giáo lý thuộc về] nền tảng, đạo và quả, và những điều này cần phải được
giải thích dựa trên một cái tâm thuần thục [được chế ngự] hoặc một cái tâm bất
thuần thục [không được chế ngự].
Đối với những ai có thể
nhớ lại được tiền kiếp thì việc đầu thai
trở lại là một kinh nghiệm rất rõ ràng. Tuy nhiên, đa số những người tầm thường
đều quên đi tiền kiếp của họ khi họ phải trải qua quá trình của cái chết, của
giai đoạn giao chuyển (thân trung ấm) và của việc đầu thai.
Đối với những người này thì đời quá khứ và đời
tương lai có chút mù mờ, nên chúng ta phải dùng luận lý dựa trên chứng cớ rõ rệt
để chứng minh cho họ về kiếp trước kiếp sau.|
Có rất
nhiều những lý giải tranh luận khác nhau được đưa ra dựa trên lời Phật dạy, cũng
như dựa trên những luận giải tiếp nối sau ngài, để chứng minh về sự hiện hữu của
kiếp trước kiếp sau.
Một cách vắn tắt, những lý giải ấy đưa đến 4 điểm như sau: lý luận cho rằng mọi
vật được sinh ra bởi một vật tương tự như nó trước đó, lý luận cho rằng mọi vật
được sinh ra bởi một nguyên nhân nguồn gốc chắc thực trước đó, lý luận cho rằng
tâm thức đã làm quen [huân tập] với những gì trong quá khứ, và lý luận cho rằng
những gì trải qua trong quá khứ là những kinh nghiệm đạt được.
Một cách rốt ráo, tất cả
những lý giải tranh luận trên đây đều dựa trên khái niệm cho rằng bản tánh của
tâm, cùng tánh thông suốt và tánh tỉnh giác [của tâm ấy], bắt buộc phải dựa trên
sự sáng tỏ thông suốt và sự tỉnh giác như là các nguyên nhân chắc thực. Không
thể nào có một thực thể nào khác, chẳng hạn như
là một vật thể vô tri vô giác nào đó, [lại có thể trở thành] nguyên nhân nguồn
gốc chắc thực [đưa đến sự hiện hữu] của bản tâm. Điều này tự
nó có thể chứng minh được. Qua sự phân tích dựa trên luận lý, chúng ta
có thể đi đến kết luận rằng một dòng chảy mới mẻ của sự thông suốt và sự tỉnh
giác [của bản tâm] sẽ không thể nào hiện hữu nếu không có được những nguyên nhân
chắc thực, hoặc không thể nào hiện hữu với những nguyên nhân không liên can.
Trong khi chúng ta quan sát để thấy được rằng tâm thức không thể nào được sản
xuất ra từ một viện bào chế, thì chúng ta cũng có thể đi đến kết luận rằng chẳng
gì có thể diệt trừ được sự tương tục của tánh thông suốt và tánh tỉnh giác
vi tế [của bản tâm].
Theo cái hiểu biết trước
giờ của tôi, không có một nhà tâm lý học, vật lý học hay thần kinh học hiện đại
nào lại có thể quan sát và đoán trước rằng tâm là sản
phẩm đến từ một chất đặc nào đó, hoặc tâm là một sản phẩm không đến từ một
nguyên nhân nguồn gốc nào cả.
Có những
người có thể nhớ lại được ngay cái kiếp mà họ vừa trải qua, kể cả nhiều đời kiếp
trước nữa, và cũng có những người có thể nhận biết ra được những nơi chốn và bà
con họ hàng từ những đời kiếp đó. Đây không phải là việc chỉ xảy ra trong quá khứ.
Ngay cả ngày nay cũng có rất nhiều người ở phương Đông và phương Tây có thể nhớ
lại được những tình huống và kinh nghiệm từ những đời quá khứ.
Nếu chối bỏ điều này trong khi làm khảo cứu thì đó không phải là một cách thức
trung thực và sẽ phiến diện vô cùng, bởi vì điều ấy đi ngược lại với bằng chứng
ở trên. Hệ thống Tây Tạng chứng nhận các vị hoá thân là một phương
thức điều tra nghiên cứu trung thực dựa trên sự hồi nhớ về
những đời kiếp trước của các cá nhân ấy.
