Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Đức Phật tiết lộ:
- Người ấy chính là tiền thân đại phạm
thiên Sahampati, bạn của Như Lai từ thời đức Thế Tôn Kassapa - một người bạn tối
thượng, như một viên ngọc tối thượng!
Hôm ấy, đức Thế Tôn
Kassapa từ thị trấn Vebhaliṅga tại miền
Bắc, du hành cùng với đại chúng tỳ-khưu đến xứ Bārāṇasī, ngụ
tại Isipatana.
Vua xứ Kāsi, tên là Kikī, nghe vậy, liền
cho thắng các cỗ xe mỹ diệu, thù thắng; với nghi vệ của bậc đại vương cao sang
đến yết kiến đức Phật.
Nghe xong thời pháp, đức vua xứ Kāsi
hoan hỷ, phấn khích - mời thỉnh đức Thế Tôn cùng đại chúng, ngày mai đặt bát
cúng dường tại hoàng cung.
Thế rồi, sau buổi cúng dường lớn với
thượng phẩm, với mỹ vị - đức vua còn mời thỉnh đức Phật và đại chúng
an
cư mùa mưa tại Bārāṇasī để ông có cơ hội hộ trì Tam Bảo, tích lũy thêm công đức!
Đức Phật đáp:
- Như Lai và chư
tăng đã nhận lời mời nơi khác rồi, tâu đại vương!
Lần thứ hai, lần thứ
ba, đức Phật cũng lặp lại là có người mời thỉnh rồi.
Đức vua Kikī tâm tư sầu muộn, tự nghĩ:“Đức
Thế Tôn không nhận lời mời làm cho ta mất an lạc! Chẳng lẽ,
trên đời này lại có người đàn tín hộ trì tối thượng hơn ta? Hơn một bậc
đại vương giàu sang với quyền uy và danh tiếng lẫy lừng?” Bèn thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ đức Thế Tôn và đại chúng tỳ-khưu đã có một đại thí chủ khác,
với công đức thù thắng hơn đệ tử, là Kikī, vua xứ Kāsi?
- Không phải vậy! Nhưng xin đừng có sầu
não quá thế, đại vương!
Đức vua xứ Kāsi thở dài, cất giọng buồn
bã, có vẻ như tủi thân, tủi phận:
- Trước đây, đệ tử tưởng rằng, đệ tử là
phú quý đệ nhất, tài sản cung khố đệ nhất; trân châu, ngọc báu cũng đệ nhất -
hóa ra không phải vậy. Đức Thế Tôn và đại chúng tỳ-khưu đã có một đại thí chủ mà
cái gì cũng hơn đệ tử cả!
- Không phải vậy, đại vương hiểu lầm
rồi! Người ấy đúng là đàn tín hộ trì tối thượng,
nhưng y chẳng phải là bậc giàu sang vương giả, phú quý đệ nhất, đệ nhị gì cả!
Đức vua Kikī mở tròn mắt:
- Tại sao?
- Đại vương có muốn
nghe không, Như Lai sẽ kể về người đàn tín hộ trì tối thượng ấy?
- Thưa, rất muốn nghe!
Thế là đức Phật Kassapa kể:
- Có một thị trấn tên là Vebhaliṅga, tại đấy có người thợ gốm tên là Ghaṭīkāra, anh ta rất nghèo, sanh thuộc giai cấp thấp kém, sống
trong căn nhà cỏ cùng với cha mẹ mù loà...
Đức vua chợt thốt lên:
- Có thể như thế được ư?
Người ấy mà là đàn tín hộ trì tối thượng sao?
- Phải! Đức Phật gật đầu - Đấy là vị thí
chủ mà Như Lai đã nhận lời an cư trong mùa mưa này!
Có một ý nghĩ chợt khởi sanh lên trong
tâm của nhà vua: “Chắc có nguyên nhân thù thắng thế nào đây - để đến nỗi bậc
đại A-la-hán, Chánh Đẳng Giác phải lặp đi lặp lại mãi như thế chứ?” Bèn nói:
- Đệ tử đang cung kính lắng nghe đây!
- Thợ gốm Ghaṭīkāra dẫu
nghèo nàn, dẫu sanh thuộc hạ cấp nhưng đã quy y Tam Bảo, đã từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của chưa được cho, từ bỏ tà dâm, từ
bỏ nói dối, từ bỏ rượu men, rượu nấu... Này đại vương! Đại
vương nghĩ thế nào, một người như vậy có xứng đáng được gọi là vị đàn tín hộ
trì tối thượng chăng?
