Thích Thái Hòa
Con Đường Về
Không ai trong chúng ta là không thở,
nhưng lại chẳng mấy ai để ý đến hơi thở của mình, và lại ít ai biết được hơi thở
của mình liên hệ như thế nào và do đâu mà có?
Hơi thở liên hệ trực tiếp đến mệnh
sống của con người. Không có hơi thở, thì con người không thể nào tồn tại được.
Hơi thở ngắn, thì mệnh sống con người sẽ ngắn lại. Hơi thở dài, thì làm cho mệnh
sống của con người dài ra. Hơi thở vẩn đục, thì mệnh sống của con người sẽ dẫn
sinh nhiều ưu lo, bệnh hoạn và hơi thở thanh trong, thì đời sống con người có
nhiều hạnh phúc, an hòa.
Hơi thở đưa oxy trực tiếp vào máu để lọc máu và nuôi máu,
khiến cho máu tốt lành nuôi dưỡng các bộ phận trong cơ thể của ta, đồng thời
thải những độc tố trong máu đi ra ngoài thân thể.
Hơi thở là vậy, nên ta thở vào bao nhiêu
là ta phải thở ra bấy nhiêu. Nếu ta thở vào, mà không thở ra, hay ta thở ra, mà
không thở vào, thì sinh mệnh của ta không thể nào tồn tại.
Sự an hòa và sống lâu của ta liên hệ trực
tiếp đến hơi thở. Ta phải biết chọn không khí trong lành để thở và ta phải biết
cách thở để điều hòa thân tâm của ta mỗi ngày. Thực phẩm ăn uống hàng ngày của
ta, cũng liên hệ trực tiếp đến hơi thở của ta. Những thực phẩm có chứa nhiều
chất béo và có những nồng độ cao, có thể làm tắt nghẽn những liên thông hơi thở
của ta đối với các bộ phận trong cơ thể.
Vì vậy, không những ta chỉ biết chọn lựa
không gian để thở, mà còn phải biết chọn lựa những thực phẩm lành mạnh để uống
và ăn, nhằm hỗ trợ cho hơi thở vào và ra của ta mỗi ngày một cách lành mạnh.
Sự an hòa của thân tâm có rất nhiều sự
liên hệ, nhưng hơi thở là sự liên hệ trực tiếp. Nên, ta cần phải thông qua hơi
thở để đưa thân về với tâm và đưa tâm về với thân. Thân và tâm của ta đều có mặt,
an hòa và nhất như với nhau ngay trong từng giây phút hiện tiền ở giữa cuộc đời
nầy.
“Thở vào, ta biết ta thở vào, thở ra ta
biết ta thở ra; thở vào ngắn, ta biết ta thở vào ngắn, thở ra ngắn, ta biết ta
thở ra ngắn; thở vào dài, ta biết ta thở vào dài, thở ra dài, ta biết ta thở ra
dài; thở vào toàn thân, ta biết ta thở vào toàn thân, thở ra toàn thân, ta biết
ta đang thở ra toàn thân; thở vào, ta biết, ta đang có thân hành an tịnh; thở ra,
ta biết ta đang có thân hành an tịnh; thở vào, ta biết ta đang có ngữ hành an
tịnh; thở ra, ta biết ta đang có ngữ hành an tịnh”.
Thân hành an tịnh, là hơi thở thuần nhất
với tầm và tứ. Tầm (vitakka) là ý thức hướng đến hơi thở. Tứ (vicàra) là ý thức
bám sát hơi thở. Thân hành an tịnh là hơi thở thuần nhất với tầm và tứ, khiến
tâm an tịnh, phiền não không còn có điều kiện để sinh khởi nơi tâm.
Các phiền não như tham sân si, bị nhiếp
phục bởi tâm thuần tịnh. Bấy giờ do tâm lìa xa các loại phiền não, liên hệ đến
tham dục, sân hận và si mê, mà hỷ và lạc sanh khởi, có mặt cùng khắp cả thân thể,
và khiến cho thân không bị rơi vào các hoạt động liên hệ đến sát hại, trộm cắp
và dâm dục, đó gọi là thân hành an tịnh.
Ngữ hành an tịnh, là tâm thanh tịnh thuần
nhất, không còn có sự hoạt khởi của tầm và tứ nữa. Tầm và tứ là tác nhân của
ngôn ngữ. Nếu không có tầm và tứ, thì ngôn ngữ không thể biểu hiện. Ngôn ngữ
không thể biểu hiện, thì khiến cho ngữ nghiệp không thể hoạt khởi những lời nói
dối trá, thêm thắt, thô lỗ, ly gián. Ngữ biểu không hoạt khởi theo những cách ấy,
đó gọi là ngữ hành thanh tịnh.
Lại nữa, ngữ hành thanh tịnh là tâm thanh
tịnh thuần nhất, không còn những hoạt khởi của các tưởng. Tưởng là tác nhân sinh
khởi tầm và tứ, vì vậy tưởng cũng là tác nhân của ngôn ngữ. Nên, an tịnh ngữ
hành không những là an tịnh về tầm và tứ, mà còn chính là tâm an tịnh các tưởng
vậy.
Hơi thở của ta, không những chỉ liên hệ
đến những tác động tương quan sinh học nội tại, như tim, phổi, mũi, miệng, máu,…
mà còn nhiều yếu tố khác, như không gian vật lý, thực phẩm tiêu thụ hàng ngày,
môi trường sinh thái và ngay cả không gian hoạt khởi của tâm thức nữa.
Khi ta nhìn một đối tượng với tâm
rung động, khả ái, thì bấy giờ hơi thở của ta vào và ra trở nên vội vã. Và khi
ta nghe âm thanh của một đối tượng với tâm không khả ái, thì chính tâm ấy có ảnh
hưởng đến hơi thở của ta, khiến cho hơi thở của ta vào và ra ở trong trạng thái
thân tâm mất quân bình.
Những vị tu tập thiền định giỏi,
phần nhiều họ thông qua hơi thở để tiếp xúc với tâm và làm chủ tâm qua tầm và
tứ, hay qua sự trì niệm danh hiệu của một vị Phật, hoặc trì niệm một câu thần
chú, mà họ thường ngưỡng mộ hay ưa thích. Và khi họ đi vào Diệt thọ tưởng định,
hay họ nhất tâm hội nhập vào bản thể của một vị Phật, hay thần chú mà họ đang
trì niệm ấy, thì họ không còn thở bằng mũi, mà thở bằng tất cả lỗ chân lông,
nghĩa là tất cả lỗ chân lông trong thân thể của họ đều thở, để tạo ra thức ăn và
nuôi dưỡng các tế bào sinh học. Đồng thời, họ được nuôi dưỡng bằng niềm vui của
pháp hành, và chính niềm vui ấy, làm tươi nhuận thân tâm và đời sống của họ.
Vì vậy, hơi thở của con người
không đơn thuần chỉ liên hệ đến những tương tác của những bộ phận cấu trúc sinh
học trong cơ thể, mà nó còn liên hệ chặt chẽ đến những cấu trúc nhân quả tâm học
của con người.
Một người có tâm phiền muộn, hay
bức xúc không thể nào có những hơi thở sâu lắng và thanh trong. Và những người
sống với tâm nhiều tham dục, với tâm nhiều sân hận, si mê, cố chấp và mù quáng,
họ khó có những hơi thở nhẹ nhàng và thanh thoát. Hẳn nhiên, thân thể của họ
hoạt khởi trong thô động và lời nói của họ ở trong tình trạng ấm ức hay vụt
chạc.
Do đó, hơi thở của ta liên hệ chặt
chẽ đến những hành sử về thân của ta, liên hệ chặt chẽ đến những biểu lộ ngôn
ngữ và âm thanh của ta, liên hệ đến các cảm thọ của ta, liên hệ đến tâm ta và
liên hệ đến mọi sự hiện hữu từ nội thân đến ngoại cảnh mà ta đang hiện hữu.
Vì vậy, ta thấy toàn thể vũ trụ
đang có mặt nơi một hơi thở vào và ra; và thấy ngay trong một hơi thở ra và vào
là đang có mặt cả toàn thể nhân sinh và vũ trụ. Đời người chỉ là một hơi thở và
toàn thể vũ trụ đang vận hành ngay nơi từng hơi thở vào và ra của mỗi chúng ta.
Và như vậy, ta có thể thông qua
hơi thở để hội kiến Phật tính và chứng nhập thể tính bất sanh diệt của toàn thể
vũ trụ, ngay nơi hơi thở vào và ra của ta trong mỗi ngày. Thông qua hơi thở, ta
có một con đường về thật sáng đẹp, thiết thực, giản dị, sâu lắng và an toàn.
Đặt Gánh Nặng Xuống
Chạy theo tham dục làm cho đời sống của ta
mỗi ngày mỗi trở nên thấp kém, bần hàn và tồi tệ. Tham dục là đối lập với đời
sống tự do. Tham dục là đồng lõa với khổ đau và đối lập với hạnh phúc. Tham dục
là đồng lõa với nguy hiểm và đối lập với an toàn. Tham dục là đồng lõa với đời
sống nghèo nàn, lạc hậu và đối lập với đời sống cao thượng và văn minh.
Thiền tuệ giúp cho ta thấy rõ sự nguy
hiểm, thấp kém và tồi của tham dục nơi tâm để nhiếp phục chúng và vượt qua.
Các đối tượng thuộc về sắc, tự thân nó
không nguy hiểm, nhưng do các quan năng tiếp xúc, tâm ta khởi lên tham ái và
dính kẹt đối với chúng, khiến cho mọi tự do, cao quý, hạnh phúc và an toàn trong
đời sống của ta bị biến mất.
Các đối tượng thuộc về tài sản, tự thân nó
không có gì nguy hiểm, nhưng do các quan năng của ta tiếp xúc, tâm ta khởi lên
tham ái và dính kẹt đối với chúng, khiến cho mọi tự do, cao quý, hạnh phúc và an
toàn trong đời sống của ta bị biến mất.
Các đối tượng thuộc về danh xưng, tự thân
nó không có gì nguy hiểm, nhưng do các quan năng tiếp xúc, tâm ta khởi lên tham
ái và dính kẹt đối với chúng, khiến cho mọi tự do, cao quý, hạnh phúc và an toàn
trong đời sống của ta bị biến mất.
Các đối tượng thực phẩm, tự thân nó không
có gì nguy hiểm, nhưng do các quan năng của ta tiếp xúc, tâm ta khởi lên những
tham ái và dính kẹt đối với chúng, khiến cho mọi tự do, cao quý, hạnh phúc và an
toàn trong đời sống của ta bị biến mất.
Các đối tượng ngủ nghỉ, tự thân nó không
có gì nguy hiểm, nhưng do các quan năng của ta tiếp xúc, tâm ta khởi lên những
tham ái và dính kẹt đối với chúng, khiến cho mọi tự do, cao quý, hạnh phúc và an
toàn trong đời sống của ta bị biến mất.
Vì vậy, thiền tuệ giúp cho ta thấy rõ,
những nguy hiểm, bất an và thấp kém do tham dục đem lại và cần phải có định tĩnh
cũng như tuệ giác để vượt qua chúng.
Những ai ở trong đời chạy theo tham dục,
thì khổ đau và thất vọng là những đối tượng mà họ phải tiếp xúc và sống với nó
mỗi ngày. Và mỗi ngày đi qua, thì trong tâm của họ cất chứa đầy những hạt giống
lo lắng, sợ hãi, thất vọng và bất an. Đương nhiên, trong hiện tại và cả tương
lai, lo lắng sợ hãi, thất vọng và bất an là những gánh nặng trong đời sống của
họ.
Họ
có thể đặt được những gánh nặng ấy xuống trong đời sống của họ, khi nào họ thấy
rõ nguyên nhân của mọi gánh nặng trong đời sống con người chính là tham dục,
và họ nhiệt tình hướng tới đời sống xả ly là gánh nặng
trong đời sống của họ tự đặt xuống, họ liền có thanh thản và tự do.
Con Đường Thiền Tuệ
Thiền định Phật giáo không phải để
giúp bạn thư giãn, mà giúp bạn nhiếp phục và chuyển hóa những vọng tưởng nơi tâm
của bạn.
Và thiền tuệ trong Phật giáo giúp
bạn thấy rõ những vọng tưởng nơi tâm bạn do đâu mà có, và giúp cho bạn quét sạch
những vọng tưởng ấy đối với sắc, qua sự quán chiếu các bộ phận cá biệt và liên
kết của thân thể; qua các động tác thở vào thở ra, co duỗi, đi đứng nằm ngồi của
thân, hay quán chiếu để thấy rõ sự hủy hoại, sình thối sắc thân của một người
nơi nghĩa địa sau khi chết.
Với thiền tuệ như vậy, bạn sẽ thấy rõ, sắc thân nầy tồn tại
trong liên kết của các duyên, nên nó trôi chảy biến diệt liên tục, hư ngụy,
không thực, không có gì bền chắc, nó không phải là ta, không phải là của ta. Với
sự quán chiếu ấy, khiến cho mọi vọng tưởng của bạn đối với một “cái ta” ở nơi
sắc thân đều được ngưng chỉ và tan biến. Mọi hạt giống tham dục của bạn đối với
sắc thân được nhiếp phục và chuyển hóa. Mọi vọng tưởng và tà kiến đối với thân
thể hoàn toàn chấm dứt. Các minh và các trí sẽ sinh ra ở nơi tâm bạn và chúng sẽ
chiếu sáng trong đời sống của bạn.
Với thiền tuệ, bạn sẽ thấy rõ các cảm thọ
khổ vui, hay không khổ không vui, do các quan năng của bạn, khi tiếp xúc với các
đối tượng tương ứng mà sinh khởi, đều là do duyên khởi, vô thường và hoàn toàn
không có tự tánh.
Với sự quán chiếu ấy, bạn sẽ thấy rõ vui không phải là bạn,
buồn không phải là bạn, không vui không buồn, không phải là bạn.
Vui liên hệ đến tâm tham là cái vui nguy
hiểm. Người thực tập thiền tuệ, cần phải thấy rõ nguy hiểm của tham để vượt qua
nó. Buồn liên hệ đến tâm tham là nỗi buồn nguy hiểm. Người thực tập thiền tuệ,
cần phải thấy rõ nguy hiểm của tham để vượt qua nó. Vui liên hệ đến tâm sân là
cái vui nguy hiểm. Người thực tập thiền tuệ, cần phải thấy rõ nguy hiểm của sân
để vượt qua nó. Buồn liên hệ đến tâm sân là cái buồn nguy hiểm. Người thực tập
thiền tuệ, cần phải thấy rõ nguy hiểm của sân để vượt qua nó. Vui liên hệ đến
tâm si là cái vui nguy hiểm. Người thực tập thiền tuệ, cần phải thấy rõ nguy
hiểm của si để vượt qua nó. Không vui không buồn liên hệ đến tâm si hay thất
niệm, vô tri là nguy hiểm. Người thực tập thiền tuệ, cần phải thấy rõ nguy hiểm
của si, của thất niệm hay của vô tri để vượt qua nó.
Những vị tu tập thiền tuệ, luôn luôn quán
sát các cảm thọ sinh khởi do xúc, được tác động từ những căn bản phiền não mà
sinh khởi, chúng đều dẫn đến những con đường nguy hiểm, đầy gai góc, đầy hầm hố
và bùn lầy, nên vị tu tập có giới để phòng hộ các căn, khi các căn tiếp xúc với
các đối tượng, cần có thiền định để nhiếp phục các căn bản phiền não và thực tập
thiền tuệ để luôn luôn giám sát sự có mặt của các căn bản phiền não ấy nơi tâm,
hay nơi các cảm thọ, nhằm vượt qua. Các cảm thọ khổ ưu có mặt là do các căn bản
phiền não tác động qua tác ý, khiến các nghiệp bất thiện sinh khởi và dẫn đến
thành tựu các kết quả khổ ưu.
Với thiền tuệ, bạn sẽ thấy rõ những chủng
tử xấu và tốt đang vận hành ở nơi tâm bạn. Những chủng tử tốt, bạn phải biết nó
là tốt và nỗ lực làm cho những chủng tử tốt đó luôn luôn có mặt không những chỉ
ở nơi mặt ý thức của bạn, mà còn ở mặt tác ý, và khiến chúng biểu hiện cụ thể
qua những hoạt động thân và ngữ của bạn. Những hành động tốt đẹp ấy là bạn và
bạn luôn luôn có mặt ở trong những hành động tốt đẹp ấy. Cái đẹp là bạn. Bạn
không cần đi tìm kiếm bất cứ một cái đẹp nào khác nữa. Giải thoát là tâm ly tham
và tâm xa lìa các căn bản phiền não. Ngoài tâm ly tham và tâm xả ly các căn bản
phiền não, không có bất cứ trú xứ giải thoát nào khác để cho bạn kiếm tìm. Giải
thoát chính ở nơi tâm ly tham và tâm xả ly các căn bản phiền não của bạn.