Đầu
thai như thế nào
Có thể có hai cách thức mà
một người nào đó có thể đầu thai trở lại sau khi lìa
đời: đầu thai trở lại do sự lôi kép của nghiệp và các tâm thức tiêu cực
nguy hại, và đầu thai trở lại nương vào sức mạnh của lòng từ bi và sự cầu
nguyện. Đối với lại cách thứ nhất, bởi vì do vô minh mà các nghiệp lành và
nghiệp ác được tạo ra và những dấu ấn của các nghiệp này tồn đọng lại trong tâm
thức. Những dấu ấn ấy được kích hoạt trở lại qua sự tham luyến và bám chấp, đưa
dẫn chúng ta đầu thai trở lại trong kiếp kế tới. Sau
đó, chúng ta không tự nguyện mà vẫn cứ bị đầu thai
trở lại trong các cõi cao hơn hoặc thấp hơn. Đây là cái cách mà các chúng sinh
bình thường cứ liên tục, không dứt đoạn, quày tới quày lui trong vòng hiện hữu
của luân hồi, y hệt như là một bánh xe quay.
Nhưng ngay cả trong những hoàn cảnh như thế thì chúng sinh tầm thường với một
tâm nguyện tốt lành cũng có thể nỗ lực tinh tấn tham gia vào các thiện hạnh
trong đời sống hằng ngày. Họ huân tập bản thân trong các thiện hạnh để khi chết đi thì [những
dấu ấn của] các thiện hạnh này lại được kích hoạt trở lại, trở thành những
phương tiện giúp họ tái sinh vào những cõi cao hơn. Ngược lại,
những vị Bồ tát tối thắng, là những người đã đạt đến con đường của cái thấy
(kiến đạo), các vị ấy không đầu thai trở lại do bởi nghiệp lực hay các xúc cảm ô
trược nguy hại lôi kéo, mà do bởi sức mạnh của lòng từ bi của các ngài dành cho
chúng sinh và dựa trên những lời cầu nguyện muốn đem lại lợi lạc cho kẻ khác. Các vị ấy có thể lựa chọn nơi chốn và ngày giờ chào đời, cũng như
lựa chọn cha mẹ tương lai. Một sự đầu thai như
thế, duy nhất bởi vì lợi lạc cho các chúng sinh khác, chính là sự đầu thai xuyên
qua sức mạnh của lòng từ bi và sự cầu nguyện.
Ý nghĩa
của Tulku (hoá thân)
Có vẻ như là phong tục
Tây Tạng về việc sử dụng danh hiệu ‘Tulku’ (Thị Hiện Thân của Phật) dành cho
những vị hoá thân đã khởi sự bắt đầu từ khi những người mộ đạo sử dụng từ Tulku
đó như là một tước hiệu danh dự. Nhưng mà từ đó trở đi
thì cách gọi này trở thành là một biểu lộ thông thường. Nói chung, từ Tulku ám chỉ một khía cạnh đặc biệt của đức Phật,
là một trong ba hay bốn khiá cạnh [phẩm tánh] đã được mô tả trong Kinh thừa.
Dựa trên những giải thích về các phẩm tánh này của đức Phật, một người hoàn toàn
thoát khỏi, không bị trói buộc bởi những tâm thức ô nhiễm nguy hại và không bị
trói buộc bởi nghiệp, người ấy có khả năng đạt được Pháp Thân (Chân Thân) (Truth
Body - Dharmakaya), và Pháp Thân ấy bao gồm Trí Pháp Thân (Wisdom Truth Body) và
Thể Tánh Pháp Thân (Nature Truth Body). Trí Pháp Thân chỉ đến
tâm giác ngộ của một vị Phật; tâm ấy, trong một khoảnh khắc có thể nhìn thấy
trực tiếp mọi thứ, một cách đích xác như chúng thật là.
Tâm ấy hoàn toàn tịnh hoá khỏi các xúc cảm nguy hại, kể cả hoàn toàn tịnh hoá
khỏi các dấu ấn của các tâm thức tiêu cực ấy, xuyên qua việc tích lũy công đức
và trí tuệ qua một thời gian dài. Sau đó, đến Thể Tánh Pháp
Thân, là đang chỉ đến tánh không của chính tâm toàn tri toàn giác ấy. Đây
là hai đặc tánh của chư
Phật dành cho chính các ngài. Nhưng mà bởi vì các phẩm tánh ấy không thể được
trực tiếp tiếp cận bởi những người khác, chỉ có thể xuyên suốt được giữa các vị
Phật với nhau, cho nên bắt buộc chư Phật phải hoá hiện trong hình tướng phàm để
chúng sinh có thể tiếp cận và như vậy thì mới có thể giúp đỡ được chúng sinh.
