Nhớ thuở "vỡ lòng" xa ngái

 

 (Kính dâng cố dưỡng phụ với lòng biết ơn vô hạn)

 

Ninh Giang Thu Cúc

 

Giờ ngồi hình dung lại những tháng ngày thần tiên xa xưa ấy, lòng tôi bỗng quặn đau thương nhớ “những người muôn năm cũ”.

Dạo ấy, ngày khai tâm của tôi không phải tại trường mà tại nhà, và thay vì lễ là một mâm xôi gà như thường lệ thì mẹ tôi lại biện một lễ chay với hoa quả xôi chè cau trầu rượu để cáo tổ tiên, tôi được ngồi vào bàn học sau khi đã đứng sau thầy tôi lễ lạy đủ các án thờ.

Người mà tôi gọi bằng thầy với tất cả niềm tôn kính là một vị võ quan trí sĩ của triều Nguyễn, ông là một người thượng thông thiên văn hạ tri địa lý, và dược lý, y lý đều am hiểu rành rẽ. Vào giai đoạn cuối đời, ông ẩn cư tại một ngôi nhà trong khuôn viên miếu đường thờ thân phụ là cố Tiền Quân Đô Thống tại làng An Ninh Hạ, kế thất của vị võ quan là bà cô ruột tôi vì bà không có con nên xin nhận tôi làm con thừa tự từ lời ký thác của cụ thân sinh tôi trước khi xung phong đi Vệ Quốc Quân kháng chiến chống Pháp.

Tôi được nghe kể lại thuở bé, tôi là đứa khó nuôi, ưa làm nũng và khóc nhè, bà vú Sáu đã từng khốn khổ mỗi lần bồng tôi chạy tản cư từ phố lên làng (thuở ấy nhà tôi ở đường Hàng Bè) bởi trên đường đi tôi cứ khóc ngằn ngặt đến nỗi mỗi khi xuống hầm trú ẩn để tránh máy bay, tránh Tây đi lùng là vú Sáu phải nhét khăn vào miệng tôi để khỏi bị phát giác. Tôi được dưỡng phụ dạy vỡ lòng với một chương trình khá nặng bởi không chỉ là học thuộc 24 chữ cái, vần xuôi, vần ngược, đánh vần, tập đọc như lệ thường, mà khi tôi vừa nhận được mặt chữ và nhớ được từ số một đến số mười là ông cụ “nạp” cho nào cửu chương, toán số. Vừa đánh vần vừa đọc Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca và phải học thuộc lòng hết thảy, bắt học luôn cả kinh Bát Nhã, chú Đại Bi, chú Vãng Sanh… bài chú đầu tiên tôi được học là bài Thất Phật diệt tội chơn ngôn. Cứ 4 giờ sáng, hai ông bà dậy tụng kinh là tôi cũng được kêu dậy quỳ sau lưng các cụ để lạy Phật và đọc theo các bài kinh đã thuộc, tụng xong thời công phu sáng là ông dắt tôi ra sân đứng xem ông luyện võ đi quyền. Và sau đó, ông dạy tôi học võ. Tôi – một con bé con hỉ mũi chưa sạch cũng xuống tấn, bái tổ như ai, cứ nhì nhằng học cho đến một hôm thầy đang bày cho tôi tập thế “Song Long Quá Hải” thì tôi bỗng rớt xuống đất cái bịch như trái mít ướt sút cùi bởi vừa lạnh vừa buồn ngủ và đói bụng (mùa đông Huế mà). Cô tôi cũng là mẹ nuôi của tôi cưng tôi ghê gớm, bà thất kinh hồn vía với cú ngất xỉu ấy nên năn nỉ với ông đừng dạy tôi học võ nữa, thế là “sự nghiệp võ thuật” của tôi kết thúc từ buổi sáng ấy… Sau này, mọi người trong nhà cứ theo chọc tôi là hai con rồng bị chìm khi qua biển, Song Long Quá Hải mà, dị chưa…

Ngày hai buổi ông kèm cặp tôi không rời nửa bước, khi tôi đọc thông là phải viết tập, mà không phải chỉ viết vài trang trong môt buổi đâu, cứ mỗi ngày đều phải viết lại những bài kinh, bài thơ đã học thuộc lòng trước đó, rồi lại học Tam Tự Kinh bằng cách ông phóng lớn từng chữ một lên lưng của bìa lịch cũ và tôi phải đồ lại từng nét, rồi giảng giải niêm luật thơ Đường. Chao ôi! Tôi – con bé mới tám chín tuổi đầu – bị xoay như cái chong chóng theo chương trình đào tạo “tổng hợp” của một ông thầy quá nhiều tham vọng đầu tư trí tuệ cho đứa con nuôi mà ông bà đã nhận lời gửi gắm của người em với hứa hẹn sẽ “dạy dỗ nên người”. Sau này, tôi thường tự hỏi: “Sao thuở đó mình không bị “tẩu hỏa nhập ma” với lối dạy thiếu phương pháp sư phạm như rứa…”

Cứ mỗi lần tôi ngồi làm toán là mẹ đẻ và vú tôi cứ thập thò ngoài cửa sốt ruột bởi thấy tôi vừa thút thít vừa nhẩm cửu chương để làm toán nhân, còn thầy ngồi đối diện tay cầm roi mây nhịp nhịp nghiêm nghị. Tôi là một con bé chúa lơ đãng, cứ lúi húi một lúc lại nhìn ra cửa sổ theo dõi từng chiếc lá, từng giọt nắng ngoài hiên, vậy là cây roi mây trên tay thầy tôi lại nhúc nhích và tôi òa khóc… Chỉ đợi có thế, một trong hai người đàn bà thân yêu của tôi xuất hiện hoặc mẹ nuôi hoặc mẹ đẻ xin cho tôi “ra chơi”. Chạy bay ra khỏi tầm mắt của thầy là tôi tha hồ được đền bù đủ thứ khi thì bánh kẹo, khi thì chè chuối chi đó… Thấy tôi khổ sở trong những lúc học toán, mẹ nuôi tôi tìm cách giải phóng “giờ toán” cho tôi bằng một lý do mà sau này mỗi lần nhớ lại tôi vừa khóc vì cảm động và vừa cười bởi nó “húy tiếu” chi lạ.