Đức vua Kikī lắc đầu:
- Chưa! Y có thể là một người cư sĩ tốt,
nhưng chưa thể gọi là hộ trì tối thượng
được!
Đức Thế Tôn Kassapa vẫn cất giọng đều
đều:
- Thời gian sau, thợ gốm Ghaṭīkāra thành tựu lòng tin bất động với Tam Bảo, thành tựu giới
luật của bậc
thánh; không có một nghi ngờ nào đối với khổ, với khổ tập, với khổ diệt, với con
đường đưa đến khổ diệt.
Này đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra chỉ ăn mỗi ngày một bữa, hành thiện hạnh, sống
theo
thiện pháp. Ông ta từ bỏ ngọc và vàng, không cầm, không nắm,
không giữ, không nhận bạc và vàng. Với
trí tuệ, với lòng dục được đoạn trừ, với thánh hạnh thanh tịnh mạng - vị ấy tự
nuôi sống mình bằng nghề thợ gốm. Dẫu làm nghề gốm, rất cần đất sét tốt,
thế nhưng Ghaṭīkāra không
tự tay cuốc và đào; ông ta lấy đất từ những
bờ đê sạt lở, lấy đất những nơi do chuột và cáo đào hang vung vãi ra - rồi nặn
lên những chum, vại, chén, bát cùng những vật gia dụng khác.
Này đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, một nam cư sĩ thánh hạnh như vậy có xứng
đáng để được gọi là người đàn tín hộ trì tối thượng chăng?
Đức vua Kikī giờ mới gật đầu, nhưng tán
thán theo
cách của mình:
- Ôi! Quả là tốt! Quả là hạnh khó làm!
- Còn nữa, này đại vương! Thợ gốm Ghaṭīkāra với những sản phẩm làm ra, được nắn, nung thiện xảo, có
hoa tay, có giá trị mỹ thuật - nhưng ông ta
không đổi bằng vàng và bạc, không đổi bằng tiền giấy, tiền kẽm, tiền đồng, tiền
xu! Khi có người đến mua, vị ấy nói:“Này
thiện hữu, này bà con kính mến! Hãy lấy đi bất kỳ vật dụng nào mà mình muốn,
mình thích và sử dụng được - rồi bỏ vào đây một ít thôi, cái gì mà quý vị sẵn
có: Ví như vài nhúm hạt gạo có vỏ và không vỏ, một vài nhúm các hạt đậu, ít củ
khoai, củ sắn, củ nâu, củ chuối... hoặc muối, hoặc vừng, hoặc thứ gì quý vị ăn
được thì tôi ăn được. Chớ có mua. Đừng có mua và bán!”
Này đại vương! bằng
cách ấy, thợ gốm Ghaṭīkāra sinh sống không có ác mạng, không có tà mạng, không
những nuôi được mình mà còn phụng dưỡng cha mẹ mù lòa rất là chu đáo, rất là
hiếu hạnh. Người như thế có xứng đáng là bậc hộ trì tối thượng chăng?
- Ôi! Quả là chí
thiện! Bạch đức Tôn Sư!
- Còn nữa, thợ gốm
Ghaṭīkāra đã dập tắt
năm hạ phần kiết sử, tâm và trí đã là vị thánh Bất Lai, trên đời này! Thế có
xứng đáng với danh gọi là bậc đàn tín hộ trì tối thượng chăng, hả đại vương?
Đức vua Kikī chợt
phủ phục xuống đất:
- Đệ tử, Kikī, vua
nước Kāsi xin thành kính đê đầu đảnh lễ bậc đàn tín hộ trì tối thượng ấy!
Đức Phật Kassapa kể
tiếp:
- Này đại vương!
Một thời, ở thị trấn Vebhaliṅga, với đại y
vắt vai, với bình bát cầm tay, Như Lai đến căn nhà cỏ của thợ gốm
Ghaṭīkāra rồi hỏi vọng vào:
“- Người thợ gốm có
nhà không?”
Cha mẹ mù loà của y
hỏi lại:
“- Ai hỏi con trai
của tôi thế?”
“- Thế Tôn đây! Ông
Phật Kassapa hỏi đấy!”