Vì vậy, khiá cạnh sắc tướng cao nhất của một vị Phật chính là Thọ Dụng Thân (Báo
Thân hay Báu Thân) (Body of Complete Enjoymeng – Sambhogakaya), có thể được tiếp
cận bởi chư Bồ Tát cao tột, và Thọ Dụng Thân thì có năm phẩm tánh, mà một trong
năm phẩm tánh đó là an trú tại cung trời Sắc Cứu Cánh
Thiên (Akanishta). Rồi từ Thọ Dụng Thân ấy lại hoá hiện ra vô lượng vô số Thị Hiện
Thân của chư Phật (Hiện Thân) hoặc Tulku (Nirmanakaya – Hoá Thân). Các vị
hiện ra như là chư
Thiên hoặc loài người và có thể được tiếp cận bởi các chúng sinh bình thường.
Hai đặc tánh mang hình tướng này của Phật được gọi là Sắc Thân
(Form Bodies), có nghĩa là với dành cho những kẻ khác.
Thị Hiện Thân (Emanation
Body) gồm có ba phân loại: a) Hiện Thân Tối Thượng (Supreme Emanation Body)
giống như là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đức Phật lịch sử, đã hoá hiện mười hai
công hạnh của một vị Phật, chẳng hạn như là đảnh sanh vào nơi chốn mà ngài đã
lựa chọn, vân vân; b) Hiện Thân Mỹ Thuật (Artistic Emanation Body) để phụng sự
người khác bằng cách thị hiện như là những nghệ nhân, nghệ sĩ, vân vân; c). Hoá
Hiện Thân (Hoá Thân) (Incarnate Emanation Body) mà qua đó chư Phật hiện ra trong
vô số hình tướng khác nhau như là con người, Hộ Phật, con sông, chiếc cầu, dược
thảo và cây cối để giúp đỡ chúng sinh. Trong số ba loại Thị Hiện Thân này,
sự tái sanh của các vị đạo sư tâm linh được công
nhận và biết đến như là các vị Tulku tại Tây Tạng nằm trong loại Thị Hiện Thân
thứ ba. Trong số các vị Tulku này, có thể có nhiều vị là những Hoá Thân đầy đủ
phẩm tánh thực sự của chư Phật, nhưng điều này cũng không nhất thiết là áp dụng
được cho tất cả các vị Tulku. Trong số các vị Tulku của Tây Tạng, có nhiều
vị là tái sanh của các vị đại Bồ Tát tối cao, của các vị Bồ Tát trên con đường
tích lũy (tư lương đạo) và con đường chuẩn bị (gia hạnh đạo), cũng như là tái
sanh của những vị đạo sư, là những vị tuy qua minh chứng chưa thực sự bước vào đến con đường tư lương đạo và gia hạnh đạo ấy của chư Bồ
Tát. Do đó, danh hiệu Tulku được dành cho các vị Lama tái sanh được đặt trên cơ
sở rằng các ngài [không khác nào] giống như là các vị giác ngộ, hoặc do
bởi các ngài có sự kết nối với một số các phẩm hạnh nào đó của chư vị giác ngộ.
Như đức Jamyang Khyentse
Wangpo đã có nói:
“Tái sanh là chuyện xảy ra
khi một người nào đó đầu thai trở lại sau khi vị tiền nhiệm qua đời; hiện thân
là khi một sự hoá hiện xảy đến mà không cần có sự qua đời của vị
[hoá thân] gốc.”
Tuyên
nhận các hoá thân
Viện
tuyên nhận ai là ai qua, việc nhận diện đời trước của một người nào đó, việc ấy
xảy ra ngay cả khi chính đức Phật Thích Ca còn tại thế. Có rất nhiều câu chuyện
đã được tìm thấy trong Phẩm thứ tư - Agama (Ngũ Bộ Kinh) của Luật Tạng, trong
Truyện Tiền Thân Phật, trong Kinh Hiền Ngu, Kinh Bách Nghiệp và vân vân. Trong
đó, Như Lai đã khai mở về luật vận hành của nhân quả, kể lại vô lượng vô số câu chuyện về những
ảnh hưởng nghiệp báo của đời trước được một người nào đó trải nghiệm trong
đời này ra sao. Thêm vào đó, trong chuyện cuộc đời của
những vị đạo sư Ấn Độ là những người đã sống sau thời đại đức Phật, cũng khai mở
cho ta thấy về những nơi chốn chào đời trong những kiếp quá khứ của các vị ấy. Có rất nhiều những câu chuyện như thế, nhưng hệ thống công nhận và
thứ tự hoá các vị tái sanh đã không xảy ra tại xứ Ấn.