Số là nhà tôi có một “chị” gà mái đẻ; tính rất là chướng kỳ, luôn bắt nạt các chị em trong đàn lại quái đản là không có bản chất làm mẹ bởi cứ mỗi lần “khai hoa nở nhụy” xong là chị ta quay lại mổ và ăn tươi nuốt sống cái trứng còn đỏ hỏn nóng hôi hổi vừa mới lọt lòng. Giờ giấc chị ta “lâm bồn” khớp với giờ tôi đang làm toán (10 giờ sáng). Mẹ tôi đợi một buổi sáng chị mái mơ vừa cục tác vừa nhảy ổ sau chuồng là bà lên xin thầy cho tôi nghỉ để ra “canh chừng chị gà đẻ xong thì đuổi nó xuống để khỏi mất trứng”. Cái lý do chẳng thuyết phục được vị gia sư đầy tâm huyết chút nào, nhưng nể tình nội tướng ông đành gật đầu miễn cưỡng. Thế là cứ mỗi buổi sáng đến lúc học toán tôi ngong ngóng nghe tiếng gà cục tác tìm ổ là vội xếp vở cúi đầu xin phép thầy đi “canh gà đẻ” nhảy chân sáo ra vườn tha hồ nhìn hoa rơi lá rụng chẳng đoái hoài chi đến trứng với lại gà, tôi lại còn phải cảm ơn chị mái nạ dòng ấy, vì nhờ chị ta mà tôi khỏi vật lộn với mấy con số đau đầu. Rất nhiều kỷ niệm vừa nghiêm túc vừa bi hài trong giai đoạn thầy dạy tôi học. Có lúc thầy nghiêm nghị lạnh lùng, cao vời trên bục giảng học đường nhưng lúc nào cũng đức độ nhân từ thương tôi như con đẻ, đã nâng đỡ dìu dắt tôi từ thơ ấu cho đến trưởng thành. Thế mà tôi – tôi chưa làm được điều gì để đền ơn trả nghĩa tấm tình cao đẹp ấy, thậm chí đến lúc thầy sắp mất – chị Hồng Oai, người con gái lớn của thầy (con bà trước) ở Tuy Hòa ra Quy Nhơn đưa tôi về Huế gặp thầy lần cuối cùng nhưng phòng bán vé máy bay không chịu bán vé bởi tôi đang ở tuần chót của thời kỳ sinh nở. Chị Hồng Oai về Huế 5 hôm thì thầy tôi mất cùng lúc tôi đang sinh cháu bé tuổi Dậu (1969), tôi ôm con nằm khóc thương thầy và giận bản thân mình.

Thầy yêu kính, qua 36 năm ở miền an nghỉ chắc thầy luôn nhớ về con, phần con không khi nào quên thầy được, hình ảnh thầy con luôn ghi khắc. Con nguyện sống xứng đáng với sự giáo huấn của thầy không những ở thời kỳ vỡ lòng mà suốt 24 năm trời trước khi con thành gia thất, con nhận được ở thầy nhiều lắm, con chỉ biết trả hiếu nghĩa bằng cách sống với những điều tốt đẹp về đạo, về đời mà thầy đã từng răn dạy. Con cũng xin phép thầy được thực hiện nguyện vọng của thầy mợ thuở sinh tiền là sau khi mãn phần cho dù ở Từ đường có bổn phận thờ cúng nhưng thầy vẫn muốn ở chùa hơn – vì thế cách đây mười năm, con xin thỉnh di ảnh của thầy mợ và ba mẹ con lên thờ ở chùa Từ Hiếu là Tổ đình của nhà ta để chư vị hương linh được thường xuyên thính pháp.

Hôm nay, qua chuyên đề của Nhớ Huế con xin được ghi lại chút kỷ niệm một thời thơ ấu con được hạnh phúc dưới gối thầy và xin được thưa cùng chị Hồng Oai (tức bà quả phụ B.H.V, ở Tuy Hòa - 12 Huỳnh Thúc Kháng) em vẫn nhớ mãi lời tâm sự của chị khi chúng ta nằm bên nhau ở nhà em tại Quy Nhơn. Chị bảo: “Dì sướng hơn chị bởi chị xa thầy quá sớm nên không được thầy dạy dỗ như thầy đã dạy dỗ dì”. Vâng, chúng con ai cũng muốn gần thầy.

Thầy ơi!

Vỡ lòng thầy giáo của con

Trải bao dâu bể vẫn tròn kính thương

Con đi xuôi ngược mười phương

Qua trường nhìn trẻ vấn vương nghĩa thầy

Con hình dung cảnh sum vầy

Sưởi lòng bớt lạnh phút giây độc hành

Tóc con giờ đã hết xanh

Vẫn thương nhớ thuở sau mành ê a.

 

ảnh: chùa Từ Ân, làng Xuân Hòa

Chia sẻ: facebooktwittergoogle