Và với những chủng tử xấu, bạn sẽ thấy rõ
và biết rõ nó là xấu, bạn không làm cho nó có mặt ở nơi ý thức và không tác ý
theo nó. Không những vậy, bạn còn phải biết cách không đưa những thực phẩm từ
bên ngoài vào thích ứng với những chủng tử xấu vận hành ở nơi tâm của bạn, khiến
cho khả năng hoạt động của những chủng tử xấu ấy, càng lúc càng yếu dần và dẫn
đến tê liệt. Chúng tê liệt, vì chúng hoàn toàn bị cô lập bởi những nguồn cung
cấp thực phẩm và bị trở ngại bởi môi trường hoạt động, khiến cho tự thân nó hủy
diệt, mà bạn không cần dụng tâm diệt nó.
Mỗi khi những chủng tử xấu nơi tâm bạn đã
tự thân hủy diệt, thì chính sự diệt tận ấy lại sinh khởi cho bạn niềm vui một
cách chân thực. Niềm vui chân thực ấy là niềm vui do tu tập thiền tuệ đem lại.
Với thiền tuệ, bạn có thể thấy rõ các quan
năng nhận thức của bạn, chúng hiện hữu trong sự liên đới và tương tác. Mỗi quan
năng tự thân không thể hiện hữu. Chúng hiện hữu trong sự tương quan giữa cái nầy
và cái kia, giữa tâm và vật hay danh và sắc. Vì vậy, tự thể của chúng là rỗng
lặng, không có tự ngã, chúng luôn luôn biến diệt vô thường. Chúng vô thường,
nhưng không phải đoạn diệt và chúng hiện hữu, nhưng không phải thường còn.
Với sự quán chiếu ấy, bạn có thể nhiếp
phục và chuyển hóa được các căn bản phiền não và các loại tà kiến thuộc về thân
cũng như thuộc về đức tin. Và đồng thời bạn có khả năng vượt qua hai loại cực
đoan. Một là sống đời ép xác khổ hạnh và hai là sống buông tâm, phóng túng chạy
theo các dục. Không những bạn vượt qua hai cực đoan ấy, mà còn đi đúng với trung
đạo, làm sinh khởi tám yếu tố thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, diện kiến và
hội chứng Niết bàn, có khả năng siêu xuất sinh tử ngay nơi thân tâm nầy.
Với thiền tuệ, bạn có thể thấy rõ các đối
tượng của các quan năng nhận thức như: hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị,
xúc chạm và ảnh tượng, chúng không bao giờ hiện hữu đơn thuần, mà hiện hữu trong
sự quan hệ tương tác giữa cái nầy và cái kia, giữa cái kia và cái nầy. Vì vậy,
tự thể của chúng đều là rỗng lặng, không có tự ngã. Chúng hiện hữu trong sự
tương quan vô thường, biến diệt. Chúng vô thường, biến diệt, nhưng không hề biến
mất và chúng đang hiện hữu trước mắt bạn, nhưng không phải thường còn.
Với sự quán chiếu ấy, bạn có thể nhiếp phục được các
phiền não tham, sân, si hay các loại tà kiến, chấp ngã đối với ngoại cảnh. Bạn
có khả năng vượt qua được cả hai nhận thức và hai hành xử đối lập có và không,
tâm và vật. Đồng thời bạn có khả năng tự tại đối với có và không, tâm và vật,
thành tựu trí tuệ minh triết ngay ở nơi thân tâm nầy.
Với thiền tuệ, bạn có thể thấy rõ tham dục, sân nhuế, hôn
trầm, trạo cử và nghi ngờ là những che khuất và chướng ngại đối với tâm giải
thoát hay đối với lộ trình của tâm đi tới thánh đạo vô lậu.
Đối với các chướng ngại nầy, khi quán chiếu bạn chỉ đưa ý
thức của bạn hướng tới một trong những đối tượng ấy, rồi bám sát và theo dõi sự
có mặt của chúng, và rồi lại theo dõi quá trình sinh diệt của chúng, để biết rõ
chúng đang sinh hay đang diệt, hay đã diệt mà đang sinh hoặc đã sinh mà đang
diệt, nghĩa là chúng đang ở tình trạng nào, thì phải bám sát và biết rõ chúng
đang ở trong tình trạng ấy, một cách chính xác không lầm lẫn.
Thực tập thiền tuệ, đối với năm sự chướng ngại với tâm như
tham, sân, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ, bạn không cần nỗ lực tận diệt nó hay
đua đòi theo nó. Nỗ lực tận diệt nó, tâm bạn sẽ rơi vào trạng thái của một cực
đoan, và đua đòi chạy theo nó, tâm của bạn cũng sẽ rơi vào trạng thái của một
cực đoan khác.
Nói cách khác, đối lập với các phiền não
hay chạy theo các phiền não đều không phải là pháp hành thiền tuệ, tại sao? Vì
nó đi chệch hướng của trung đạo. Trung đạo của thiền tuệ là quán sát để thấy rõ
quá trình sinh khởi và ẩn diệt của các phiền não, nhưng không đối lập, không đi
theo mà chỉ vượt qua. Đi theo các căn bản phiền não sẽ bị chúng nhận chìm ở
trong các cảm thọ khổ ưu và đối lập sẽ bị chúng gặm nhấm và bào mòn hết thảy các
thiện căn và lạc thọ.
Với thiền tập như vậy, các đối tượng chướng ngại ấy từ từ sẽ
bị nhiếp phục, chuyển hóa và tan biến, tâm minh triết và tâm giải thoát sẽ được
sinh khởi, khiến trong đời sống của bạn, từ những động tác đi đứng nằm ngồi, làm
việc, cho đến mọi ứng xử hàng ngày, đều được tỏa sáng bởi tâm minh triết ấy.
Với thiền tuệ, bạn có thể thấy rõ, trong
quá trình thiền tập, các chướng ngại đối với thánh đạo nơi tâm của bạn đã vượt
qua và các chi phần giác của trợ đạo, như là niệm giác, trạch pháp giác, khinh
an giác, hỷ giác…, bắt đầu sinh khởi và có mặt nơi tâm của bạn.
Bấy giờ, bạn cũng phải theo dõi và bám sát
để thấy thật rõ ràng và chính xác là chúng đang có mặt nơi tâm, qua các trạng
thái sinh và diệt hay đã sinh, đang tồn tại kéo dài và phát triển từ một điểm
nơi tâm, đến toàn thể. Hoặc nó đang có mặt từ một điểm trên thân rồi ẩn diệt hay
từ một điểm trên thân, rồi phát triển đến toàn thân. Tất cả những trạng thái
sinh khởi, ẩn diệt, tồn tại, phát triển, diễn biến của chúng như thế nào, thì
bạn cũng phải biết rõ chúng đúng như thế ấy, một cách chính xác, không có lầm
lẫn.
Thực tập thiền tuệ, giúp cho bạn thấy rõ
các pháp thuộc thân liên hệ và sinh khởi từ ái dục đều là bất tịnh, khiến cho
tâm tham dục tự diệt. Khi tâm tham dục tự diệt, các bất tịnh nơi thân liên hệ
đến tham dục cũng đều diệt theo. Thân thanh tịnh từ nơi tâm ly dục sinh khởi.
Thân ấy gọi là tịnh thân.
Thực tập thiền tuệ, giúp cho bạn thấy rõ
các cảm thọ, liên hệ đến tham dục đều là khổ, khiến cho tâm tham dục tự diệt.
Khi tâm tham dục tự diệt, các khổ do liên hệ đến tâm tham dục đều diệt theo.
Niềm vui thanh tịnh từ nơi tâm ly dục sinh khởi. Niềm vui ấy gọi là tịnh lạc.
Thực tập thiền tuệ, giúp cho bạn thấy rõ
các chủng tử đang vận hành nơi tâm đều là vô thường, khiến cho các tà kiến, tà
trí và tà tuệ tự diệt. Khi tà kiến, tà trí và tà tuệ nơi tâm đã diệt, thì những
chủng tử tâm hành kiến chấp liên hệ đối với chúng cũng đều bị diệt theo. Các
chủng tử tâm hành hoàn toàn ngưng lắng, không còn hiện khởi, tâm sáng suốt,
không còn sinh diệt hiện ra. Tâm ấy gọi là tâm chân thường.
Thực tập thiền tuệ, giúp cho bạn thấy rõ, nội pháp và ngoại
pháp hay bất cứ pháp gì do tương tác duyên khởi đều là rỗng không, vô thường và
vô ngã, khiến cho các tà kiến, tà trí, tà tuệ đối với các pháp thuộc về sắc,
thuộc về tâm đều tự hủy diệt. Khi tâm tà kiến, tà trí, và tà tuệ nơi nội pháp và
ngoại pháp đã tự diệt, thì những kiến chấp liên hệ đến ngã và pháp đối với chúng
cũng đều diệt theo. Khi các tà kiến đối với ngã chấp và pháp chấp bị hủy diệt,
thì chân như nơi các pháp hiện ra. Chân như là tự tánh không sinh diệt nơi các
pháp thuộc về sắc và tâm. Chân như là pháp tánh của hết thảy pháp và là chân
nghĩa của hết thảy nghĩa và là Niết bàn tịch tịnh.
Như vậy, con đường của thiền tuệ là thực
hành Đạo đế, để đoạn tận Tập đế, chuyển hóa Khổ đế và chứng nhập Diệt đế, hay đệ
nhất nghĩa đế hoặc Niết bàn một cách toàn vẹn.
Do đó, thiền định và thiền tuệ Phật giáo
không phải là những loại thiền thư giãn, hay xả stress ở trong cõi người hay để
sanh lên các cõi trời hữu sắc hay vô sắc, mà thiền định và thiền tuệ ấy, có khả
năng nhiếp phục các phiền não và chặt đứt những sợi dây trói buộc khổ đau, liên
hệ đến sinh tử luân hồi.
Vì vậy, bạn muốn thực tập thành công pháp hành thiền tuệ nầy,
trước hết bạn phải có đức tin của một người phật tử. Bạn phải quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng và phải thọ trì năm giới pháp căn bản.
Mục đích quy y Phật – Pháp – Tăng và thọ
trì Năm giới quý báu của bạn, không phải là để tìm cầu phước báu cõi trời, cõi
người mà để nương tựa, học hỏi và thực hành các pháp môn thoát ly sanh tử, và
chứng ngộ Niết bàn.
Với mục đích ấy, con đường thực hành thiền
tuệ của bạn nhất định sẽ thành công. Con đường ấy muôn đời vẫn còn đó cho bạn,
nhưng bạn có lên đường hay không là tùy thuộc vào niềm tin, sự nỗ lực và những
nhân duyên phước đức của bạn trong hiện tại và kể cả nhiều đời trong quá khứ của
bạn nữa!
Đừng Chạy Bươn
Theo Hướng Ấy!
Cam, bản chất là ngọt, cung cấp cho đời
sống con người rất nhiều sinh tố bổ dưỡng. Nhưng, ta trồng cam không đúng chất
đất, cam sẽ bị biến chất, và ta hái cam không đúng thời, cam sẽ không cho ta vị
ngọt mà cho ta vị đắng, chát và chua.
Cam bị biến chất và trở thành chát, đắng
và chua là do người trồng cam, hái cam, chứ không phải là do cam.
Cũng vậy, con người sinh ra trong đời, tự
nó có bản chất hoàn hảo của cõi người và có phước đức của con người ở nơi tự
thân của nó. Nhưng, những bậc làm cha mẹ, không có tầm nhìn đúng và toàn diện,
nên đã nuôi và giáo dục con mình đi theo hướng không hoàn hảo và không toàn diện
ấy, khiến cho từ một người con vốn vô tư, hoàn hảo trở thành một con người không
vô tư và không hoàn hảo chút nào!
Nó không hoàn hảo, vì môi trường tư duy
không hoàn hảo đã xúc tác lên nó và nuôi nó mỗi ngày, khiến cho những gì hoàn
hảo của nó từ thuở ban sơ tự động biến chất. Và những tính chất tốt đẹp của nó
đã biến thái và trở thành những chất liệu kiến chấp độc hại.
Phần nhiều các nhà làm văn hóa, giáo dục,
chính trị và tôn giáo, cũng nhắm tới hướng dẫn và uốn nắn con người theo khuynh
hướng mà họ đã thấy rõ và định sẵn.
Khuynh hướng mà những vị ấy đã thấy và
định sẵn, có thể là hoàn hảo và cũng có thể là không hoàn hảo hoặc chưa hoàn
hảo.
Hoàn hảo, vì họ thấy con người đối với
phàm hay thánh, thiện hay ác vốn là vô tự tính. Và bởi vì là vô tự tính, nên
tính gì cũng có thể xảy ra cho con người. Nếu ta đặt một trẻ em vào trong một
môi trường giáo dục tốt, tiếp xúc với một nền văn hóa lành mạnh, thì những tính
tốt nơi em ấy sẽ lớn lên và tính ấy sẽ trở thành em ấy. Và nếu ngược lại thì
cũng như vậy.
Vì vậy, những vị có cái nhìn hoàn hảo về
con người, họ sẽ nuôi dưỡng và giáo dục cho con người phát triển về toàn năng.
Phát triển toàn năng là phát triển toàn hảo đối với sáu quan năng nhận thức của
con người, khiến cho con người có khả năng tiếp xúc và nhận biết những gì liên
hệ về đời sống của chính nó, và tiêu thụ những gì liên hệ đến đời sống của nó
một cách hợp lý.
Phát triển toàn năng về cả thân và tâm.
Tại sao? Vì không có con người nào trên đời nầy sinh ra mà không bao gồm cả thân
và tâm. Hoàn toàn không có việc thân sinh ra trước, rồi tâm sinh ra sau; hoặc
tâm sinh ra trước rồi thân sinh ra sau, nơi thế giới con người.
Tâm sinh ra trước, thân sinh ra sau hay
thân sinh ra trước, tâm sinh ra sau, điều ấy có thể xảy ra chăng là ở những thế
giới khác.
Vì vậy, bất cứ nền văn hóa, giáo dục,
chính trị, tôn giáo nào dạy cho con người nghiêng về tâm hay nghiêng về thân đều
là những nền văn hóa, giáo dục, chính trị, tôn giáo bị khuyết tật.
Trong Phật giáo, giáo lý mười hai duyên
khởi giúp cho ta cái thấy rằng, danh và sắc gắn liền và có mặt cùng nhau. Danh
chính là tâm và sắc chính là những năng lượng vật chất. Sáu quan năng nhận thức
do duyên vào danh và sắc mà hiện khởi.
Do đi từ cách nhìn duyên khởi ấy, khiến
cho nền giáo dục nhân bản trong Phật giáo không dạy cho con người nghiêng về một
phía là tâm hay vật. Nghiêng về vật là một cực đoan, và nghiêng về tâm lại là
một cực đoan khác. Người đệ tử Phật phải vượt ra khỏi hai cực đoan ấy để thực
tập đời sống trung đạo.
Trung đạo không phải là con đường giữa, mà là con đường vượt
thoát gọng kềm của hai nhận thức cực đoan, để sống cuộc đời tự do và lành mạnh,
đem lại sự an hòa cho cả thân lẫn tâm, khiến ngay trong đời sống hàng ngày “thân
không rơi vào tật bệnh và tâm không rơi vào phiền não”.
Các nhà làm văn hóa, giáo dục, chính trị
và tôn giáo, nếu không có cái nhìn sâu để thấy rõ, mọi sự hiện hữu giữa thế gian
là hiện hữu trong quan hệ duyên khởi vô tự tính, thì khi tiếp xúc với mọi sự
vật, khó có sự rung cảm với trái tim toàn diện và khó có cái nhìn không khuyết
tật đối với mọi sự hiện hữu và ngay cả chính bản thân mình.
Tâm hay vật đều là duyên khởi, nên không
có bất cứ tính thể nào là bất biến cho chính nó, đó là một thực tế, là chân như
của mọi sự hiện hữu. Giáo lý duyên khởi không phải là học thuyết và lại càng
không phải là triết lý của học thuyết. Duyên khởi là tự thân của con người và
các pháp sinh diệt. Ai thấy được nó thì giác ngộ, ai không thấy được nó, thì
không giác ngộ; ai thấy được nó thì thấy Phật, ai không thấy được nó là không
thấy Phật; ai chứng nhập với tính - không nơi duyên khởi là chứng nhập Niết bàn
và ai không chứng nhập được với tính không nơi duyên khởi, thì không chứng nhập
Niết bàn.
Do không nhìn thấy tính duyên khởi là tính
trung đạo nơi mọi sự hiện hữu, mà con người sinh ra sự hiểu biết cực đoan đối
với mọi sự hiện hữu. Do cái nhìn cực đoan, khiến cho con người đi từ những cách
nhìn khuyết tật nầy, đến những cách nhìn khuyết tật khác.
Cách nhìn khuyết tật là cách nhìn thiếu
thực tế. Do thiếu thực tế nơi nhận thức, khiến dẫn sinh thiếu thực tế nơi hành
động và hành sử không hoàn hảo giữa con người với con người và giữa con người
với muôn vật.
Nền văn hóa, giáo dục, chính trị và tôn giáo không thiết lập
trên nền tảng của cái thấy, cái biết về duyên khởi, tự chúng dẫn sinh ra những
kiến chấp cực đoan, và đã tạo nên những thảm kịch cho xã hội con người.
Chiến tranh không hề xảy ra cho xã hội
loài người, từ những cái nhìn hỗ tương toàn diện, mà từ những cái nhìn thiển cận
và phiến diện.