Những hệ
thống tuyên nhận các vị tái sanh tại Tây Tạng
Trước khi đạo Phật
đến Tây Tạng thì kiếp trước kiếp sau cũng đã được công nhận trong truyền
thống bản xứ thuộc đạo Bon của Tây Tạng. Và từ khi Phật giáo được truyền bá tại Tây Tạng thì gần như tất cả
mọi người dân Tây Tạng đều tin vào kiếp trước kiếp sau. Việc
đi điều tra, tìm kiếm tái sanh của rất nhiều vị đạo sư tâm linh, là những người
duy trì Phật pháp, cũng như phong tục cầu nguyện các vị ấy một cách vô cùng
thành tín, tất cả đã trở thành những điều được thực hành rộng rãi ở khắp
nơi trên xứ Tây Tạng. Có rất nhiều những kinh văn chính thống, các văn
liệu bản xứ của Tây Tạng, chẳng hạn như Mani Kabum hoặc Giáo Lý Năm Nhánh
Kathang cùng những tài liệu tương tự như Tập Luận của Các Đệ Tử Kadam hoặc Chuỗi
Châu Bảo: Giải Đáp Các Thắc Mắc, là những tài liệu được kể lại bởi vị đạo sư Ấn
Độ vô song, ngài Dipankara Atisha của thế kỷ thứ mười một tại Tây Tạng, trong đó
có kể lại về những câu chuyện của các tái sanh của Thánh giả Quán Thế Âm, Bồ Tát
của Đại Từ Bi. Tuy thế, truyền thống chính thức tuyên nhận các vị tái sanh của
các đạo sư như truyền thống tái sanh ngày nay đã khởi sự bắt đầu vào đầu thế kỷ
thứ mười ba qua sự việc ngài Karmapa Pagshi đã được chính các đệ tử của ngài
tuyên nhận ngài là tái sinh của [vị tiền nhiệm] Karmapa Dusum Khyenpa, dựa trên
chính những chỉ dẫn được để lại cho đệ tử bởi vị tiền nhiệm ấy. Từ đó trở đi, đã
có mười bảy hoá thân Karmapa trong hơn chín trăm năm nay. Cũng giống như thế,
bắt đầu từ việc tuyên nhận ngài Kunga Sangmo là tái sanh của ngài Khandro
Choekyi Dronme của thế kỷ thứ mười lăm cho đến nay thì đã có mười vị tái sanh
của Samding Dorje Phagmo. Cho nên, trong số các Tulku được tuyên nhận tại
Tây Tạng, có những vị là tu sĩ và những vị là hành giả Mật thừa, cả nam lẫn nữ. Hệ thống tuyên
nhận các vị tái sanh dần dần lan truyền đến các truyền thống Phật Giáo Tây Tạng
khác, kể cả đạo Bon, ở Tây Tạng. Ngày nay, có những vị Tulku được tuyên nhận
trong khắp bốn truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, Sakya, Geluk, Kagyu và Nyingma,
cùng với Jonang và Bodong, là những vị hiến mình cho Giáo pháp.
Nhưng cũng có những trường hợp cho thấy là trong số các vị Tulku ấy, có những vị
đáng phải hổ thẹn.
Đấng toàn giác Gedun Drub,
một đệ tử tâm truyền của ngài Je Tsongkhapa, đã khai lập tu viện Tashi Lhunpo
tại vùng Tsang và đã chăm lo cho các đệ tử của ngài. Đại sư Gedun Drub thị tịch
vào năm 1474 vào tuổi 84. Cho dù lúc đầu, chẳng có nỗ lực nào để nhận diện lại
tái sanh của ngài, nhưng cuối cùng người ta bị buộc phải tuyên nhận đứa trẻ tên
Sangye Chophel, ra đời vào năm 1476 tại Tanak ở vùng Tsang, bởi vì những gì đứa
trẻ đó nói ra cho thấy nó có một trí nhớ cực kỳ tuyệt vời và không chút gì sai
trật về cuộc đời trong quá khứ. Từ đó trở đi, một truyền thống tái sanh đã khởi
sự bắt đầu, chuyên đi tìm kiếm và tuyên nhận lại những vị tái sanh kế tiếp của
các vị Đạt Lai Lạt Ma do Gaden Phodran Labrang, và sau đó, do Chính Quyền Gaden
Phodran, điều hành.