“- Bạch đức Thế
Tôn! Con trai con đã đi vắng, nhưng y có dặn lại rằng: Nếu Thế Tôn Kassapa, bậc
đại A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có đến - thì xin ngài hãy tự ý, tùy nghi lấy cháo
ở trong nồi, lấy thức ăn ở trong chảo mà dùng!”
Rồi này, đại vương!
Như Lai đã tự mình đi vào bếp, lấy cháo và thức ăn vừa đủ dùng, ngồi xuống đất,
thọ thực ngay tại chỗ rồi mới trở về liêu thất.
Thợ gốm về nhà,
thấy khuyết phần cháo và thức ăn, nói với cha mẹ mù loà:
“- Sao cha mẹ ăn ít
quá vậy? Con nấu ăn không vừa miệng cha mẹ hay sao?”
“- Không phải vậy
đâu con! Thật là hạnh phúc làm sao khi đức Thế Tôn đã tự ý vào bếp, lấy thức ăn
rồi ngồi xuống đất, thọ thực ngay tại chỗ!”
Thợ gốm Ghaṭīkāra sung sướng
quá, hỷ lạc phát sanh trong tâm ông suốt nửa tháng; và cha mẹ mù loà của ông thì
hỷ lạc phát sanh trọn bảy ngày...
Đức vua Kikī lại
chấp tay giữa hư không, cảm thán thốt lên:
- Quả thật là vi
diệu! Vi diệu thay là hành trạng của người thợ gốm này!
- Lại nữa, này đại
vương! Như Lai an cư mùa mưa năm đó tại thị trấn Vebhaliṇga, bấy giờ cái cốc đột ngột bị mưa dột.
Như Lai nói với các vị tỳ-khưu gần cạnh:
“- Hãy đến nhà thợ gốm Ghaṭīkāra, trông xem đâu đó có cỏ, có lá, có
tranh không!”
Một hồi lâu, chúng
đi về và thưa rằng “có”!
“- Vậy thì đi lấy
về đây, lợp lại cái cốc của Như Lai đã bị mưa dột!”
Thế rồi, các vị
tỳ-khưu đến nhà người thợ gốm, chẳng thưa chẳng hỏi, chẳng nói lý do gì cả - đã
tự ý leo lên mái nhà, và gỡ tranh của người ta!
Cha mẹ mù loà của
người thợ gốm, nghe sột soạt trên mái, hỏi vọng lên:
“- Ai đó? Ai làm gì
trên mái nhà của tôi?”
“- Chúng tôi đến gỡ
tranh!”
“- Quý vị là ai mà
tùy tiện quá vậy? Nhà chúng tôi đang ở mà!”
“- Thưa đại huynh,
đại tỷ! Chúng tôi là tỳ-khưu! Cái cốc của đức Thế Tôn bị mưa dột!”
Cha mẹ người thợ
gốm nghe vậy, mau mắn nói:
“- Vậy thì hãy lấy
đi, chư tôn giả! Hãy lấy hết đi, chư tôn giả! Chúng tôi thì không sao, nhưng đức
Thế Tôn thì không thể ở chỗ ướt dột được!”
Người thợ gốm về
nhà, nhìn lên, thấy tranh mất nhiều mảng, nhiều tấm, hỏi lý do, cha mẹ ông trình
bày lại tự sự. Thế là hoan hỷ quá, cũng như lần trước, hỷ lạc trong ông phát
sanh đến nửa tháng. Còn cha mẹ ông thì hỷ lạc phát sanh trọn cả bảy ngày!
Đức Phật Kassapa
kết luận:
- Đấy là câu chuyện
về người đàn tín hộ trì tối thượng của Như Lai. Ghaṭīkāra rất nghèo lại sanh thuộc hạ cấp. Như Lai đã
nhận lời an cư mùa mưa do ông ta hộ độ. Thật tình mà nói, ông ta đâu có thượng
phẩm, mỹ vị mà dâng cúng như đại vương; chỉ có sắn khoai rau củ gì đó thôi - làm
sao dám sánh với đại vương được!
Đức vua Kikī hân
hoan phát sanh, hỷ lạc phát sanh, bừng bừng cả từng chân tơ kẽ tóc - thốt lên:
- Không! Trăm phần,
ngàn phần công đức của đệ tử - dẫu cho thượng vị loại cứng, loại mềm... cúng
dường một hai năm, cho đến cả trăm năm - cũng không thể bằng một phần của người
thợ gốm Ghaṭīkāra, người đàn tín hộ trì tối thượng ấy!