Cái nhìn chính xác và toàn diện là cái
nhìn thấy con người không có tính ngã. Không có tính ngã thì làm gì có chiến
tranh. Tự thân của hòa bình là duyên khởi không tính ngã. Con người sống với hòa
bình là con người buông bỏ tính ngã. Ở trong đời, những ai có tấm lòng vị tha
càng lớn, thì tính ngã nơi họ càng teo lại, và có tình thương không biên giới,
thì tính ngã nơi họ không còn.
Bởi vậy, bất cứ nền văn hóa, giáo dục,
chính trị và tôn giáo nào khích động tính ngã, thì chính những cái ấy khích động
xã hội con người chiến tranh và chính nó là con rối và cướp mất bình an của xã
hội con người vậy.
Ngã có mặt ở đâu, thì ở đó có vọng tưởng và phân biệt, có kỳ
thị và phân hóa, có chia rẽ và chiến tranh, có oán kết và hận thù. Tác dụng tự
nhiên của tính ngã là vậy, huống gì tính ấy, lại được khích động và phát triển
bởi những nền văn hóa, giáo dục, chính trị và tôn giáo phát triển theo định
hướng ấy, thì nó nguy hiểm cho an bình của xã hội con người đến chừng mức nào?
Cũng vậy, bản chất của cam là ngọt, nhưng
con người không hưởng được vị ngọt của cam, là do người trồng cam và người hái
cam để dùng, chứ không phải tại cam. Và cũng vậy, thế giới con người rất đẹp và
rất mầu nhiệm, so với những loài kém hoàn hảo và phước báu, nhưng bản thân con
người không thừa hưởng được phước báo và sự hoàn hảo ấy của mình, bởi do sự chấp
ngã của con người, và lại phát triển sự chấp ngã ấy, trở thành nền văn hóa thần
ngã, nền giáo dục cục bộ, nền chính trị khép kín và nền tôn giáo thần ngã quyền
năng.
Vì vậy, bản chất của cam là ngọt, nhưng nó
không ngọt là do người trồng cam không phù hợp chất đất và người hái cam vội vã
không đúng thời.
Cũng vậy, tự thân của mọi sự hiện hữu giữa
cuộc đời là hoàn hảo và mầu nhiệm, nhưng con người không nhận được sự hoàn hảo
và mầu nhiệm ấy từ cuộc đời, để sống vui, sống đẹp, sống có ý nghĩa và rộng lớn
là do tính chấp ngã nơi con người. Và bất hạnh lớn nhất cho xã hội con người
hiện nay là mọi sinh hoạt của nó đang bị khích động chạy bươn theo hướng đa dục!
Và nếu nền văn hóa, giáo dục, chính trị và
tôn giáo hiện nay của những quốc gia nào khích động con người chạy bươn về hướng
hữu ngã, thì khiến cho đời sống con người nơi những quốc gia ấy, càng ngày càng
trở nên ích kỷ, rỗng tuếch, kiêu ngạo, cuồng tín, tàn bạo, vô ơn và tự hủy diệt
môi trường sống của nó một cách thê thảm và ngu muội!
Vượt Qua Gọng Kềm
úng và sai luôn luôn là hai mặt tương phản của nhận thức. Nếu không có cái
đúng, ta khó nhận ra được cái sai và nếu không có cái sai, thì ta khó nhận ra
được cái đúng.
Ở trong thế giới nhận thức của con người, chính cái nhận
thức đúng tạo ra cái nhận thức sai cho ta, và chính cái nhận thức sai, tạo ra
cái nhận thức đúng cho ta. Lằn mức đúng sai ở nơi thế giới nhận thức của con
người thật mỏng manh và tế nhị.
Cái mà ngày hôm nay, ta nhận thức là đúng, nhưng nó lại là
cái sai của ngày hôm qua và nó cũng lại là cái sai của ngày mai. Và cái mà ngày
hôm nay ta cho là sai, nhưng ngày hôm qua ta đã từng cho nó là đúng và ta đã
từng cưng chìu nó hết mức. Vì vậy mà lằn mức nhận thức đúng sai của ta thật trớ
trêu và mỏng manh, khiến cho ta không phải chỉ có một mặt người mà chính nhận
thức của ta đã tạo nên cho ta con người muôn mặt.
Lại nữa, cái đúng do ta nhận thức, chưa hẳn là cái đúng của
người khác. Cái đúng do nhận thức đem lại của những con người vùng nầy, chưa hẳn
là cái đúng của những con người vùng khác. Cái đúng của người có học, chưa hẳn
là cái đúng của những người ít học. Cái nhận thức đúng của những người lớn, chưa
hẳn là những nhận thức đúng của những người trẻ. Và nhận thức đúng của người trẻ
nầy không hẳn là nhận thức đúng của người trẻ kia. Vì vậy, cái đúng xảy ra cho
nhận thức con người thật tế nhị và đa dạng.
Cũng em bé đó, chiều hôm qua mình cho nó một cái kẹo, nó
còn đòi thêm cho nó hai cái, nhưng sáng nay mình cho nó một gói kẹo, nó từ chối
quyết liệt và không thèm để ý đến bất cứ một cái gì liên hệ đến kẹo. Vì sao em
bé xảy ra tình trạng như vậy? Vì chất liệu của mấy cái kẹo ngày qua đã không đáp
ứng đúng nhận thức của em. Trước đó, em ấy tưởng rằng, kẹo là ngọt, nên được một
cái đòi thêm hai cái. Nhưng, khi ăn kẹo, em bé mới phát hiện ra, kẹo không phải
là ngọt, kẹo là cay và the. Do chất liệu tạo nên kẹo không đúng với nhận thức
của em, nên em mặc cảm và từ chối quyết liệt. Em mặc cảm với kẹo. Nghĩa là mỗi
khi nghe ai nói đến kẹo em đều lắc đầu từ chối lia lịa. Tại sao? Vì bây giờ
trong em có một nhận thức mới về kẹo, kẹo không phải là
ngọt mà cay và the. Mọi người nói với em kẹo không phải cay và the như em hiểu
đâu, kẹo ngọt mà! Em ấy nói, mọi người đều nói dối với em, chính em đã ăn kẹo và
thấy kẹo cay và the, vì vậy không bao giờ có chuyện kẹo ngọt đối với nhận thức
của em bé đó nữa.
Vì vậy, trong khi nhận thức đúng sai đối với một vấn đề
chúng ta cần phải tế nhị, sâu lắng và cực kỳ thận trọng, nếu không, mọi nhận
thức của ta rơi vào cái đúng cực đoan của em bé. Bảo bé không nhận thức kẹo là
cay và the sao được, vì chính bản thân nó trải nếm kia mà!
Vì vậy, trong đời sống hàng ngày, ta hãy coi chừng những tự
hào trải nghiệm của mỗi chúng ta. Nếu ta không có tuệ giác đích thực của một
người lớn để vượt qua những đúng sai do tự thân mình nhận thức hay do truyền
thống văn hóa, tín ngưỡng giáo dục tạo thành, hay do chung sống với nhau trong
cộng đồng nghiệp lực mà cảm nên, thì ta sẽ rơi vào cái nhận thức đúng sai về
ngọt, cay và the của những cái kẹo mà một em bé đã trải nếm.
Trong thế giới nhận thức của con người, cái đúng và cái sai
thường nằm chung một giường, rồi cùng đắp chăn phủ kín và ngủ với nhau, nhưng
đến khi chiêm bao, thì mỗi người là mỗi giấc mộng khác nhau.
Biết như vậy, để mọi hành sử của ta đừng rơi vào những cạm
bẫy của nhận thức, và đừng bao giờ sử dụng nhận thức để nhận thức và phê phán
một điều gì. Tại sao? Vì tự thân của nhận thức thì giới hạn, nên tạo ra nhiều
lầm lỗi. Ta càng nhận thức, ta càng rơi vào cạm bẫy của lầm lỗi.
Vì vậy,
ta cần đình chỉ mọi nhận thức để cho tuệ sinh khởi. Với tuệ, ta nhìn vào nơi hậu
quả mà biết rõ nhân duyên của mọi vấn đề và nhìn vào hiện tượng là thấy rõ bản
chất. Tuệ là vậy, nên tuệ giúp ta vượt ra khỏi mọi sai lầm của nhận thức, để hội
nhập thực tính nơi vạn hữu.
Rỗng Rang Và Vô Sự
Có những người đến thăm tôi và họ cho tôi biết rằng, họ là những người đang
nghiên cứu và làm việc cho đạo Phật.
Tôi cười và nói với họ rằng, đạo Phật
không có việc gì để làm. Đạo Phật ở bên trong thì rỗng rang, bên ngoài thì vô
sự. Đạo Phật là vậy, nên đạo Phật không có việc gì để các bạn làm và cũng không
có cái gì để các bạn nghiên cứu cả.
Làm việc mà trong lòng thì chất đầy nhân,
ngã, tham sân si, bên ngoài thì chạy đua theo danh tướng sáu trần, làm việc như
vậy không thể gọi là làm cho đạo Phật mà cũng không thể gọi là làm cho bất cứ
đạo nào cả. Nghiên cứu đạo Phật mà trong lòng đã có một định kiến sẵn về một đạo
Phật, thì làm gì thấy được đạo Phật để nghiên cứu?
Đạo Phật đâu còn khổ vui, hơn thua, danh
tướng mà gọi làm cho đạo Phật. Đức Phật có mặt trong cuộc đời đâu phải vì Ngài,
mà vì hạnh phúc an lạc của chúng sanh.
Thế giới của chúng sanh có khổ đau là do
chúng tranh nhau về nhân, ngã; chúng đấu đá nhau về hơn thua; đời sống bên trong
chứa đầy tham dục, bên ngoài chạy theo danh tướng sáu trần mà làm khổ cho nhau,
khiến oan khiên kết hoài, biển hận sôi mãi.
Vậy, ta hãy cùng nhau làm cho chúng sanh
bớt khổ, bớt mê muội, bỏ thói dối trá điêu ngoa, đối xử với nhau an hòa chân
thật, biết quay lưng với nẻo tà, hướng về đường chính, ấy là ta đang làm cho đạo
Phật đấy.
Đạo Phật, có giữa cuộc đời là để phục vụ
chúng sanh, chứ không cần chúng sanh phục vụ đạo Phật. Vì sao? Vì chúng sanh là
những kẻ đang bị trói trong ái dục, trong mê muội, trong nhân ngã, trong hơn
thua, nên chúng có biết đạo Phật là gì để phục vụ.
Cũng vậy, ta không thể bảo rằng, một người
đang bị trói lại giải phóng cho một người có đời sống tự do. Và một người mù lại
dẫn đường cho một người có đôi mắt sáng.
Vì vậy, đạo Phật không cần bạn làm bất cứ
việc gì cho nó cả và nó lại hoàn toàn không có bất cứ công việc gì cho bạn làm
cả. Bạn hãy nhìn cho đúng đối với những gì bạn đang có và đang tiếp xúc, và bạn
hãy phát tâm nguyện thật rộng lớn để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh đi!
Bạn hãy vì sự giác ngộ cho hết thảy chúng
sanh, mà dấn thân làm hết thảy mọi công việc đi! Bấy giờ công việc gì của bạn
làm, cũng là công việc của Phật. Nên, kinh Hoa Nghiêm nói: “Phụng sự chúng sanh
là cúng dường chư Phật”.
Ấy là điều bạn cần phải biết để thực hành.
Biết một cách thấu đáo, sâu sắc và rỗng rang; thực hành một cách kiên trì, không
mỏi mệt và vô sự!
Bạn hãy biết bạn là gì, trước khi bạn lên
đường bằng đại nguyện và chúc bạn thành công!
Tam Bậy Tứ
Bạ
Có vị khách đến thăm và nói cho
tôi biết rằng, ông ta có viết một bài nghiên cứu về Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ông
nói, bài ông viết rất công phu, sử dụng được rất nhiều nguồn tư liệu và nhất là
ông đã sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại để viết.
Tôi cười và nói với khách rằng: Tôi cũng
có viết một bài về Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng tôi viết rất tam bậy, tứ bạ về ông
ta. Tôi biết, tôi viết về ông ta rất tam bậy, tứ bạ mà tôi vẫn viết.
Chắc chắn, Tuệ Trung Thượng Sĩ, cũng biết về sau nầy có rất nhiều người viết tam
bậy, tứ bạ về ông, mà ông không giận, trái lại còn cười và nói: “Thời đại của
hắn viết như vậy về tôi là đúng. Cái đúng của hắn là cái đúng của tam bậy, tứ bạ
đối với tôi”.
Khách ngồi im, tôi nói thêm:
“Những gì ghi chép ở trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, nếu Tuệ Trung Thượng Sĩ
sống lại và đọc, chắc ông nói rằng, những gì ông nói trong đó cũng đều là tam
bậy, tứ bạ cả, sao ai ghi lại, hồn vía đâu mất chỉ còn chữ nghĩa!”.
Tôi nói với khách: “Thật kinh hãi!
Nếu ta ức đoán về một người, mà người ấy đã vượt ra khỏi kích thước của mọi thời
đại, nhưng ta lại đem kích thước của thời đại chúng ta để đo lường người ấy, rồi
kết luận họ theo kích thước đã được định hướng trong thời đại của mình, ấy quả
là một việc làm tàn bạo và đầy kinh hãi”.
Tuy nói vậy, nhưng không có gì
quan trọng, mọi việc xảy ra trong thế gian này, ai ưa nói gì thì họ cứ nói, ai
ưa viết gì thì họ cứ viết, tùy theo cái thấy, cái biết, cái cảm nhận của họ.
Tuy nhiên, ta biết chắc một điều,
là điều tam bậy, tứ bạ luôn luôn có sẵn ở nơi cái thấy, cái biết và cái cảm nhận
của mọi người đối với một người hay đối với một điều gì đó, mà họ ưa hoặc không
ưa. Bạn nên biết, những điều họ ưa, còn sinh ra tam bậy, tứ bạ cho họ nữa, huống
là những điều họ không ưa, mà phải làm và phải nói, thì không những sinh ra tam
bậy, tứ bạ mà còn sinh ra bậy bậy, bạ bạ hơn cả tam bậy, tứ bạ nữa kia!
Bậy bạ là chuyện muôn đời của thế gian. Nên, mọi chuyện trên
đời chẳng có gì quan trọng. Hãy biết nó như vậy là như vậy, mời bạn uống trà và
cười đi!
Một Công Án
Bạn biết không? Người ta đi thuyền, gặp
sóng to, gió lớn, người lái thuyền không làm chủ được tay lái, thuyền bị lật,
những người ngồi trong thuyền phần nhiều không biết bơi, nên bị chết chìm dưới
nước. Người ta chết chìm như vậy, thật chẳng có gì khó hiểu.
Vua Trần Nhân Tông, cách đây hơn
bảy thế kỷ đã nói cho chúng ta, về nghĩa chết chìm của con người ta một cách kỳ
cục trong bài kệ bốn câu như sau:
“Hữu cú vô cú
Tự
cổ chí kim
Chấp
chỉ vong nguyệt
Bình
địa lục trầm”.
Nghĩa là:
“Câu có câu không
Từ xưa đến nay
Chấp ngón quên trăng
Đất bằng chết chìm”.
Người ta chết chìm không đợi họ phải xuống
nước và bị nước nhận chìm, mà người ta ở trên đất liền, đất bằng phẳng mà vẫn bị
chết chìm như thường.
Ở trên đất liền, nhiều người đã bị chết
chìm bởi những sự quan hệ đối đãi của họ. Họ nghĩ rằng, “ăn một miếng, trả một
miếng” mới là lẽ phải, mới là công bằng. Nên, người ta chưởi mình, thì mình
chưởi lại; người ta đánh mình, thì mình đánh lại; người ta bôi nhọ mình, thì
mình bôi nhọ họ lại; người ta giết mình, thì mình giết lại; người ta hơn mình,
thì mình phải tìm cách hơn họ lại. Chính những quan hệ đối đãi đó đã nhận chìm
thế giới con người vào biển cả sầu hận và khổ đau.
Như vậy, con người ở trên đất bằng mà bị
chết chìm là vậy.
Con người đã nhận chìm đời mình trong cái
nhận thức nhị biên, đối đãi của nó. Và đã bị chết chìm trong cái chấp ngã của
nó. Mỗi khi đã chấp ngã, thì con người chạy bươn theo ngũ dục và sẽ bị ngũ dục
nhận chìm, sẽ bị sáu trần
lừa phỉnh.
Nên, bấy giờ con người quên đi mục đích
sống, mà chạy theo và bám lấy phương tiện sống, khiến cho họ bị những phương
tiện sống nhận chìm, mà vua Trần Nhân Tông nói, “từ xưa tới nay, chấp ngón quên
trăng”.
Ngón tay của bậc đạo sư dùng để chỉ mặt
trăng cho học trò, chứ không phải ngón tay là mặt trăng. Người học trò lại bám
lấy ngón tay và cho ngón tay là mặt trăng. Như vậy, người học trò vĩnh viễn
không thấy mặt trăng, vì nó đang bị ngón tay nhận chìm nó. Nó đứng trên đất bằng
mà chết chìm. Nó chết chìm vì nhận thức sai lầm của nó, không những đối với mặt
trăng mà ngay cả đối với ngón tay. Tội nghiệp cho nó, nó đang ở trên đất bằng mà
bị chết chìm. Không phải nó đang chết, mà nó đã chết chìm và nó sẽ tiếp tục tái
sanh để tiếp tục đời sống chết chìm ấy trong tương lai.