Cách
thức tuyên nhận các vị tái sanh
Sau khi
hệ thống tuyên nhận các vị Tulku bắt đầu hiện diện [tại Tây Tạng], có nhiều cách
thức khác nhau đã được khởi sự và phát triển. Trong số những phương cách khác nhau này thì phương cách
quan trọng nhất liên quan đến lá thư tiên đóan của vị tiền nhiệm cùng với những
hướng dẫn và những dấu hiệu khác nhau có thể xảy đến; hoặc qua cách vị tái sanh
nhớ lại và kể lại một cách đáng tin cậy về chuyện đời trước; hoặc qua cách vị ấy
nhận diện ra được những vật dụng thuộc về vị tiền nhiệm hoặc nhận diện ra được
những người thân cận trong đời trước. Ngoài những phương thức ấy ra, còn
có thêm những phương thức bổ túc khác, chẳng hạn như là thỉnh xin các tiên đoán
của những vị đạo sư tâm linh đáng tin cẩn, cũng như hỏi xin tiên đóan của những
vị thầy tiên tri thế tục (oracle) trong khi các vị này đang ở trong trạng
thái xuất thần, hoặc quan sát các linh ảnh hiện tra trong những hồ nước thiêng
của những vị hộ pháp như là Hồ Lhamoi Latso, là hồ nước linh thiêng ở về phiá
nam Lhasa.
Khi xảy ra sự việc có
nhiều hơn là một người ứng tuyển tương lai có thể được
tuyên nhận là một vị Tulku, và quyết định lựa chọn tối hậu trở thành việc quá
khó khăn, thì có một phương pháp tiên đoán nữa được đem ra sử dụng, đó là việc
dùng những viên bột (zen tak) ngay trước một linh ảnh trong khi khẩn thiết thỉnh
nguyện năng lực của chân lý nhiệm mầu.
Hiện
thân trước khi vị tiền nhiệm qua đời (ma-dhey tulku)
Thông thường, một vị tái
sanh phải là một người đầu thai trở lại làm một con
người khác, sau khi vị tiền nhiệm qua đời. Thông thường, các chúng sinh
bình thường không thể hoá thành ra một hiện thân khác trước
khi họ chết (ma-dhey tulku), nhưng chư vị đại Bồ Tát tối cao, là những
người có thể đồng lúc hoá hiện trong trăm ngàn hình tướng khác nhau, các vị ấy
có thể hoá hiện ra một hiện thân ngay cả trước khi các vị ấy lìa đời. Trong
truyền thống tuyên nhận Tulku của Tây Tạng, có những hiện thân thuộc vào cùng
một dòng tâm thức với vị tiền nhiệm, có những hiện thân có sự liên hệ với nhau
qua năng lực của nghiệp duyên và sự cầu nguyện, và có những hiện thân đã hoá
hiện như là kết quả của sự gia trì và phó thác.
Mục đích chính yếu của sự
hoá hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền
nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hoá độ] chúng sinh.
Trong trường hợp của một vị Lama như một người bình thường, thay vì có một vị
tái sanh thuộc vào cùng trong một dòng tâm thức, thì một người nào đó với những
liên hệ kết nối [tâm linh] với vị Lama ấy, xuyên qua phước duyên thanh tịnh và
[năng lực] cầu nguyện, thì người đó cũng có thể được công nhận là hiện thân của
vị Lama. Một cách khác hơn nữa, cũng có thể là vị Lama sẽ bổ nhiệm một người kế
thừa, và người kế thừa, có thể là một đệ tử hoặc một người nào đó trẻ tuổi hơn,
sẽ được tuyên nhận là hiện thân của vị Lama kia. Bởi vì những sự lựa chọn như
vậy cũng có thể xảy ra trong trường hợp của một chúng sinh bình thường, nên
trường hợp có một vị hiện thân không thuộc vào
cùng một dòng tâm thức cũng có thể xảy ra trước khi [vị tiền nhiệm] lìa đời.
Trong một số trường hợp, một vị đại cao tăng Lama cũng
có thể có một vài tái sanh khác nhau đồng một lúc, chẳng hạn như hiện thân của
thân, hiện thân của khẩu và hiện thân của ý, vân vân. Trong thời hiện đại, có những trường hợp nhiều người biết đến, ấy là
có những vị hiện thân đã hóa hiện trước khi [vị tiền nhiệm] lìa đời, chẳng hạn
như là trong trường hợp của ngài Dudjon Jigdral Yeshe Dorje và ngài Chogye
Trichen Ngawang Khyenrab.