Thế rồi, ngay ngày
hôm sau, đức vua cho quân binh vận chuyển vật liệu làm nhà, năm trăm xe gạo có
vỏ và không vỏ, năm trăm xe thực phẩm khô và đồ gia dụng các loại - tức tốc lên
miền Bắc, đến tại thị trấn Vebhaliṅga tìm đến nhà người thợ gốm. Họ chẳng nói lý do, tự động làm lại một tòa nhà chắc bền với
những loại gỗ tốt, sàn tường đều được lát gỗ quý và gỗ thơm. Họ cũng tự động làm
các công trình phụ, các kho lẫm...
Sau đó một vị văn
quan đại thần đã được sự chỉ dạy của đức vua, khôn khéo nói rằng:
- Này tôn giả! Này
bậc hiền trí! Hãy sử dụng căn nhà mộc mạc nầy! Hãy thọ nạp cả một ngàn xe lương
thực và thực phẩm nầy. Hãy làm tất cả các thiện sự! Hãy làm các công đức tùy
thích. Hãy hộ độ, cúng dường đức Thế Tôn Kassapa và đại chúng tỳ-khưu! Tất cả
đây chỉ là chút tấm lòng thành của đức vua Kikī, nước Kāsi tại Bārāṇasī - Nó thật
không đáng kể gì, so với công đức vô lượng của tôn giả - những công đức chí
thiện, trắng bạch như vỏ ốc!
Thợ gốm Ghaṭīkāra là bậc có
thắng trí, biết tất cả mọi việc xẩy ra - nên cũng không khách sáo gì, hoan hỷ thọ nhận; và nói một
lời cũng mang rất nhiều ý nghĩa:
- Cầu nguyện cho
đức vua chí tôn thấy rõ pháp, thâm đạt pháp - rồi chúng ta sẽ cùng nhau tao ngộ
nơi cõi Vô Sanh Bất Tử!
Đức Phật kết luận:
- Thợ gốm Ghaṭīkāra cuối đời,
mệnh chung - nhưng ông không an nghỉ ở tịnh cư thiên, mà nguyện sanh ở phạm
thiên giới - làm người hộ pháp cho giáo pháp đức Thế Tôn SakyāG Gotama - một
người bạn cũ!
Như vậy, giáo pháp
của Như Lai, nói chung là của chư Chánh Đẳng Giác đều giống nhau, trong đó, có
chúng sanh nhỏ, căn trí sâu dày - tu tập công hạnh thành bậc thánh nhân - đến
nỗi, chúng sanh lớn như đức vua Kikī kia, dẫu phú quý, cao sang hiển hách cũng
phải tán thán, tôn xưng, đảnh lễ, cúng dường người thợ gốm giai cấp thấp thỏi.
Ôi! Tính chất vi diệu ấy thì biển thế gian làm thế nào so bì được!
Thời pháp hôm ấy
của đức Phật có ba điều lợi lạc vi diệu sau đây:
Thứ nhất, đức vua,
hoàng hậu, các quan đại thần, đại gia chủ, đại danh gia... đã chuyển hướng cách
nhìn, không dám tự phụ mình là người có quyền uy hoặc giàu sang nữa; không dám
coi khinh các giai cấp thấp kém và những người có ít của cải, tài sản.
Thứ hai, hội chúng
tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni được mở sáng mắt, biết kính trọng phải lẽ những cư sĩ tuy
nghèo nhưng có đời sống thánh hạnh, thanh tịnh mạng, hộ trì Tam Bảo bằng tín,
giới, tâm và tuệ của mình. Họ còn học được bài học, sẵn sàng từ chối đức vua dù
thượng phẩm, mỹ vị - mà nhận lời người cư sĩ nghèo với sắn, khoai, rau củ!
Thứ ba, các giai
cấp thấp kém không còn mặc cảm tự ti về dòng dõi hay tài sản - mà cảm thấy mình
bình đẳng trong giáo pháp coi trọng các giá trị tinh thần hơn cái vinh hoa và
hào nhoáng của thế giới vật chất.
Một làn gió mát mẻ,
trong lành của giáo pháp đang rì rào thổi qua nhân sinh và xã hội, nhất là kinh
thành Sāvatthi!