Cũng vậy, những gì đức Phật dạy cho học
trò của Ngài được ghi lại ở trong kinh điển, chỉ là những pháp môn giúp cho
người thực hành giác ngộ, chứ nó không phải là giác ngộ. Nếu tu học, ta bị mắc
kẹt vào pháp môn, ta sẽ bị pháp môn nhận chìm và ta sẽ bị chết chìm ở trong pháp
môn. Điều ấy, cũng chẳng khác nào, vua Trần Nhân Tông nói: “Bình địa lục trầm”.
“Bình địa lục trầm”, là một công án, không
phải chỉ dành cho giới thiền học tham chiếu, mà còn dành cho những ai không
những biết đi bằng đôi chân, mà còn biết đi bằng cái đầu!
Hạnh Phúc Có Mặt Cho Bạn
Hạnh phúc không phải là đối tượng
đang đứng ở phía trước để cho bạn bươn chạy kiếm tìm. Đối tượng đang đứng ở phía
trước, mà mắt bạn đang nhìn thấy hay trí bạn đang tưởng tượng ra, để khát thèm
ấy, là hoàn toàn không có thực, chúng chỉ là những bọt bèo hay ảo ảnh được tạo
ra từ tâm thức khát thèm của bạn.
Bởi vậy, càng chạy bươn về đối
tượng, bạn càng thất vọng bởi nó. Nên, hạnh phúc hay an lạc không phải là những
đối tượng để cho bạn bươn chạy kiếm tìm. Nó hoàn toàn không nằm ở phía trước để
cho bạn bươn chạy, nó hoàn toàn không nằm ở phía sau để cho bạn quay lui hồi
tưởng, nó cũng không phải nằm ở giây phút hiện tại và ở đây để cho bạn an trú và
ôm hưởng.
Vậy, thì nó nằm ở đâu? Nó không
nằm ở đâu cả. Nó chỉ hiện hữu cho bạn, khi nào tâm bạn hết vọng tưởng. Buông hết
thảy mọi vọng tưởng, về quá khứ, hiện tại và tương lai; buông bỏ hết thảy mọi
vọng tưởng ở đây hay ở đó, ở bên nầy hay ở bên kia, và buông bỏ cho đến chỗ
không còn có bất cứ cái gì nữa để buông bỏ, thì tức khắc, hạnh phúc hay an lạc
có mặt cho bạn.
Hạnh phúc không phải là sự buông bỏ, nhưng do buông bỏ mà hạnh
phúc có mặt cho bạn!
Do đó, bạn hãy thực tập buông bỏ mọi vọng
tưởng đi, thì hạnh phúc hay an bình tức khắc có mặt cho bạn!
Cao Hay Thấp
Cây cao lại bị gió lay và dễ bị gãy đổ;
cây thấp lại bị cây cao đè và dễ bị nước ngập, nhận chìm.
Cũng vậy, ở trong đời bạn ngồi ở vị trí
cao, bạn phải luôn luôn chịu đựng những ngọn gió giữa cuộc đời cạnh tranh, khen
chê thổi vào và bạn có thể bị lay đổ bởi bất cứ lúc nào và ở đâu.
Và nếu bạn an phận ngồi ở những vị trí
thấp, bạn không bị gió đời thổi vào cạnh tranh, nhưng bạn sẽ bị gió đời thổi vào
đè bẹp và khinh miệt. Ở vị trí thấp, bạn còn phải chịu đựng những cơn lũ của
cuộc đời có thể nhận chìm bạn bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu.
Vì vậy, Nguyễn Du nói:
“Đã mang lấy nghiệp
vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời
gần trời xa”.
Vậy, đứng ở vị trí cao cũng do
nghiệp; đứng ở vị trí thấp cũng do nghiệp.
Do quan hệ với nghiệp mà hiện hữu
giữa đời, thì cho dù đứng ở vị trí nào, cao hay thấp, cũng không thoát khỏi sự
bất an và nguy hiểm cả.
Tuy nhiên, dù ở vị trí nào trong
cuộc đời, nếu ta biết đem tấm lòng chân thật, bất vụ lợi mà sống với nhau, thì
mọi cái nguy đều sẽ biến thành cái an và mọi cái an đều biến thành toàn vẹn.
Nghiệp không phải là định mệnh cố
hữu, mà nó có thể thay đổi tùy thuộc vào duyên. Mỗi khi duyên của nghiệp đã thay
đổi, thì nhân của nghiệp cũng sẽ được chế ngự và chuyển hóa.
Ta hãy chuyển hóa sự hiện hữu của ta giữa
cuộc đời do nghiệp bằng nguyện, thì cho dù đứng ở vị trí nào
trong cuộc đời đi nữa, ta cũng có thể chế tác được chất liệu an toàn và hạnh
phúc cho ta và đem lại nhiều lợi ích cho cuộc đời.
Nếu ta không biết chuyển hóa
nghiệp thành nguyện, thì ở đâu, lúc nào, làm việc gì
và sống với ai, mọi sự nguy hiểm và bất an đều có mặt ở đó cho ta.
Do đó, Nguyễn Du đã giải quyết cách đứng
của ông giữa cuộc đời bằng:
“Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Ta hãy đem tấm lòng chân thật mà sống với mọi người,
dù có ai biết hay không ai biết. Người khác biết hay không biết chẳng có gì quan
trọng cả, mà quan trọng là nghiệp hay nguyện của mình đã biết cho mình một cách chính xác vậy.
Nơi Nương Tựa An Toàn
Cơn bão số 09, tên là Ketsana thổi vào
miền Trung Việt nam, ngày 29/09/09, đã gây thiệt hại nhiều mặt cho dân chúng từ
Nghệ An cho đến Phú Yên và ngay cả cao nguyên như Gia Lai và Kontum nữa. Thiệt
hại vật chất cho các vùng nầy là không thể kể xiết. Cây cối gãy đổ, nghiêng ngã,
nhà cửa bị tróc mái, nhất là những vùng tâm bão đi qua. Có những vùng sâu, nước
ngập đến mái nhà, lương thực bị hư hại nặng nề,… Thiệt hại về nhân mạng, theo
tài liệu tổng kết kể từ 21 giờ ngày 02 tháng 10 năm 2009 của Văn phòng Ban Chỉ
Đạo phòng chống lụt bão Trung ương gồm: Chết 122 người, mất tích 12 người và bị
thương 522 người, và thiệt hại tài sản có thể kiểm tra tổng quát theo các báo
chí cho biết khoảng hơn hai ngàn tỷ đồng Việt Nam.
Với cơn bão nầy, tại chùa Phước Duyên, cây
Nhãn và cây Sến 60 tuổi bị bứng bay gốc và một cây Nhãn 70 tuổi bị xé nửa cây,
cây Mít ở cạnh Tàng Kinh Các, bị gió bẻ quẹo lại, rồi gãy nửa cây, và những cây
mít lâu năm khác cũng bị bứng gốc,… gió thổi vèo vèo, rít lên từng hùn, nghe
thật khủng khiếp!
Cơn bão đi qua đã làm cho cây cối gãy đổ ngỗn ngang, tâm trạng
của con người nhiều nơi bàng hoàng lo sợ, nhưng chỉ chưa đầy một tiếng đồng hồ
sau, tôi ngồi ở Tàng Kinh Các, nhìn ra sân, thấy những chú bướm tung cánh bay
liệng nhởn nhơ, như không có bất cứ một biến động nào xảy ra cho chú cả.
Tôi hỏi chú điệu: “Con có biết, những chú
bướm ấy, trước đó một giờ chúng núp bão ở đâu không, mà bây giờ chúng lại bay ra
một cách thoải mái như vậy?”.
Chú ấy thưa: “Dạ con không biết”. Tôi nói
với chú ấy rằng: “Muôn vật đều có khả năng tự bảo vệ mình, trước những nguy
hiểm. Những chú bướm ấy, núp vào nơi tính giác của chính nó”.
Tính giác ở nơi mỗi loài rất tinh anh và
bén nhạy. Không những các loài hữu tình có khả năng ấy, mà các loài vô tình cũng
có khả năng ấy nữa. Những năm không có bão, bụi tre ở cạnh Tàng Kinh Các, măng
mọc ra ở bên ngoài thoải mái, nhưng những năm có bão, thì chúng lại mọc gần cây
tre mẹ hay mọc ngay ở giữa bụi, lại được nhiều cây tre bao bọc lại chung quanh.
Như vậy, nếu ta tinh mắt nhìn vào cách mọc
của những bụi măng là ta cũng có thể đoán được thời tiết lụt bão của những năm
tháng sắp tới.
Vì vậy, ta biết rằng, dù cho loài hữu tình
nhỏ nhặt, có đời sống yếu đuối và mỏng manh nhất, cho đến cả loài vô tình, tất
cả chúng đều có khả năng tiên liệu trước những nguy hiểm sắp xảy ra đối với
chúng và chúng có khả năng tự phòng hộ và bảo vệ cho chính nó.
Sự tiên liệu của con người đối với những
gì nguy hiểm sẽ xảy ra cho chính mình có thể bén nhạy và sâu sắc hơn, và lại có
khả năng phòng hộ có hiệu quả hơn. Vì sao? Vì con người là loài sống có trí năng
cao cấp và đầy kinh nghiệm.
Trí năng cao cấp của con người phần nhiều bị hủy diệt là do
con người chạy theo ngũ dục và khai thác ngũ dục để hưởng thụ khoái lạc nhất
thời, do đó mà trí năng của con người bị thương tổn và hủy diệt.
Và mỗi khi trí năng của con người bị
thương tổn và hủy diệt, thì khả năng tiên liệu sự nguy hiểm và bảo vệ sự sống
còn của nó cũng bị thương tổn và hủy diệt theo.
Con người ngày nay biết nương tựa vào
những dụng cụ khoa học để bảo vệ mình. Nhưng khổ nỗi, những dụng cụ khoa học lại
là những vật vô tri, chúng là những công cụ của trí năng và hoàn toàn lệ thuộc
vào những tác động của tư duy con người.
Trí năng lại được tác động từ những tư duy
của con người, nhưng con người ngày nay phần nhiều lại lười tư duy hay là tư duy
nông nổi, một chiều, khiến cho trí năng của con người chỉ hoạt động theo bản
năng hay theo một chiều hướng nhất định. Và một khi trí năng của con người rơi
vào bản năng, thì đời sống con người biến thành thấp kém thua cả thú vật. Hay
con người tư duy một chiều, sẽ tự biến mình trở thành một loài vật cuồng tín, cố
chấp, hung dữ và tồi tệ, mà đời sống của nó có hại cho chính nó, cho muôn vật và
thiên nhiên.
Vì vậy, con người đừng đem sinh mệnh của mình phó mặc cho thần
linh, cho tư kiến của mình hay khoa học, mà hãy quay về nương tựa nơi giác tính
của chính mình, và làm cho giác tính ấy lưu hiện ra trong đời sống, để cho con
người là nơi nương tựa, phát triển và điều khiển khoa học một cách hữu hiệu; và
con người là nơi có đủ mọi điều kiện để phát triển linh tính của mình đến chỗ
toàn hảo, chứ không phải con người sinh ra để nương tựa hay phủ phục thần linh,
làm nô lệ cho tư kiến và khoa học.
Con người chỉ có khả năng bảo vệ sự an
toàn cho chính nó và đồng loại, cũng như có khả năng che chở cho những loài thấp
kém thua nó, khi nào nó biết tư duy, biết buông bỏ tư dục, buông bỏ tư kiến,
biết quay trở về sống với giác tính ở nơi chính nó và biết làm cho giác tính ấy
sáng lên mỗi ngày.
Trên trời dưới đất không một ai có thể
giúp cho con người sống đời sống an toàn và hạnh phục, bằng tâm biết buông bỏ
những tư dục, những tư kiến và biết quay về nương tựa tính giác nơi chính họ.
Tính giác là nơi nương tựa an toàn nhất của thế giới con người.
Tính giác do đâu mà có? Nó là báu vật vốn
có nơi tất cả chúng ta. Khi ta sinh, nó không đến từ đâu và khi ta diệt, nó cũng
không đi về đâu. Ta chỉ cần sống ở trong sự tĩnh lặng của tâm ý, không cố chấp
bản ngã, không chạy theo tư dục, không bám víu tư kiến, không manh tâm vọng
tưởng, thì nó sẽ hiện ra cho ta và giúp ta sống đời sống an toàn và hạnh phúc.
Nó là vậy, nên nó là nơi an toàn để cho ta quay về nương tựa.
Vì vậy, nó là nơi nương tựa an toàn nhất
cho ta.
Giải Tỏa Oán Thù
Sự thù hận giữa muôn loài đối với ta,
không phải từ trên trời cao giáng xuống, cũng không phải từ dưới lòng đất vọt
lên và lại càng không phải bỗng dưng mà có, mà nó có ngay trong mỗi bữa ăn của
chúng ta.
Một khúc cá chiên nằm trên dĩa, những
miếng thịt nổi bềnh bồng hay chìm sâu dưới tô canh trong mỗi bữa ăn của ta, đều
là những biểu hiện của oán kết và nội thù của muôn loài đối với ta.
Không oán kết và nội thù sao được, nếu ta
đi đến lò mổ, thì thấy ngay tâm sợ hãi, sự bất lực, tức tối và khổ đau của những
chú súc vật bị hại trước trí năng và bạo lực của con người.
Vì vậy, chỉ nhìn vào bữa ăn của ta mỗi
ngày thôi, là cũng đủ để thấy mỗi ngày đi qua là mỗi ngày, ta đều dệt thêm những
sợi dây oán kết, nội thù.
Mỗi miếng thịt, mỗi khúc cá ta ăn, đều hàm
chứa những trữ lượng hận thù của các loài thú vật đối với ta. Một trong những
nguyên nhân sinh khởi chiến tranh ở trong xã hội con người là do ăn và khai thác
cái ăn để hưởng thụ.
Do đó, nhà bếp của mỗi gia đình là một địa
ngục nhỏ của những loài súc vật và là nơi tạo ra sự liên hệ oán kết, nội thù của
muôn vật với từng gia đình. Mỗi nhà hàng, mỗi quán nhậu là mỗi địa ngục lớn của
những loài súc vật trong xã hội và là nơi tạo ra sự liên kết oán thù giữa muôn
vật với cộng đồng. Nên, mỗi bữa ăn, mỗi bữa tiệc là một thiên đàng trá hình của
những địa ngục đầy thù hận.
Vì vậy, đạo Phật đã dạy cho con người phải
phát nguyện thực tập ăn chay tháng hai ngày, bốn ngày, sáu ngày, mười ngày, hay
ăn chay kỳ và trường là để có cơ hội tự mình giải tỏa oán kết, làm giảm bớt nỗi
đau của muôn loài và nuôi dưỡng tâm từ bi của chính mình đối với tất cả.
Tâm từ bi mà đức Phật dạy, không những có
tác dụng thương người, mà còn thương cả muôn vật; không những có tác dụng cứu
người, mà còn cứu cả muôn vật; và không những có tác dụng bảo vệ con người, bảo
vệ muôn vật, mà còn có khả năng bảo vệ sinh môi cho con người và muôn vật sống
còn một cách lành mạnh, có ý nghĩa.
Ta nên biết rằng, tâm từ bi có mặt ở đâu,
thì ở đó có sự giải trừ oán kết và hận thù. Tâm từ bi của ta càng lớn, thì hiệu
quả của sự giải trừ oán kết và hận thù của ta đối với mọi người và muôn loài
càng cao.
Những chướng ngại đối với đời sống hạnh
phúc tự thân, gia đình và xã hội không phải vô cớ mà tất cả đều có duyên cớ của
chúng. Không những bỗng dưng ta phát bệnh, mà phát bệnh phần nhiều là do ăn uống
không có chừng mực, làm việc thái quá,… Ăn uống không có chừng mực, thiếu trí
tuệ, sẽ dẫn sinh bệnh hoạn cho ta.
Bệnh hoạn là một trong những chướng ngại
căn bản đối với hạnh phúc. Ăn uống không có chừng mực, thiếu trí tuệ sẽ dẫn sinh
nghiệp báo cho ta. Nghiệp báo thì lúc nào và ở đâu cũng có tác dụng gây trở ngại
hạnh phúc và an lạc cho ta. Nghiệp báo của ta mỗi khi đã dẫn sinh, thì chúng
không những gây trở ngại cho hạnh phúc và an toàn của ta, mà còn cho cả gia đình
và xã hội.
Gia đình ta làm sao mà an ổn hạnh phúc
được khi mà ta bị bệnh hoạn. Và xã hội làm sao mà an toàn và hạnh phúc, khi có
nhiều người trong xã hội bị bệnh hoạn.
Ăn mà không bị sinh khởi nghiệp chướng,
đức Phật đã dạy cho đệ tử của Ngài cần phải thực tập năm phương pháp sau đây:
-
Phải biết rõ những thực phẩm ta đang thọ dụng, chúng đến
từ công sức của nhiều người.