Sử dụng
chiếc Lư Vàng
Bởi vì thời mạt pháp này
ngày càng tệ mạt, và bởi vì các tái sanh của những vị Lama cao trọng được tuyên
nhận ngày càng nhiều, lại có một số vị được tuyên nhận bởi các động lực chính
trị, nên con số những vị tái sanh được công nhận qua các phương pháp không đúng
đắn và đáng hồ nghi ngày càng cao, và kết quả của sự việc này là gây ra một tai
hại hết sức to lớn cho Đạo pháp.
Trong giai đoạn xung đột
giữa Tây Tạng và Gurkha (1791-93), chính phủ Tây Tạng đã phải cầu cứu sự hỗ trợ
của quân đội Mãn châu (Manchu). Kết cuộc là quân đội Gurkha đã bị đánh đuổi khỏi
lãnh thổ Tây Tạng, và sau đó, chính quyền Mãn châu đã soạn ra một bản kiến nghị
29 điểm dựa trên cái cớ là giúp cho cơ quan điều hành của Chính Phủ Tây Tạng
thêm phần hiệu quả. Kiến nghị này gồm có những đề nghị về việc có thể bắt thăm
từ một chiếc Lư Vàng [chiếc bình làm bằng vàng] để quyết định về việc công nhận
tái sanh của các vị Đạt Lai Lạt Ma, của các vị Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama)
cũng như của các vị Hutuktu - một tước hiệu Mông Cổ dành cho những vị Lama cao
trọng. Do đó, phương thức bắt thăm này đã được noi theo
trong một vài trường hợp tuyên nhận hóa thân của Đạt Lai Lạt ma, Ban Thiền Lạt
Ma hoặc một vài vị Lama cao trọng khác. Nghi thức cần phải noi
theo đã được viết xuống bởi đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Tám, ngài Jamphel
Gyatso. Cho dù sau khi một hệ thống như vậy đã được giới thiệu trước đây,
nhưng trong trường hợp của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Chín, thứ Mười Ba và trong
trường hợp bản thân tôi, Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Bốn, thì phương thức bắt
thăm từ chiếc Lư Vàng đã được bãi bỏ.
Ngay cả trong trường hợp
của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười, vị hoá thân đích thực đã được tìm thấy và trên
thực tế thì cái phương thức trên không hề được tuân theo, nhưng để làm vui lòng
người Mãn châu, đã có một công bố ra đời, đơn giản báo cho họ biết rằng nghi
thức đó đã được sử dụng.
Hệ thống
chiếc Lư Vàng thật ra chỉ được sử dụng trong hai trường hợp duy nhất là Đạt Lai
Lạt Ma đời thứ Mười Một và đời thứ Mười Hai. Tuy nhiên, Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Hai đã được tuyên nhận trước
khi cái phương thức chiếc Lư Vàng được áp dụng.
Và vì vậy cho nên, chỉ có duy nhất một trường hợp Đạt Lai Lạt Ma được lựa chọn
dựa vào chiếc Lư Vàng. Cũng như thế, trong số các hoá thân của Ban Thiền
Lạt Ma, ngoại trừ đời thứ Tám và đời thứ Chín, không có một trường hợp nào
khác mà phương cách này được sử dụng. Hệ thống bắt thăm này đã được
áp đặt bởi chính quyền Mãn châu, nhưng người Tây Tạng không có chút niềm tin nào
vào điều này bởi vì việc này thật sự chẳng mang một tính cách tâm linh nào cả.
Dù là như thế, nếu phương cách này được sử dụng một cách chân thành, thì cũng
chúng ta cũng có thể xem đó tương tự giống như cách thức tiên đoán dựa trên việc
sử dụng các viên bột (zen tak).
Vào năm
1880, trong thời điểm tuyên nhận Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Ba là hoá thân của
đời thứ Mười Hai, ta thấy vẫn còn hiện hữu những dấu vết của sự liên hệ Đạo Sư
và Bảo Hộ giữa Tây Tạng và Mãn châu. Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Ba đã được tuyên
nhận là vị hoá thân đích thực không hề sai trật từ đức Ban Thiền Lạt Ma đời thứ
Tám, từ những tiên đóan của các vị thầy tiên tri (oracle) thuộc [hai tu viện]
Nechung và Samye, cùng với việc quan sát những linh ảnh hiện ra trong Hồ Lhamoi
Latso, và do đó, nghi thức chiếc Lư Vàng đã không được noi theo. Ta có thể
hiểu về điều này rất rõ ràng xuyên lá chúc thư cuối cùng của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Ba, viết
vào năm Con Khỉ Nước (1933), trong đó ngài có nói rằng:
“Như tất cả các ông đã
biết, tôi đã được lựa chọn, không từ cái tập quán lựa chọn bắt thăm từ chiếc Lư
Vàng, mà tôi đã được lựa chọn dựa trên những lời tiên tri và tiên đoán.
Theo đúng như những lời tiên tri và tiên đoán mà tôi đã được tuyên nhận là tái
sanh của Đạt Lai Lạt Ma và đã được tấn phong.”
Khi bản thân tôi được công
nhận là hoá thân đời thứ Mười Bốn của Đạt Lai Lạt Ma vào năm 1939 thì liên hệ
Đạo Sư và Bảo Hộ giữa Tây Tạng và Trung Hoa đã chấm dứt [trước đó] rồi.
Vì vậy cho nên, không có cần phải đặt câu hỏi về nhu cầu sử dụng chiếc Lư Vàng
để xác nhận việc tuyên nhận hoá thân của tôi.
Điều mà rất nhiều người biết là vị Nhiếp Chính của Tây Tạng vào thời điểm đó
cùng với Hội
Đồng Quốc Gia Tây Tạng đã tuân theo phương thức tuyên nhận Đạt Lai Lạt Ma dựa
trên những tiên đóan của các vị Lama cao trọng, của các vị thầy tiên tri cùng
với các linh ảnh hiện ra tại Hồ Lhaomi Latso; và Trung Quốc không có bất
kỳ một liên hệ dính líu gì đến việc này. Cho dù là như thế, có một số nhân
viên cao cấp có liên hệ trong chính quyền Trung Quốc Quốc Dân Đảng
( Guomintang), đã xảo quyệt tung ra những lời nói dối trong giới báo chí
nói rằng họ đã đồng ý có những bước đi trước qua việc sử dụng cái Lư Vàng, và
nói thêm rằng ông Wu Chung-tsin đã chủ toạ lễ tấn phong của tôi, vân vân. Lời
nói dối này đã được vạch trần bởi Ngabo Ngawang Jigme, Phó Chủ Tịch Ủy Ban
Thường Trực của Hội Nghị Quốc Gia Nhân Dân, một người được Cộng Hoà Nhân Dân
Trung Hoa xem là nhân vật cấp tiến nhất. Điều này đã trở nên rất rõ ràng
trong Phiên Họp thứ Nhì của Hội Nghị Toàn Vùng Tự Trị Tây Tạng (ngày
31/07/1989), khi vào cuối bài diễn văn, ông ta đã giải thích chi tiết tường tận
và trưng bày cho mọi người xem các văn kiện như là các chứng cớ. Rồi ônh ta lên
đòi hỏi:
“Có nhu cầu nào để cho
Đảng Cộng Sản theo
chân và tiếp tục những lời nói dối của Trung Quốc Quốc Dân Đảng không?”
Chánh
sách giả dối và hy vọng hão huyền
Trong thời gian vừa qua,
có những trường hợp của những người quản lý vô trách nhiệm, chuyên quản lý gia tài bất động sản giàu có kếch sù của những Lama.
Những người này đã ham mê chạy theo những cách thức
công nhận tái sanh một cách bất chính và điều này đã làm hại đến thanh danh của
Giáo pháp, của cộng đồng tu sĩ cũng như của xã hội của chúng ta.
Thêm vào đó, từ thời Mãn
châu đến nay, các giới chính trị có thế lực của Trung Hoa thường xuyên tham dự
trong các phương tiện đầy xảo trá, sử dụng Phật giáo, các vị thầy của Đạo Phật
cũng như các vị hoá thân Tulku như là các công cụ để hoàn thành các tham vọng
chính trị của họ, qua việc họ can thiệp vào các vấn đề của Tây Tạng và Mông Cổ.
Ngày nay, những nhà lãnh đạo độc đoán của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, là những
người cộng sản chối bỏ tôn giáo nhưng lại vẫn tham dự vào các vấn đề tôn giáo,
họ đã áp đặt cái gọi là chiến dịch giáo dục cải
tạo, và tuyên bố về cái gọi là Trật Tự Thứ Năm, liên quan đến việc kiềm chế và
công nhận các vị tái sanh, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng Chín, năm 2007.
Điều này thật là một sự xúc phạm và đáng bỉ hổ. Việc bắt ép tuân
theo những cách thức không thích đáng khác nhau để công nhận các tái sanh [với
mục đích] xóa sạch truyền thống đặc thù của văn hoá Tây Tạng hiện đang tạo ra
những thiệt hại rất khó chữa lành.