-
Phải biết rõ đức và hạnh của mình đủ hay thiếu để thọ
dụng những tặng phẩm nầy.
-
Chủ yếu là phải biết phòng hộ tâm tham của mình trong
khi ăn.
-
Phải biết rõ thực phẩm ta đang ăn là thuốc tốt để trị
liệu bệnh khô gầy của thân thể.
-
Phải biết rõ ăn chỉ phương tiện giúp ta thành tựu đạo
nghiệp mà không phải là đạo nghiệp.
Trong khi ăn, ta thực tập năm phương pháp
nầy với tâm hoàn toàn tỉnh giác, ta có khả năng nuôi dưỡng lớn tâm từ bi của ta
và ta có khả năng giải tỏa nội kết cũng như oán thù giữa mọi người với ta, giữa
ta với mọi người. Và không những vậy, ta còn có khả năng giải tỏa mọi oán kết
giữa ta với muôn loài, giữa muôn loài với ta, không phải một đời mà nhiều đời.
Và, nếu vì nghiệp chướng, ta chưa ăn chay
được, thì cũng nên khởi tâm xấu hổ và tự trách phước đức yếu kém của mình trước
khi ăn, chứ không nên ăn với tâm kiêu ngạo và phóng túng.
Ta thực tập như vậy, dù quả báo đối với
ăn, ta chấp nhận trả, nhưng nghiệp báo của ăn, ta đã không tạo thêm và còn
nguyền xin chuyển hóa, khiến cho mọi bữa ăn của ta không còn tạo nên những oán
nghiệp, hận thù mà ở trong sự hiểu biết và an lạc. Sự tự do và an lạc của ta có
ngay nơi tâm hồn và nơi bữa ăn của chính mỗi chúng ta.
Chân Lý
Của Mọi Vấn Đề
Sống giữa đời, nếu ta không thấy sai, thì không thể sửa. Nếu thấy sai, nhưng
thấy không chính xác, thì càng sửa lại càng sai và không bao giờ hết sai.
Điều nầy, tôi đã nhận ra, khi tôi cho in
những tập sách mà tôi viết. Tập sách của tôi khi làm vi tính, nó đã có những lỗi
sai chính tả ở nơi bản gốc, nhưng do không phát hiện được, nên khi in ra thành
phẩm, nó có những lỗi sai chính tả từ nơi bản gốc của nó.
Sửa những lỗi sai nơi thành phẩm,
hay nơi hậu quả chỉ là những khắc phục tạm thời. Nếu bản gốc không sửa mà ta chỉ
sửa ở nơi thành phẩm, thì mỗi lần in là mỗi lần sai và lại mỗi lần in là mỗi lần
ta lại mất công sửa sai.
Vì vậy, muốn hết sửa sai, ta phải biết sửa
ngay nơi bản gốc.
Cũng vậy, sống ở đời ta có nhiều sai lầm,
là do tâm ta có vô minh vọng tưởng. Nếu ta không sửa những vô minh vọng tưởng
nơi tâm ta, mà chạy theo cái bên ngoài để sửa, thì càng sửa là càng sai.
Vì vậy, Pháp thoại đầu tiên ở vườn Lộc
Uyển cho năm anh em Kiều Trần Như, Đức Phật đã dạy cho họ bài pháp thoại Tứ Diệu
Đế gồm: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo đức Phật dạy:
Khổ nên biết. Tập nên đoạn. Diệt nên chứng. Đạo nên tu.
Nghĩa là đối với cái khổ vật chất và tinh
thần của thân năm uẩn như: sanh, già, bệnh, chết, thương yêu xa lìa, oán thù gặp
gỡ, ước mong không thành và những xung đột bất thường của năm uẩn, thì phải quán
chiếu để biết rõ chúng một cách tường tận, không bị lầm lẫn, biết như vậy, gọi
là biết về khổ.
Đối với Tập, Đức Phật dạy không những chỉ
biết những hành trạng của nó, mà còn phải biết đoạn tận nó một cách triệt để.
Tập là nơi tích lũy và tập khởi của vọng tưởng, của những vô minh, phiền não.
Tập đế đã bị đoạn tận, thì Khổ đế hoàn toàn mất hết khả năng biểu hiện.
Đối với Diệt, Đức Phật dạy nên chứng.
Chứng Diệt đế bằng cách nào? Bằng cách tu tập Đạo đế.
Vì vậy, ở trong giáo lý Tứ Diệu Đế, Đạo đế
có ba chức năng. Một là chặt đứt Tập đế. Hai là chấm dứt Khổ đế và ba là chứng
nhập Diệt đế hay Niết bàn.
Nếu ta không thực hành Đạo đế, thì
ta không có khả năng chặt đứt Tập đế, để chấm dứt Khổ đế và để hội chứng Diệt đế
là Niết bàn. Niết bàn là trạng thái tâm thức hoàn toàn vắng mặt Tập đế và đời
sống hoàn toàn vắng mặt Khổ đế.
Do đó, ta muốn hết khổ, không phải chạy theo cái khổ
để giải quyết, mà phải biết giải quyết ngay nơi nguyên nhân sinh khởi khổ là Tập
đế. Và cũng vậy, ta muốn giải thoát, không phải chạy bươn theo Diệt đế hay Niết
bàn, mà phải biết chứng Niết bàn ngay ở nơi sự thực hành Đạo đế.
Sự sai lầm lớn nhất của xã hội con người,
là không biết dừng lại những nguyên nhân gây ra khổ đau, mà chỉ biết chạy theo
khổ đau để giải quyết và khắc phục hậu quả. Trong lúc đó, bài pháp Tứ Diệu Đế là
Thông điệp, mà đức Phật đã gởi đến cho toàn thể thế giới con người đã hơn hai
mươi lăm thế kỷ, để giúp họ giải quyết triệt để những bất công của xã hội, những
tồi tệ và đau khổ của nhân sinh, để cho xã hội con người sống chung trong hòa
bình và an lạc, nhưng thông điệp ấy vẫn chưa được xã hội con người đón nhận và
thực hành một cách nghiêm túc.
Vì vậy, họ đã đi tìm kiếm hòa bình
trong những lò vũ khí và nỗ lực sản xuất vũ khí để bảo vệ hòa bình, khiến cho
tài nguyên thiên nhiên của nhân loại càng ngày càng khô kiệt, môi sinh càng ngày
càng bị ô nhiễm, xã hội con người càng ngày càng rơi xuống những vực thẳm của
bất công, tăm tối, cuồng loạn, thù hận và khổ đau.
Gốc
đã sai, thì càng sửa là càng sai. Vậy, muốn hết sai thì phải sửa gốc. Ấy là
chân lý của mọi vấn đề.
Ruột Xe Bị Xì
Ở đời ta đi bất cứ chiếc xe nào mà có cả
lốp và ruột đều xấu hay lốp tốt, ruột xấu hoặc ruột tốt lốp xấu, thì chiếc xe ấy
không có khả năng đưa ta đến đích được.
Một khi ruột xe đã xấu và xì hơi,
thì lốp xe dù có tốt đến mấy cũng không giúp được gì cho ruột xe và ngược lại
cũng vậy, nếu ruột xe tốt mà lốp xe xấu, thì cái xấu của lốp xe không có khả
năng bảo toàn cho cái tốt của ruột xe, để giúp cho người sử dụng xe đạt được mục
đích. Và nếu trường hợp cả lốp xe và ruột xe đều xấu, thì chiếc xe ấy không phải
là xe giúp cho người sử dụng đạt đến mục tiêu lâu dài.
Cũng vậy, trong cuộc sống con người, ta đối xử xấu với nhau cả
hình thức lẫn nội dung, thì việc chia tay nhau là chuyện dễ hiểu, nhưng ta đối
xử với nhau mang tính hình thức, thiếu phẩm chất nội dung, thì trước sau gì ta
cũng chia tay trong niềm tủi hận, và nếu ta đối xử với nhau bằng những hình thức
xấu, nhưng có những phẩm chất nội dung tốt, thì cũng khó bảo chứng được tình
thân hữu lâu dài, tại sao? Bởi vì, đời sống con người phần nhiều rơi vào bẫy
hình thức và thường đánh giá sự tốt xấu của nhau nơi hình thức và phần nhiều con
người sử dụng hình thức để đánh bóng cho nhau, vì vậy ít ai đủ kiên nhẫn để nhận
ra cái tốt không có hình thức. Và mỗi khi hình thức đã bị xem là xấu, ta khó
chứng minh để thuyết phục những người khác về một nội dung tốt đẹp tiềm ẩn ở
trong hình thức ấy.
Vì vậy, hình thức tốt phải được bảo chứng từ một nội dung tốt,
nên hình thức ấy là hình thức có thật và nội dung tốt thì tự thân của nó biểu
hiện ra mặt hình thức tốt một cách tự nhiên, nên nội dung tốt ấy là nội dung có
thật. Do đó, người xưa nói: “Cái gì có thật, cái đó có tác dụng”.
Một khi cái tốt đã có thật từ phẩm chất,
thì dù nó mang hình thức nào, nó cũng biểu hiện được những tính chất ấy của nó.
Mọi hình thức tốt không được bảo chứng bởi
nội dung, thì trước sau gì nó cũng bị xì, như ruột xe nằm ở trong cái lốp xe tốt
bị xì vậy!
Ta nên nhớ kỹ rằng, mỗi khi ruột xe đã bị
xì, thì chiếc xe ta đang sử dụng, dù được đánh bóng đến mấy, cũng chẳng bao giờ
đưa ta tới được mục đích!
Điều Ngạc
Nhiên
Thời đại của chúng ta là thời đại tin học,
nên nhiều người đã lợi dụng văn minh tin học để lạm dụng ngôn từ.
Văn minh tin học đã giúp cho ta biết được
những gì xảy ra cho thế giới con người trên toàn cầu một cách nhanh chóng, nhưng
nó cũng đã bị nhiều người lạm dụng để nói láo và lừa phỉnh nhiều người.
Nền văn minh nầy chỉ hữu ích, khi người sử dụng nó có chút
liêm sĩ về trí thức và biết thực tập đời sống không nói láo.
Nói láo không phải là điều mới lạ, nó đã
có từ thuở bình minh trong những quan hệ sinh hoạt của thế giới con người, và
nói láo đem lại tai họa cho thế giới con người thật không thể lường từ thuở ấy.
Vì vậy, các tôn giáo lớn trên thế
giới đều cấm tín đồ của họ nói láo. Cấm nói láo, vì người ta đã nói láo quá
nhiều.
Ngày xưa con người phần nhiều chất
phác, nên họ chỉ nói láo với nhau bằng lời, nhưng ngày nay con người văn minh
hơn, họ không những nói láo với nhau bằng lời, mà bằng những hội nghị, bằng
những văn kiện qui ước, bằng tranh ảnh, bằng văn chương, báo chí, truyền thanh,
truyền hình, bằng mạng lưới internet, bằng những văn hóa, những nghệ thuật cắt
xén, lắp ghép, bằng những đạo lý sáo rỗng, bằng những hứa hẹn mơ hồ và bằng
những động tác ngoại giao với những lễ nghi điêu luyện.
Một trong những lý do khiến con người nói
láo là lợi nhuận và danh xưng. Có những người vì danh xưng mà nói láo hoặc có
người, vì lợi nhuận mà nói láo hoặc có những người, vì cả hai.
Nhưng, dù ta nói láo bằng cách nào hay
bằng bất cứ lý do nào, thì nó vẫn không thể tạo ra được mối quan hệ tốt đẹp lâu
dài giữa ta và người, giữa ta và xã hội.
Tuy nhiên, nhiều người cũng biết được nói
láo không thể tồn tại lâu dài với những gì họ quan hệ, nhưng họ vẫn nói láo. Vì
sao như vậy. Vì xã hội của con người ngày nay có những người chủ trương sống
vội. Họ nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt,…”
Sống vội, thì không cần thỉ chung, không
cần lâu dài, họ có thể nói và làm bất cứ điều gì để tuyên truyền, nhằm giúp họ
có thể đạt tới mục tiêu lợi nhuận và danh xưng.
Người ta chỉ có thể từ bỏ mọi lợi nhuận và
danh xưng để sống đời chân thật, khi nào họ thấy được mọi lợi nhuận đều là độc
dược hủy hoại sự sống và mọi danh xưng đều là những vũ khí giết người.
Đọc lịch sử loài người ta thấy, lắm người
hèn hạ và thân bại danh liệt chỉ vì danh xưng và lắm người tán thân mất mạng
cũng chỉ vì lợi nhuận.
Nhưng, lợi nhuận và danh xưng, thì ở đâu
và lúc nào cũng có sức hấp dẫn với con người, và nó là một trong những tác nhân
làm nảy sinh những ngôn ngữ và điệu bộ dối láo trong những quan hệ xã hội.
Ở đâu con người thích nói láo, ở đó có sự
phồn hoa giả ảo, có những hạnh phúc mơ hồ và có những bộ điệu lễ nghi trống rỗng
và đáng ngại.
Xã hội con người ngày nay, việc nói láo để
phỉnh gạt nhau không còn là điều làm cho nhiều người ngạc nhiên. Và điều làm cho
nhiều người ngày nay ngạc nhiên nhất là trong xã hội ấy, vẫn còn có lắm người
yêu chuộng, sống và tôn trọng sự thật.
Vị Ngọt Thế Gian
Ta muốn thưởng thức hương thơm của trầm,
thì ta phải chấp nhận sự phiền nhiễu của khói và bụi từ nó.
Cũng vậy, sống ở trong đời ta muốn thưởng
thức hạnh phúc của thế gian, ở bất cứ hình thức nào, dù thấp hay cao, thì ta
cũng phải chấp nhận mọi phiền nhiễu sinh ra từ nó.
Mọi hạnh phúc mà không có phiền nhiễu, thì
không phải là hạnh phúc của thế giới con người. Đó là điều mà mọi người cần phải
thấy, trước khi thụ hưởng.
Và lại cần phải thấy thật rõ rằng, mọi vị
ngọt của thế gian luôn luôn gắn liền với mọi đời sống của các loài sâu kiến.
Muốn không gắn liền với đời sống của sâu
kiến, nên những bậc có trí ở trong đời không khát thèm và không cất giữ bất cứ
vị ngọt nào của thế gian.
Từ Những Ý Thức Ấy
Có nhiều vị xuất gia trẻ đã hỏi tôi, làm
thế nào để vượt qua những nhu cầu thấp kém của đời thường và đi trọn vẹn con
đường của mình đã chọn? Tôi đã trả lời cho họ rằng, ý thức xuất gia chưa bao giờ
bỏ tôi để đi.
Người xuất gia mà ý thức xuất gia vắng
mặt, thì thế nào họ cũng gặp tai nạn và rủi ro trong đời tu của họ.
Ta xuất gia không từ một thế lực nào, mà
từ ý thức trong sáng của ta. Vì vậy, ngay đó ta đã có sự tự do và hạnh phúc, chứ
không phải đợi đến khi thọ đầy đủ giới pháp và có danh tiếng ở trong giáo hội và
ở ngoài đời.
Có những vị xuất gia có danh tiếng trong
giáo hội và ở ngoài đời, nhưng chưa hẳn họ đã có tự do và hạnh phúc.
Hạnh phúc của người xuất gia không phải là
danh tiếng mà được sống một cách trọn vẹn cả thân và tâm ở trong đời sống xuất
gia ấy.
Và sự tự do của người xuất gia không phải
là những loại tự do thuộc về ý thức chính trị mà ý thức giác ngộ.
Ý thức được thế gian vô thường, nên không
khởi tâm bám lấy bất cứ những gì đang hiện hữu ở trong sự vô thường ấy.
Ý thức được mọi tham dục là tai họa, nên
không chạy theo chúng.
Ý thức được sự nghiệp của người xuất gia
là trí tuệ, chứ không phải là những thứ danh vọng và tài sản thế gian, nên ngày
đêm thực hành giới định tuệ không biết mỏi mệt.
Ý thức được những biếng nhác đối với sự
học tập kinh, luật, luận, tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, ngồi thiền và làm
những công việc lợi ích, đem lại an lạc cho nhiều người là không phải đời sống
của người xuất gia.
Ý thức được rằng, vô minh làm cho ta mê
muội, phiền não trói ta vào trong đời sống khổ đau, nên nỗ lực tu học chuyển hóa
vô minh và cắt đứt phiền não.
Ý thức được rằng, giận hờn và trách móc
người khác, chỉ tạo ra thêm những rối rắm và khổ đau cho chính mình, nên luôn
luôn thực hành hạnh từ bi và hỷ xả.
Ý thức được rằng, giới định tuệ là tài sản
quý báu nhất của người xuất gia, nên đi đâu cũng mang theo, sống với ai cũng sẵn
sàng chia sẻ không lẫn tiếc.
Ý thức được rằng, tâm lớn của người xuất
gia là tâm bồ đề; nguyện lớn của người xuất gia là nguyện không hưởng thụ hạnh
phúc cá nhân, mà nguyện tu tập là vì lợi ích cho mọi người, và mọi loài; và hạnh
lớn của người xuất gia là thực hành hết thảy thiện sự với tâm không nhân ngã.