Thêm vào đó họ nói là họ
đang chờ tôi chết đi và rồi họ sẽ tuyên nhận Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Lăm
theo
sự lựa chọn của họ. Điều này thật rõ ràng, là qua các quy luật, điều luật mới
đây, cũng như qua các tuyên ngôn của họ tiếp theo sau đó , họ có một chánh sách
rất chi tiết để lừa gạt người Tây Tạng, cùng lừa gạt những môn đồ của truyền
thống Phật Giáo Tây Tạng và cộng đồng thế giới. Do đó, bởi vì tôi có trọng
trách phải bảo vệ Giáo pháp và chúng sinh, và ngăn chặn các âm mưu nguy hại ấy,
nên tôi phải đưa ra lời công bố sau đây.
Tái sanh
kế tiếp của Đạt Lai Lạt Ma
Như tôi đã có nhắc đến
trước đây, tái sanh là một hiện tượng chỉ nên xảy ra, hoặc là qua sự tình nguyện lựa chọn của cá nhân có liên hệ,
hoặc ít nhất là cũng qua sức mạnh của nghiệp duyên, phước báu và sự cầu nguyện.
Bởi thế cho nên, cá nhân người tái sanh có toàn quyền quyết định là muốn tái
sanh ở đâu, tái sanh bằng cách nào và qua hình thức nào mà vị tái sanh sẽ được
tuyên nhận. Đây là một thực tại không ai có thể ép buộc,
hoặc sử dụng mánh khoé để thao tác. Điều này đặc biệt lại càng
không đúng đắn nếu những người cộng sản Trung Quốc, là những người dứt khoát
chối bỏ ngay chính cái ý niệm về kiếp trước kiếp sau chứ đừng nói chi đến khái
niệm về những vị Tulku tái sanh, bây giờ lại muốn can thiệp vào hệ thống [tuyên
nhận] tái sanh, và nhất là tái sanh của các vị Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt
Ma. Điều này đi ngược lại với hệ tư tưởng chính trị của họ và mở ra
cho ta thấy là họ có hai bộ mặt. Nếu tình trạng như thế này tiếp
diễn trong tương lai, thì không thể nào người dân Tây Tạng và những ai đang đi
theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng có thể công nhận hay chấp nhận được.
Khi tôi vào khoảng chín
mươi tuổi, tôi sẽ tham vấn với những vị Lama cao trọng thuộc các truyền thống
Phật Giáo Tây Tạng, cùng với cộng đồng Tây Tạng và những người có liên hệ
đang noi theo Phật Giáo Tây Tạng. [Vào lúc đó] tôi sẽ
thẩm địnnh lại về cơ chế Đạt Lai Lạt Ma xem có nên tiếp tục hay không.
Dựa trên căn bản đó, chúng ta có thể đi đến một quyết định. Nếu [vào lúc
đó] có quyết định là tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma cần phải tiếp tục và có nhu cầu
để Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Lăm được tuyên nhận thì trọng trách của việc
tuyên nhận hoá thân phần lớn sẽ nằm trong tay của những nhân viên có liên hệ
[được uỷ quyền], thuộc cơ quan Gaden Phodrang Trust của Đạt Lai Lạt Ma. Những vị
này cần phải tham vấn với các vị thủ ngôi trì giữ các truyền thống tu tập khác
nhau trong Phật Giáo Tây Tạng, cùng tham vấng với những vị Hộ Pháp tín cẩn, là
những vị đã được nối kết chặt chẽ không phân lìa và đã tuyên thệ [trung thành]
với dòng truyền thừa của các vị Đạt Lai Lạt Ma. Những nhân viên [được uỷ thác
này] cần phải nhận lấy những lời khuyên và hướng dẫn từ các vị có liên hệ và thi
hành phương thức tìm kiếm và tuyên nhận dựa theo
truyền thống trong quá khứ. Tôi sẽ để lại những lời hướng dẫn rõ ràng minh
bạch về việc này. Hãy ghi khắc trong tâm khảm rằng, ngoại trừ vị tái sanh
được tuyên nhận xuyên qua những phương cách chính thống như thế, thì không thể
công nhận hay chấp thuận một ứng viên nào được
lựa chọn từ những lý do chính trị, bởi bất kỳ ai, kể cả bởi những người thuộc
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.
Đạt Lai Lạt Ma
Dharamsala
Bản Việt ngữ (dịch tạm) được Konchog Jimpa Lhamo chuyển
dịch từ bản Anh ngữ vào ngày 26/09/2011.
Bản Anh ngữ được chuyển dịch từ bản Tạng ngữ và được đăng tải trên trang nhà
chính thức của đức Đạt Lai Lạt Ma: www.dalailama.com.
Theo: TVHS