Nếu những ý thức ấy, luôn luôn được thắp
sáng trong đời sống của người xuất gia, thì người xuất gia không bị đời đồng hóa
mà trái lại, họ có khả năng chuyển được những nhu cầu thấp kém của con người
trong cuộc sống đời thường.
Hạnh phúc của đời sống xuất gia đã đến với
tôi từ những ý thức ấy.
Vậy, từ những ý thức ấy, tôi xin chia sẻ
với những người bạn trẻ xuất gia!
Có Một Bàn Thờ
Có vị nói với tôi rằng, Thầy cho tôi hỏi
Thầy một câu được không? Tôi nói được. Vị ấy hỏi, Thầy có sợ chết không? Tôi
cười và nói: Trước đó tôi rất sợ chết, nhưng bây giờ thì không.
Vị ấy hỏi tại sao? Tôi nói: Trước đó tôi
chưa có ý thức cao về sự sống và chưa hề sống hết lòng với cái sống có ý nghĩa
của mình, nên bấy giờ tôi rất sợ chết. Hễ nghe ai nói đến chết, thì tôi nhắm mắt
lại, không dám nghe và nghĩ đến, vì vậy mà cái chết cứ đe dọa tôi, khiến cho tôi
nhiều lúc mất tinh thần trong sự sống.
Nhưng, bây giờ thì tôi không sợ chết nữa,
vì tôi đã sống hết lòng với sự sống rồi, và ý thức tôi đã nhận ra, chết là một
hình thức khác của sống mà thôi. Không bao giờ có cái chết thực, cái chết chỉ là
những hình thức giả tạo bên ngoài của cái sống mà thôi.
Chết là giả, vì thân tôi tuy tan rã, nhưng
nó không hề bị mất hoàn toàn. Những chất lỏng nơi thân tôi đang trở về với nước;
những chất khí nơi thân tôi đang trở về với không gian; những chất rắn nơi thân
tôi đang trở về với lòng đất; những chất nhiệt trong thân tôi đang trở về với
nguồn năng lượng mặt trời và những cái biết thuộc về các quan năng nhận thức nơi
thân tôi đang trở về với tâm thức.
Nước, đất, không khí, nhiệt lượng và tâm
thức, thì ở đâu và lúc nào mà không có. Vì vậy, tuy tôi chết, nhưng không mất.
Tuy tôi chết, nhưng tôi vẫn hiện hữu cả ngàn nơi, dưới muôn ngàn hình thức sống
động.
Và khi tôi sống, các yếu tố rắn, lỏng,
khí, nhiệt và tâm thức tương tác, tương cảm và hòa điệu với nhau, khiến tôi hiện
hữu. Tuy tôi hiện hữu, nhưng không phải thường còn. Và không phải thường còn, vì
tôi luôn luôn là một thực tại sống động. Thực tại sống động là một thực tại phi
tôi. Và vì là thực tại phi tôi, nên tôi có tự do và tôi có thể hiện hữu bất cứ
lúc nào và ở đâu, khi hội đủ nhân duyên tương tác.
Vì vậy, đứng ở góc độ nầy, tôi thấy tôi là
người đã và đang chết, nhưng đứng ở góc độ khác, thì tôi lại thấy tôi là người
đã và đang sống. Sống và chết chỉ là hai mặt chuyển động đổi thay của một thực
tại. Cũng giống như ánh sáng và bóng đêm chỉ là sự chuyển động từ một quả địa
cầu xoay chung quanh mặt trời mà có mặt.
Ý thức được điều ấy, nên sống và chết
không còn làm cho tôi ham hố hay sợ hãi.
Và nếu bạn chưa có được ý thức ấy, thì
trong đời sống của bạn, cần phải có một bàn thờ, để thờ tổ tiên huyết thống và tổ tiên tâm linh cho bạn. Bàn thờ ấy, sẽ
giúp cho bạn yên tâm để sống và sống đẹp, và bàn thờ ấy cũng giúp cho bạn yên
tâm để chết và chết một cách an bình. Vì sao? Vì khi sống, bạn có một bàn thờ
trang nghiêm, đẹp và có ý nghĩa ở trong nhà để chiêm ngưỡng mỗi ngày. Và khi
chết, bạn lại có một bàn thờ để bước lên và sống với những gì trang nghiêm, đẹp
và có ý nghĩa ấy.
Nên, sự bất hạnh lớn nhất cho ta là khi
sống, ta không có một bàn thờ đẹp, trang nghiêm và có ý nghĩa để chiêm ngưỡng và
khi ta chết không có một bàn thờ để bước lên và trở về, để sống với những tình
cảm rộng lớn, thiêng liêng và cao quí!
Tự Quét Nhà
Đi!
Có vị khách hỏi tôi, Thầy có tin
vào những lời nói của những vị nổi tiếng không?
Tôi hỏi: Tại sao anh hỏi tôi câu
ấy?
Khách: Lúc nầy tôi thích hỏi Thầy
câu ấy.
Tôi nói: Sao anh không hỏi những
người nổi tiếng ấy, vì nổi tiếng là vấn đề của những người ấy, mà không phải của
tôi hay của anh.
Tôi nói với khách rằng: Mình không
nên đem rác nhà mình đến xả nơi nhà của người khác, và cũng đừng nên đem rác của
nhà người khác về xả nhà mình. Và nếu mỗi nhà đều có rác, thì mỗi nhà phải tự lo
xuốt quét cho sạch ngôi nhà mình đi.
Và nếu trong tôi có rác, thì tôi
cũng phải nỗ lực xuốt quét những rác ấy trong tôi. Và nếu tôi không chịu xuốt
quét, thì trước sau gì, tôi cũng phải sống với ruồi muỗi, sâu kiến và chuột bọ.
Vì sao như vậy? Vì tự thân của rác rưởi, hay sinh ra sâu bọ, muỗi ruồi,… Nhưng,
ruồi muỗi, sâu kiến, chuột bọ,… không có lỗi mà lỗi là do tôi. Do tôi ăn, rồi xả
bã mía, xả vỏ cam, xả vỏ sầu riêng, xả xơ mít, xả đủ thứ… đầy nhà mà không chịu
quét…!!!
Vậy, anh có ăn và xả những thứ ấy trong nhà của anh
không? Nếu có, thì mời anh uống nước và tự quét nhà của anh đi, đừng đổ lỗi cho
ai và đừng đợi ai quét, mà làm tăng thêm tội lỗi và sự hèn mọn nơi mình!
Tổ Liễu Quán dạy: “Nếu sớm biết đèn là lửa, thì cơm
chín đã lâu rồi = Nhược tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thì”.
Lời dạy ấy của Tổ vẫn còn mãi cho ta, vẫn
nhắc ta “hãy tự quét lấy nhà mình!”.
Câu Chuyện Của Trái Tim
Ta hãy sống với mọi người bằng tấm lòng,
thì tấm lòng của ta sẽ có trong tấm lòng của mọi người. Hạnh phúc chưa từng có
với ta, là vì ta chưa từng sống với ta và với tất cả mọi người bằng tất cả tấm
lòng.
Ta chưa từng sống đàng hoàng với ta, chưa
từng sống hết lòng với ta, thì ta làm gì mà có được chất liệu đàng hoàng và có
một tấm lòng đàng hoàng để hiến tặng cho người.
Cách đây hơn mười năm, có nhiều sinh viên Mỹ đến Việt Nam
nghiên cứu, họ đến Tổ đình Từ Hiếu xin tôi nghe pháp thoại và hướng dẫn thiền
tập.
Bấy giờ, tại Thiền đường Trăng Rằm, Tổ đình Từ Hiếu,
tôi đã chia sẻ pháp thoại cho họ, thầy Từ Niệm và thầy Minh Nguyện làm thông
dịch. Trong bài pháp thoại tôi nói: “Hạnh phúc đến với chúng ta không phải từ
quyền uy, tiền bạc, trí thức và lại càng không phải từ những vị trí khác biệt
của mình trong xã hội, mà nó đến với chúng ta từ tấm lòng. Vì vậy, chúng ta cần
phải biết chăm sóc tấm lòng của chúng ta, đừng để cho nó bị lu mờ và thương
tích. Trong đời sống, nếu con người muốn có hạnh phúc, thì yếu tố đầu tiên là
con người phải biết chăm sóc tấm lòng của mình, cho thật trong sáng, đừng để cho
nó bị thương tích và lu mờ. Và trong sự quan hệ giữa người và người, thì chúng
ta hãy đem tất cả tấm lòng mà đến với nhau để sống với nhau và chăm sóc nhau”.
Sau đó, tôi hướng dẫn họ đi thiền hành ba
vòng ở chung quanh Thất Lắng Nghe với những bước chân có ý thức và sâu lắng.
Thiền hành xong, một cô sinh viên người
Mỹ, đã đem tặng tôi với một trái tim bằng máu. Tôi hỏi, tại sao bạn có trái tim
nầy? Cô ấy kể, đây là trái tim mà mẹ tôi đã làm ra và trao cho tôi. Mẹ tôi đã
tạo ra hình trái tim mà chung quanh bằng những gai nhọn và bà đã sơn đỏ trái tim
ấy, nơi những lỗ bị gai nhọn đâm thủng.
Trước khi trao trái tim ấy cho tôi, mẹ tôi
nói: “Trái tim của mẹ rất đau khổ và đã bị thương tích nhiều bởi những gai nhọn
tình yêu. Và mẹ tôi nói, ba con là một trong những thủ phạm tạo nên trái tim
nầy”. Cô ấy kể tiếp, cha cô đã chia tay với mẹ cô, để sống với một người đàn bà
khác, khi cô mới hai tuổi. Từ đó, cô ta ở với mẹ, được mẹ nuôi dưỡng chăm sóc và
cho ăn học, đến sinh nhật năm mười tám tuổi, thì mẹ cô lại trao cho cô trái tim
nầy. Mẹ cô nói với cô rằng: “Đây là kỷ vật lớn nhất và quá đắt đối với mẹ, và
bây giờ là ngày sinh nhật thứ mười tám của con, mẹ tặng cho con trái tim nầy, để
con có thêm những kinh nghiệm học hỏi một cách thực tế trong đời sống con
người”.
Nghe cô ấy kể, tôi ngồi yên lắng, thở thật
sâu và đưa đôi mắt nhìn thẳng vào mặt của cô ta với tất cả tấm lòng và hỏi: Trái
tim của mẹ có một kỷ niệm lớn và có một giá rất đắt đối với cô như vậy, nhưng
tại sao cô lại đem tặng cho tôi?”.
Cô ấy nói, qua pháp thoại và đi thiền hành, tôi thấy trái tim
tôi đã được phục hồi và trái tim của mẹ tôi cũng đã được phục hồi qua trái tim
tôi sáng nay. Vì vậy, tôi tặng trái tim nầy, cho Thầy, để Thầy có nhiều cơ hội
chia sẻ những vấn đề nầy cho nhiều người nữa.
Tôi chắp tay cảm ơn cô ta, và cô ta đã mỉm
cười, rồi cũng chắp tay lại cảm ơn tôi và nói xin tạm biệt!
Như vậy, ta thấy hễ đến với nhau, bằng tất
cả tấm lòng, thì không có vết thương nào nơi trái tim của ta là không được trị
liệu và chuyển hóa.
Trăng Vẫn Yên Bình
Những hiện tượng mưa bão, sấm sét, mây
gió, sương mù,… không hề ảnh hưởng gì đến sự yên bình và trong sáng của trăng.
Ấy chỉ là những hiện tượng che khuất trăng
đối với những hiện tượng bị cuốn hút bởi chúng. Ta đang bị cuốn hút bởi những
hiện tượng ấy, hay bị che khuất bởi những hiện tượng ấy, thì ta sẽ không bao giờ
thấy trăng.
Ta không thấy trăng và sự an bình của nó
là do ta, chứ không phải do trăng. Trăng yên bình vẫn mãi còn đó cho ta.
Cũng vậy, những dông bão hơn thua, tranh
giành triệt hạ bôi nhọ nhau, chúng chỉ là những hiện tượng của vọng tưởng, của
vô minh và chấp ngã, nó không hề làm cho phật tính nơi tự thân của mỗi người mất
đi sự sáng trong và yên bình vốn có của nó.
Chỉ cần ta ngồi yên, để cho những vọng
tưởng nơi tâm ta lắng xuống là tức khắc phật tính nơi tự thân của ta hiện ra,
soi sáng cho tâm ý, hành động và lời nói của ta và giúp ta sống một đời sống an
bình.
Nên, phật tính là vầng trăng yên bình nơi
tự thân của mỗi chúng ta. Phật tính không có mới cũ, vầng trăng không có xưa
nay. Mới hay cũ, xưa hay nay, bảo thủ hay hiện đại, tất cả chỉ là những chuyện
ngoài da và ấy là chuyện của những người nhìn mặt trăng với đôi mắt bị nhòe!
Nói Với Đá
Này đá! Bạn chỉ là một thành phần của trái
đất mà không phải là tất cả. Bạn tuy cứng và rắn chắc, nhưng không cứng và rắn
chắc bằng vàng hay kim cương,…
Này đá! Bạn, tuy cứng và rắn chắc, nhưng
bạn sẽ bị nước nhận chìm, bạn sẽ bị lửa đốt cháy và bạn sẽ bị sức gió cuốn
phăng.
Này đá! Bạn, tuy cứng và rắn chắc, nhưng
bạn không cứng và rắn chắc bằng thời gian, thời gian sẽ bào mòn và nuốt chửng
bạn, mà chính tự thân của bạn không hề hay biết.
Này đá! Bạn, tuy cứng và rắn chắc, nhưng
không thể nào cứng và rắn chắc hơn trí tuệ con người. Trí tuệ con người có khả
năng nghiền nát bạn, thành những hạt bụi, thành những hạt nguyên tử và hạ nguyên
tử, rồi thổi bạn tan hòa trong không gian và có thể biến bạn trở thành bất cứ
cái gì mà họ muốn.
Vậy, này đá! Tại sao bạn cứ lầm lì và đè
cỏ hoài vậy? Bạn cứ tưởng bạn đang nằm trên cỏ và đang đè được cỏ, nhưng bạn có
thể đè được cỏ chăng? Thực tế, bạn không đè được bản chất của cỏ, mà chỉ đè được
những hiện tượng của cỏ mà thôi.
Này đá! Bạn không tin lời tôi nói sao? Nếu
không tin, bạn cứ đè cỏ đi, chỉ cần sau một thời gian, cỏ sẽ phủ trùm lên bạn
cho mà xem!
Này đá! Bạn có biết đến thiền sư Trúc Đạo
Sinh (355 – 434), một vị cao tăng thời Đông Tấn không? Vị thiền sư ấy lúc mới 15
tuổi đã lên pháp tòa giảng dạy Phật pháp, mà những trí thức của thời bấy giờ
không ai địch nổi.
Ông ta đã từng tham học với các vị Thầy
nổi tiếng như Trúc Pháp Thải ở Bành Thành, Tuệ Viễn ở Lô Sơn và với Ngài La Thập
ở Trường An, và với thông tuệ, năm 54 tuổi, ông đã thuyết pháp rằng: “Nhất xiển
đề thành Phật”, nghĩa là đối với những hạng người cực ác cũng có thể thành Phật.
Lời pháp của ông đã làm cho giới trí thức Phật giáo ở Kiến Nghiệp bấy giờ xôn
xao phản đối. Trong tình hình đó, vị thiền sư rất thương những người phản đối ấy
và im lặng. Rồi, sau đó Ngài lại nói lời ấy cho đá, thì đá lại gục đầu. Cho đến
khi kinh Đại Bát Niết Bàn do Ngài Đàm Vô Sấm dịch, truyền đến Kiến Nghiệp, thì
giới học giả Phật giáo bấy giờ mới nhận ra được điều của Đạo Sinh nói.
Vậy, này đá! Bạn có phải là đá không? Có
phải là những vị học giả không? hay bạn là một với Trúc Đạo Sinh?
Nhược Điểm
Một trong những nhược điểm lớn nhất của con người là
không có khả năng chấp nhận sự thật. Khổ là một sự thật trong đời sống con người
do bị sinh, bị già, bị bệnh và bị chết đem lại mà trong đời sống con người mấy
ai chấp nhận nó.
Vì không có khả năng chấp nhận nó, nên ta
không có khả năng đối diện nó để hiểu và thoát ly từ nó.
Không Bị Lọt Bẫy
Ta đam mê tiền, tiền sẽ hút hết sinh lực
của ta và đem tai họa đến cho ta; ta đam mê sắc, sắc sẽ hút hết sinh lực của ta
và đem tai họa đến cho ta; ta đam mê danh, danh sẽ hút hết sinh lực của ta và
đem tai họa đến cho ta; ta đam mê ăn uống, ăn uống sẽ hút hết sinh lực của ta và
đem tai họa đến cho ta; ta đam mê ngủ, ngủ sẽ hút hết sinh lực của ta và đem tai
họa đến cho ta; ta đam mê tri thức, tri thức sẽ hút hết sinh lực của ta và đem
tai họa đến cho ta; ta đam mê lý tưởng, lý tưởng sẽ hút hết sinh lực của ta và
đem tai họa đến cho ta,…
Nói tóm lại, ta đam mê đối với cái gì, ta
sẽ bị cái ấy làm cho ta mù quáng, làm cho ta mất hết sinh lực và đem tai họa đến
cho ta.
Đam mê với những cái xấu là không tốt đã
đành, nhưng đam mê đối những cái tốt vẫn không tốt cho ta đâu. Tại sao? Vì đam
mê thường dẫn sinh mù quáng. Ta đam mê khoa học, thì ta không còn có khả năng
làm chủ khoa học nữa mà ta sẽ bị khoa học điều khiển, chứ không phải ta điều
khiển khoa học. Ta đam mê văn học, nghệ thuật, âm nhạc cũng vậy, ta sẽ bị mù
quáng và ám ảnh bởi chúng. Ta không còn có khả năng điều khiển được chúng mà
ngược lại ta bị chúng điều khiển. Và đam mê tôn giáo cũng vậy, ta không còn có
khả năng làm chủ đức tin của ta mà ta đang bị đức tin sai khiến.
Những bậc thánh trí trong đời, không có ai
bảo rằng, những người bị sai khiến là những người có đời sống văn minh và hạnh
phúc cả. Và ở trong đời, không một ai có căn bản của trí thức lại phát biểu
rằng, những kẻ bị nô lệ vật chất và tinh thần lại là những kẻ có văn minh, có tự
do và hạnh phúc cả.
Vậy, ta muốn có văn minh, hạnh
phúc và tự do, thì khi ta tiếp xúc và sử dụng đối với muôn vật, ta đừng để bị
chúng cuốn hút bởi những chủng tử đam mê của ta.
Những chủng tử đam mê nơi tâm ta,
chỉ là những năng lực cuồng nhiệt và mù quáng của khát ái. Mọi khát ái đều là
những căn cứ để cho mọi hạt giống chấp thủ nơi tâm ta biểu hiện. Sự khát ái với
đối tượng càng mãnh liệt, thì sự bám theo đối tượng càng được siết chặt và sự nỗ
lực tạo tác để chiếm hữu đối tượng càng lúc càng trở nên thô bạo. Thô bạo cũng
là một hình thức khác của đam mê và mù quáng và thô bạo cũng là một hình thức
khác của độc tài.
Tâm lý độc tài thường đi kèm theo với những hạt giống nghi
ngờ, ganh tị, sân hận và tàn hại. Ở đời, không ai bảo kẻ độc tài là người dễ
thương cả.
Vậy, ta phải làm gì, khi ta tiếp xúc và sử
dụng muôn vật chung quanh ta, để khỏi rơi vào những cạm bẫy đam mê và mù quáng?
Trước hết, ta phải biết ta là gì và chúng là gì đối với ta.
Cái biết ấy luôn luôn được thắp sáng lên
trong ta, trước khi ta hành động, trong lúc ta đang hành động và sau khi ta đã
hành động.
Chính cái biết ấy, giúp ta tiếp xúc và sử
dụng muôn vật chung quanh ta mà ta không bị rơi vào bẫy sập của đam mê và mù
quáng.
Cái biết ấy do đâu mà có? Do ta biết thực
tập và thắp sáng ý thức chánh niệm trong đời sống hàng ngày của ta, qua đi,
đứng, nằm, ngồi, ăn uống, nói, cười, thở vào, thở ra,… mà có.
Ta nên nhớ, cái biết được thắp lên từ ý
thức chánh niệm, nó hoàn toàn không thuộc về thành phần của trí thức mà chúng
thuộc về thành phần của tuệ. Trí thức không có khả năng đâm thủng được vô minh,
khát ái và chấp ngã nơi tâm ta. Nhưng, tuệ lại có khả năng ấy, nên ta có khả
năng giúp ta thoát khỏi mọi lưới bẫy của đam mê và mù quáng.
An Bình Xã Hội
Tôi chùi cái bình thủy tinh, nhưng chùi
hoài không sạch. Tại sao? Vì bình nhớp ở phía trong, tôi lại chùi ở phía ngoài.
Cho nên, phải biết rằng, bình nhớp ở đâu,
thì ta phải chùi ở đó. Khi ta định vị trí nhớp của bình đúng, thì ta chùi bình
rất chóng sạch.
Cũng vậy, trong đời sống hàng ngày, ta
nhớp ở đâu, thì ta phải lau chùi ở đó. Thân nhớp ta lau chùi thân. Tâm nhớp ta
lau chùi tâm.
Đọc Khóa Hư Lục, ta thấy ngày xưa vua Trần
Thái Tông đã dùng sáu căn để sám hối mỗi ngày. Sáu căn là nơi bụi bặm thế gian
có thể bám vào làm cho ta bị khuất lấp chân tính. Sám hối là một trong những
phương pháp rửa sạch sáu căn, khiến cho chân tính nơi tâm ta sáng ra, nên vua
nói: “Muốn rửa bụi nhơ trên thân trong dạ, mà không dùng lễ sám hối, thì chẳng
khác nào muốn tiện đi lại mà không dùng xe thuyền. Thế mới biết, công dụng của
lễ sám hối thật là lớn lao vậy!”.
Vậy, sám hối là một cách chùi rửa
thân tâm ta, khiến cho những bụi đời phiền não không thể bám vào sáu căn. Cái
nhìn của ta đối với muôn vật bị vẩn đục, thì ta phải tập yên lắng để nhìn, với
tâm không thành kiến, không cố chấp, với tâm cởi mở và bao dung, khiến cho cái
nhìn của ta nhìn được sáng trong xuyên suốt mọi vật, đó là ta đã chùi nhãn căn
và nhãn thức của ta, để nhãn căn và nhãn thức của ta sẽ tạo ra cho ta nhiều phép
lạ của sự hiểu biết. Và ta có thể đem con mắt ấy để nhìn và thương yêu cuộc đời.
Cái nghe của ta đối với mọi âm thanh bị vẩn đục, thì ta phải
tập yên lắng để nghe, với tâm không thành kiến và không cố chấp, với tâm cởi mở
và bao dung, khiến cho cái nghe của ta, nghe được tự tánh và tác dụng của mọi âm
thanh, đó là ta đã chùi nhĩ căn và nhĩ thức của ta, để nhĩ căn và nhĩ thức của
ta sẽ tạo ra cho ta nhiều phép lạ của sự hiểu biết. Và ta có thể đem cái nghe ấy
để nghe mọi âm thanh và thương yêu cuộc đời.
Cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái tư
duy của ta bị vẩn đục, thì ta phải tập yên lắng để ngửi, để nếm, để xúc chạm và
để tư duy, với tâm không thành kiến, không cố chấp, không đam mê, với tâm cởi mở
và bao dung, khiến cho cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái tư duy của ta chạm
vào được sự thật của mọi vấn đề, đó là ta đã chùi tỷ căn và tỷ thức, thiệt căn
và thiệt thức, thân căn và thân thức, ý căn và ý thức của ta vậy, khiến cho
chúng sẽ tạo ra cho ta nhiều phép lạ của những hiểu biết. Và ta có thể đem những
hiểu biết ấy để ngửi, nếm, xúc chạm, tư duy và thương yêu cuộc đời.
Ta nên nhớ rằng, hễ tâm ý ta đã bị vẩn
đục, thì không có quan năng nhận thức nào nơi ta có thể sáng trong để xuyên suốt
được tự tính và tướng trạng của mọi sự hiện hữu.
Vì vậy, ta muốn thắp sáng mọi sự hiện hữu,
trước hết ta phải biết thắp sáng tâm ta. Tâm ta không được thắp sáng, thì mọi ý
nghĩ, lời nói và hành động của ta đều bị vận hành ở trong sự mê muội và mờ ám.
Do đó, ta không thể chạy theo sự mê muội
để chùi sạch mờ ám, hay chùi sạch những vẩn đục của cuộc đời, mà phải biết quay
về chùi sạch những mờ ám trong tâm của ta. Tâm sạch, thì thế giới của chúng ta
sạch. Ta không cần chạy theo thế giới để làm sạch tâm ta, mà chúng ta phải biết
làm sạch tâm ta để cho hết thảy thế giới đều sạch. Tâm bình, thì hết thảy thế
giới đều bình, nên ta không cần chạy theo chiến tranh để giải quyết hòa bình, mà
chúng ta phải tạo ra thế giới hòa bình ngay ở nơi tâm của mỗi chúng ta.
Tâm của chúng ta càng nhớp, thì thế giới
của chúng ta càng ngày càng trở nên trớ trêu, tăm tối và rối ren. Ấy là một sự
thật. Sự thật ấy, thử hỏi đến khi nào những người nắm quyền lực trong xã hội mới
nhận ra để chùi sạch và an bình xã hội!
Hiền Như Cọp
Cọp dữ, vì cọp ăn thịt người.
Nhưng, ta có thể bảo con người hiền hơn cọp chăng? Không hẳn. Vì con người chỉ
hiền hơn cọp, khi lòng tham và cơn giận vắng mặt nơi tâm họ. Nếu lòng tham và sự
giận dữ có mặt nơi lòng người, thì con người không phải hiền hơn cọp đâu nhé!
Vì lòng tham mà con người tàn hại
lẫn nhau, tàn hại luôn cả muôn vật và thiên nhiên. Và vì lòng tham cũng như cơn
giận có mặt trong lòng người, mà chiến tranh giữa con người và con người xảy ra
liên tục, sự bắn giết có mặt khắp nơi. Những vũ khí tối tân hiện đại, các nhà
khoa học chế tạo để làm gì, nếu không phải là để giết hại con người loạt?
Cọp ăn thịt người, nhưng thử hỏi
có bao nhiêu người bị cọp ăn? Trong lúc đó trong xã hội con người, tiêu thụ một
ngày bao nhiêu thịt và biết bao sinh mạng chết bởi con người, kể cả đồng loại?
Nhưng, ta thử hỏi con người đã làm gì cho nhau? Trong xã hội người, vợ chồng ly
dị, anh em sống không thuận thảo với nhau, con cái bất hiếu cha mẹ, cha mẹ than
trách con cái, thầy trò không chân thật với nhau, quan dân lừa phỉnh nhau, người
mua kẻ bán đưa đãi dối gạt nhau,…
Vậy, xã hội người có dữ và phức
tạp hơn xã hội cọp hay xã hội rừng rú không nhỉ? Cọp tuy dữ, nhưng nó ăn no lại
nằm. Nhưng, trong xã hội con người ăn no có ai chịu nằm yên không nhỉ? Cọp tuy
dữ, nhưng khi ta vứt mồi cho nó ăn no, thì nó lại nằm yên, nó không thèm đếm xỉa
đến những miếng mồi ta vứt cho nó nữa. Vứt mồi cho cọp ăn no, ta có thể ngồi
chơi với cọp mà không bị cọp hại. Nhưng con người ta cho ăn no, ta cho ăn ngon,
mặc đẹp, cho chức tước, quyền hành không hẳn họ đã ngồi chơi với ta đâu, mà một
đôi khi họ còn hại ta để tiếm quyền và lợi nữa đấy!
Vậy, người hiền hay cọp hiền? Cọp
dữ, nhưng nó không có khả năng tạo thêm nghiệp dữ cho nó, mà cái dữ của nó là
cái dữ theo bản năng mà không phải là cái dữ của tác nghiệp. Con người hiền hơn
cọp, nhưng con người lại có khả năng tạo ra nghiệp dữ hơn cọp, như vậy sao mà ta
gọi là con người hiền?
Con người thật sự là hiền, khi nào
lòng tham và cơn giận dữ nơi tâm họ không còn và nếu nó còn, thì ta không thể
bảo con người hiền hơn cọp được! Lòng tham và cơn giận dữ đã biến con người là
một sinh vật gian ác và tàn bạo hơn bất cứ một sinh vật nào đang có mặt ở trên
trái đất nầy.
Vì vậy, cọp dữ mà hiền, người hiền
mà dữ. Hiền và dữ như vậy, đều là nạn nhân của vô minh, nên thật đáng thương
thay!
Thờ Cái Bóng
Hai con mắt nằm ngay trên khuôn mặt của
ta, nhưng nó không bao giờ giúp ta thấy được khuôn mặt thật của ta. Nó chỉ có
khả năng giúp ta thấy được khuôn mặt giả của ta mà thôi. Ta có thể thấy được mặt
ta qua gương hay qua ảnh, nhưng mặt của ta nơi gương và ảnh, đâu có phải là mặt
thật của ta. Mặt thật của ta phải là nơi cái mặt của ta kia, chứ đâu có phải nó
nằm ở nơi cái gương và cái ảnh ấy!
Người khác thấy được mặt ta, họ khen ta xấu đẹp, ta vui hay
buồn, khổ đau hay hạnh phúc đi từ những lời khen chê của kẻ khác và kẻ khác cũng
vậy, ta thấy mặt họ, ta khen chê họ xấu hay đẹp, thì họ cũng vui hay buồn, hạnh
phúc hay khổ đau từ nơi tiếng khen chê của ta.
Cái mặt của ta là sĩ diện của ta nằm sờ sờ
ra đó, mà hết thảy con người trong thế gian nầy có ai thấy được cái mặt thật của
mình đâu!
Đời ta khổ đau và thất vọng là do ta đem
hết cả bình sinh mà chạy theo cái bóng, hèn chi khi chết, ta không biết để lại
cái gì cho đời, nên để lại cho đời cái bóng ngồi trên bàn thờ, và thiên hạ tôn
thờ ta là thờ cái bóng!
Thèm
Ta
thèm thịt cá, rượu bia, rồi ta tưởng rằng, ai cũng thèm những thứ ấy như ta; ta
thèm tiền bạc và quyền lực, rồi ta tưởng rằng, ai cũng thèm những thứ ấy như ta.
Cái tưởng thường làm cho ta, có những suy nghĩ sai lầm và hành xử thiếu lịch sự
và thiên lệch đối với những người chung quanh.
Ta nên nhớ rằng, ở trong đời có những
người, họ không thèm những cái đó, nhưng họ lại thèm một chút tình nghĩa giữa
con người với con người; họ thèm một tiếng gọi mẹ ơi, cha ơi hay thầy ơi và được
những tiếng ơi của cha, của mẹ hay của thầy vọng lại!
Họ thèm nghe kể chuyện đời xưa; họ thèm
nghe kể chuyện quê hương mình; họ thèm nhìn và ăn một trái khế, một trái me hay
một trái ổi; họ thèm không khí bình yên và họ thèm thời gian để sống; họ thèm
nghe tiếng chuông chùa đêm khuya thanh vắng; họ thèm nhìn chiếc thuyền chài bơi
giữa trăng khuya,… Nghĩa là họ thèm, họ thèm và họ thèm.
Có những cái thèm, thật đơn giản, nhưng
không bao giờ trở thành hiện thực, như người câm thèm được nói, như người điếc
thèm được nghe, như người mù thèm được thấy, như người què thèm được đi, như
người đau thèm được lành, như người tù thèm được tự do, như người sắp chết thèm
được sống,…
Vậy, trong những cái thèm đó, có cái nào
ta không thèm? Và trong những cái thèm đó có những cái nào ta đã đạt được và ta
đã đối xử với nó như thế nào, để cho những cái ta đang có đó, chúng có được một
ý nghĩa?
Thế giới con người càng ngày, càng trở nên
phức tạp là vì thèm. Thèm là vì thiếu. Thiếu cái gì thì ta thèm cái đó và ta
chạy bươn về phía cái đó để kiếm tìm. Càng tìm kiếm, thì cái thèm lại càng tăng
lên và đối tượng để ta kiếm tìm lại càng mất hút!
Mọi hụt hẫng của con người từ đó mà có,
mọi cơn sốc của con người từ đó mà hãm hại con người.
Vậy, trong đời sống, ta thực tập đừng thèm
thử sao? Ta không thèm đối với cái gì là ta đang có tự do đối với cái ấy. Và ta
thèm cái gì, thì ta đang bị cái ấy làm cho ta mất tự do.
Thèm là mất tự do; không thèm là có tự do,
chân lý của cuộc sống đã hiển thị cho ta thấy như vậy!
Được
và Mất
Ở đời cái được và cái mất đi kèm
rất sát với nhau. Vì vậy, không có cái được nào mà không mất và không có cái mất
nào mà không được.
Người Việt Nam được ở Mỹ, thì mất
ở quê hương; hoặc ta được làm người lớn thì mất làm trẻ thơ; ta được quyền quý
thì mất tự do; nếu con gái, ta được lấy chồng làm vợ, thì mất đi tuổi thanh
xuân, và nếu con trai, ta được làm chồng thì mất đi cái tự do của tuổi trẻ,…
Được mà không mất là chuyện không thể có ở trong thế
gian nầy. Ở giữa cuộc đời nầy, ta được cái nầy, thì ta mất cái kia. Chỉ có khi
nào ta không có gì để được, thì ta cũng chẳng có gì để mất.
Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát không có
cái gì để được, nên Ngài không có cái gì để mất. Vì sao? Vì Ngài đã thực hành
hạnh “vô sở đắc” và đã thành tựu hạnh ấy vậy.
Vì không thấy có sở đắc, nên tâm không có
sự sợ hãi; và vì tâm không có sự sợ hãi, nên không có vọng tưởng. Tâm không có
vọng tưởng là tâm thường trú ở trong sự an lạc vậy. Tâm ấy là tâm không được mà
cũng không mất, vì vạn hữu xưa nay vốn vậy, chẳng có gì để được, chẳng có gì để
mất. Được và mất chỉ là những vọng cầu ở nơi tâm ta. Và chính vì cái ấy đã làm
cho ta lận đận suốt đời!
Ăn Cơm
Trong Sự Chuyển Hóa
Mỗi khi ăn cơm, tôi thực tập các phương
pháp sau đây:
- Biết cung kính và
biết xấu hổ:
Biết trân trọng đối với những gì đang có
mặt ở nơi những thực phẩm trước mặt mình; và biết xấu hổ khi đức hạnh của mình
bị khiếm khuyết.
- Khởi tâm cúng
dường và tâm bố thí:
Trước khi dùng cơm, phải khởi tâm cúng
dường Tam Bảo, cúng dường những bậc đáng cúng dường; và khởi tâm chia sẻ đến
những người nghèo khổ hơn mình, những loài thấp kém ít có phước báo hơn mình.
- Duy trì tâm chánh
niệm trong lúc ăn:
Suốt thời gian ăn, luôn luôn duy trì năm
phép quán niệm gồm – Nghĩ đến công phu lao tác, tạo nên thực phẩm của nhiều
thành phần trong xã hội. –Nghĩ đến nhân cách và đức hạnh của mình trong lúc ăn.
– Ngăn ngừa lòng tham của mình phát khởi trong lúc ăn. – Nghĩ đến những thực
phẩm chỉ là thuốc tốt để chữa bệnh khô gầy của thân. – Nghĩ rằng ăn, cũng là một
trong những phương pháp giúp ta thành tựu đạo nghiệp.
Ngoài ra, còn phải duy trì sự thực tập
buông bỏ mọi điều ác trong khi ăn; thực tập những điều tốt đẹp trong lúc ăn và
nguyện ăn để làm lợi ích cho hết thảy muôn loài.
Nếu hàng ngày, ta biết ứng dụng những
phương pháp nầy, trong khi ăn, ta sẽ có khả năng chuyển hóa những hạt giống bất
thiện nơi tâm ta, và phước đức trong đời sống của ta sẽ lớn lên một cách không
thể nghĩ bàn.
Chân Lý Đã Nói
Nếu bạn chống người nào đó, thì
người đó cũng tìm cách chống lại bạn. Nếu bạn tìm cách loại trừ và triệt tiêu
người nào đó, thì người nào đó cũng tìm cách loại trừ và triệt tiêu bạn. Chân lý
của cuộc sống đã nói cho bạn như thế, bạn có thấy và nghe không? Nếu không thấy
và không nghe được những điều ấy từ cuộc sống, thì bạn không có sự hiểu biết căn
bản về cuộc sống để tạo ra hạnh phúc cho đời sống của chính bạn và hiến tặng
hạnh phúc cho những người mà bạn thương yêu.
Nếu bạn không có những hiểu biết căn bản
ấy, thì hạnh phúc trong đời sống của bạn chỉ là những sự lo lắng, sợ hãi, mánh
lới và đề phòng. Những bậc có trí trong đời từ xưa đến nay không ai bảo rằng,
những người sống với tâm ý đầy lo lắng, sợ hãi, mánh lới và đề phòng là những
người có đời sống hạnh phúc cả!
Buông Bỏ Mọi Tính Toán
Nếu một người muốn học toán giỏi, họ phải
có hiểu biết căn bản của toán học là bốn phép cọng, trừ, nhân, chia và phải học
thuộc lòng bảng cửu chương. Nếu họ muốn giỏi toán học mà họ không có những hiểu
biết căn bản nầy, thì ước muốn giỏi toán học của họ chỉ là một ước muốn hão
huyền, điều ấy bạn có biết không?
Nhưng, đối với đời sống, bạn không cần
dùng những con số để hiểu toán học, mà bạn phải thực sự hiểu toán học ngay trong
đời sống của chính mình.
Đời sống của bạn toàn là toán học bạn có
biết không? Căn bản của toán học là tính toán. Đời sống con người là một chuỗi
dài liên tiếp của tính toán. Tính toán để có tài sắc hơn người; tính toán để có
quyền lực hơn người; tính toán để có được lợi nhuận và ăn ngon, mặc đẹp hơn
người; tính toán để có những tiện nghi hưởng thụ hơn người; tính toán để được
yên thân hơn người,… và như vậy là suốt cả cuộc đời làm người, con người toàn
chỉ biết tính toán và toàn cả tính toán. Đi họ cũng tính toán; đứng họ cũng tính
toán; nằm hay ngồi họ cũng tính toán; nói hay cười họ cũng tính toán; ngủ và
thức họ cũng tính toán; làm việc hay nghỉ ngơi họ đều tính toán cả. Con người
luôn tính toán để đối phó và loại trừ hay triệt tiêu đồng loại. Không những vậy,
con người còn tính toán để buộc muôn vật phải phục vụ cho cái tham dục của mình.
Và càng tính toán như thế, con người càng rơi vào những cảm giác ràng buộc, cô
đơn và những cạm bẫy của tội lỗi. Đời sống con người đi từ những lận đận nầy đến
những lận đận khác; đi từ những thất vọng nầy đến những thất vọng khác và đi từ
những khổ đau nầy đến những khổ đau khác, gốc là do từ nơi tính toán vậy.
Lạ nhỉ! Trong sự sống, muôn vật đều hỗ trợ
cho con người, nhưng có một điều quái lạ, là chỉ vì do tính toán, mà con người
chống lại con người, gây thiệt hại và làm cho nhau khổ đau mà thôi. Càng chấp
ngã và ích kỷ thì con người lại càng rơi vào cạm bẫy của tính toán. Và càng tính
toán con người lại càng rơi vào cạm bẫy của thất vọng và khổ đau.
Bước đầu thiền tập, tôi hay để ý từng bước
chân đi của mình và đếm từng bước chân, để tập trung tâm ý, nhưng sau một thời
gian thiền tập, tôi thấy tâm thức của mình lại rơi vào những con số và bị kẹt
vào những con số và chính những con số làm bận rộn tâm mình, khiến cho tâm mình
không có an lạc.
Vì vậy mỗi khi thiền tập, thay vì đếm từng
bước chân đi hay đếm từng vòng đi thiền hành quanh Tàng Kinh Các, tôi lại buông
bỏ hoàn toàn mọi tính toán, tôi chỉ đi với từng bước chân có ý thức sáng trong
và cho đến khi nào tâm mình ở vào trạng thái yên tịnh và sự an lạc phát sinh,
tôi lại biết rất rõ những điều an lạc ấy đang có mặt trong tôi và tôi muốn kéo
sự an lạc ấy với thời gian dài ngắn như thế nào là tùy ý tôi. Với sự thiền tập
nầy, tôi thấy tôi thật sự có an lạc và tự do. Sự tự do và an lạc đích thực có
mặt trong tôi thật đơn giản và nó đơn giản đến nỗi, tôi chỉ cần làm mọi công
việc với ý thức tự giác, mà không cần có mặt bất cứ một sự tính toán nào thuộc
về tâm ý. Chính ý thức tự giác đã giúp cho tôi trưởng thành, tạo ra chất liệu tự
do và an lạc cho chính tôi trong đời sống.
Người Ra Lệnh
Trong cuộc sống, nếu có người nào ra lệnh
cho bạn bất cứ điều gì, bạn cứ nhắm mắt làm theo những điều ra lệnh ấy, thì bạn
không còn là bạn nữa, bạn vĩnh viễn sống với cuộc đời nô lệ. Những bậc có trí
trong đời từ xưa đến nay, không ai bảo rằng, những kẻ sống đời sống bằng nô lệ
là hạnh phúc cả.
Bạn đã từng sử dụng computer và bạn đã
biết rất rõ rằng, nếu bạn ra lệnh sai nguyên tắc quy ước, computer sẽ không thi
hành lệnh của bạn. Computer không làm theo lệnh sai quy ước của bạn, không có
nghĩa là computer chống bạn. Computer vẫn có đó cho bạn và nhắc nhở cho bạn là
bạn đã hành động trái quy ước, nên nó không thi hành. Chỉ cần bạn trầm tĩnh và
nhận ra cái mệnh lệnh sai lầm của bạn và điều chỉnh lại cho đúng nguyên tắc quy
ước, mà bạn đã cài đặt vào computer, rồi bạn enter, thì computer sẽ cho bạn đúng
kết quả mà bạn mong muốn.
Cũng vậy, bạn trung thành và thỉ chung với
ai đó, không có nghĩa là họ bảo gì thì bạn làm nấy. Nếu người ta bảo gì bạn làm
nấy, không có suy xét, không có gạn lọc là nên hay không nên, thì bạn không còn
là bạn nữa, vì sao? Vì bạn là người dua nịnh. Ở trong đời, bạn có biết ai là kẻ
phản bội bạn không? Chính là tính ưa thích dua nịnh ở nơi bạn. Chính tính ấy là
phản bội bạn và nó gọi mời những người khác a dua với nó để phản bội bạn, chứ
nào ai nữa!
Nên, trung thành không có nghĩa là nhắm
mắt nghe theo mệnh lệnh và chống đối mệnh lệnh không phải là không trung thành.
Người ra lệnh đúng quy ước mà bạn không làm theo, thì chính bạn là kẻ phản bội.
Người ra lệnh sai quy ước mà bạn làm theo, thì chính bạn cũng là kẻ phản bội;
Người ra lệnh đúng với quy ước mà bạn làm theo, chính bạn là người trung thành;
Người ra lệnh sai quy ước, mà bạn không làm theo, thì chính bạn không những là
người trung thành mà còn là người có một đời sống đầy đủ bản lãnh.
Vì vậy, trung thành hay phản bội, chúng
hoàn toàn không thuộc về cảm tính, mà chúng hoàn toàn thuộc về những quy ước của
lý trí đó bạn ạ!
Như vậy, đến khi nào bạn có đủ khả năng
như chiếc máy computer để làm theo lệnh hay chống lại lệnh?
Và thử hỏi đến khi nào bạn mới nhận ra
được điều ấy, để cho tâm hồn của bạn được nở hoa!
Học Từ Muôn Vật
Newton, nhà vật lý học nổi tiếng của thế
giới đã học và khám phá chân lý “rơi” từ một quả táo. Archimet đã học và khám
phá chân lý “đẩy” từ nước. Các nhà vật lý học hiện đại đã học và khám phá ra
chân lý “trữ”, chân lý “tách rời” và chân lý “đồng thời” ở nơi những hạt nguyên
tử và hạ nguyên tử,…
Các nhà thiền quán đã học và thấy
rõ chân lý của cuộc sống có mặt ngay nơi những tế bào của thân thể, nơi những
cảm giác, hay ngay nơi những ý niệm đang vận hành ở tâm thức, hay nơi tất cả
muôn vật,…
Nên, ở kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Nhất
thiết pháp giai thị Phật pháp”, nghĩa là: “Hết thảy pháp đều là Phật pháp”.
Như vậy, chân lý có mặt ngay trong ta và
trước mặt ta cho ta học hỏi và chứng ngộ.
Do đó, ta không phải chỉ biết học hỏi ở
trường, ở sách vở mà phải biết học hỏi từ cuộc sống của mọi người và muôn vật.
Chân lý của cuộc sống vốn có mặt ngay ở
nơi muôn vật mà bạn đang đối diện hàng ngày và có mặt ngay ở nơi thân tâm của
bạn, ấy là điều bạn cần phải biết để học hỏi và chứng ngộ. Nếu không biết được
điều ấy, bạn vĩnh viễn là kẻ cùng tử và suốt đời lang thang kiếm tìm!
Không Trú Ngụ
Dòng sông Bạch Yến phía sau lưng chùa
Phước Duyên, cách đây hơn ba mươi năm là nguồn nước uống của dân chúng thuộc
vùng nầy, nhưng bây giờ thì quần chúng vùng nầy không ai còn dùng nó để uống nữa
cả. Tại sao? Vì dòng sông đã bị ứ lại và nhiễm độc.
Dòng sông bị ứ lại và nhiễm độc có nhiều
lý do, nhưng lý do chính vẫn là do lòng tham của con người tác động lên nó và
giới hữu trách lại vô trách nhiệm với nó.
Con người đã vì những lợi nhuận trước mắt,
ngăn chận nó lại để nuôi cá hoặc nuôi cá trên sông với những cái lừ lớn và những
thực phẩm người ta cho cá ăn hàng ngày, khiến cho dòng sông bị vẩn đục và bị
nhiễm độc.
Lại nữa, dòng sông có những đoạn bị lấp
cạn mà những nhà hữu trách không lưu ý và có kế hoạch vét đào để cho dòng nước
được thông thương.
Mỗi khi dòng nước đã bị ứ đọng và nhiễm
độc, thì chất đất và không khí cũng bị nhiễm độc, khiến mọi tồn tại của con
người, muôn vật chung quanh nguồn nước ấy đều có nguy cơ nhiễm độc và gây thiệt
hại cho chúng và cho những gì chung quanh chúng.
Bệnh hoạn phát sinh, nhàm chán cuộc sống,
đời sống cư dân ngắn lại, điều ấy không những gây thiệt hại cho dân chúng trong
vùng, mà còn là những gánh nặng đối với xã hội nữa.
Đối với một dòng sông vật lý bị ứ đọng, nó
còn gây thiệt hại cho nhiều người và muôn vật như thế, huống gì là dòng sông tâm
linh?
Trong đời sống của muôn vật, bất cứ cái gì
bị ứ trệ đều là nhiễm độc và đều dẫn sinh bệnh hoạn, khiến cho đời sống không
còn có gì thú vị.
Vậy, muốn sống lâu, vô bệnh, an lạc và có
nhiều thú vị, ta đừng để cho thân tâm ta bị ứ trệ bởi bất cứ một thứ gì và nhất
là đừng ứ trệ đối với tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ hay đừng
để thân tâm ta bị ứ trệ ở nơi sắc tướng, âm thanh, hương trần, mùi vị, xúc chạm
và những ảnh tượng nơi tâm ý.
Thân tâm ta không bị ứ trệ bởi những cái
đó, thì ta sẽ có tự do và thần thông. Trong đời sống, ta không có tự do, vì thân
tâm ta bị buộc ràng bởi những cái đó; ta bị ứ trệ, không có thần thông, vì ta bị
đối ngại bởi những cái đó; ta không có thanh thoát, vì thân tâm ta bị những cái
đó làm cho nặng nề; ta không có dũng lực, vì bị những cái đó khủng bố và tiêu
hủy, làm cho ta bị yếu đuối và thân tâm ta bị nhiễm ô, vì chính ta cưu mang
những cái đó vào trong đời sống của chính mình.
Nên, “vô trú” là phép lạ có khả năng tạo
ra sự sống lâu, giàu có, đẹp đẽ, thanh trong, dũng lực, trí tuệ và tự do cho đời
sống con người chúng ta.
“Vô trú” không có nghĩa là buông xuôi, mà
chính là làm cho thân tâm không bị ứ trệ và nhiễm độc bởi bất cứ đối tượng nào.
Do đó, “vô trú” là tự thân của mọi sự hiện
hữu. Ta hãy nhiệt tình đối với mọi sự hiện hữu trên đời với tâm “vô trú”, thì
phước đức và sự tự do đến với ta không thể nghĩ bàn.
Điều ấy không còn là lý thuyết mà chính là
sự chứng nghiệm của các bậc Thánh trí trong đời.
Bạn Không Phải Là Của Ma
Nếu bạn đến với Phật giáo bằng tâm niệm tu
học, được thúc đẩy từ bồ đề tâm, thì cứ con đường ấy mà đi, sớm muộn gì bạn cũng
đến đích, không cần quẹo phải hay rẽ trái.
Bên phải hay bên trái đều có ngôn ngữ và
những luận lý bảo chứng của nó. Nhưng tu học, bạn không cần những bảo chứng ấy.
Bạn chỉ cần tâm bồ đề bảo chứng cho bạn. Nên, Duy Ma Cật nói: “Trực tâm thị đạo
tràng”. Đạo tràng giác ngộ chính là tâm ngay thẳng.
Đi đến đạo tràng giác ngộ, bạn hãy đi bằng
tâm chân thật và ngay thẳng, không cần đi với tâm quẹo phải hay rẽ trái. Quẹo
phải hay rẽ trái không phải là tâm của Phật, mà là tâm của ma.
Tâm của Phật là tâm chân thật, nếu đi bằng
tâm ấy, thì ngay nơi khởi điểm, bạn đã có Phật và đã gặp Ngài rồi, cần gì phải
quẹo phải hay rẽ trái để tìm Phật nữa! Và đi với tâm chân thật, thì ngay nơi mỗi
bước chân đi của bạn, đều có bông hoa tuệ giác nở ra rồi, cần gì phải vội vã
bước đi!
Đánh mất tâm chân thật, thì vĩnh viễn bạn
là ma, chứ không phải bạn là của ma đâu nhé!
Miếng Giẻ Rách
Đối với những người nhà giàu, tủ két không phải là vàng,
nhưng nó lại bảo vệ vàng; đối với người nghèo miếng giẻ rách không phải là vàng,
nhưng một đôi khi nó lại được một bà già quê dùng để gói vàng và vứt ở một xó
nhà.
Vàng ai
cũng biết nó là quý, nhưng bảo vệ cái quý ấy, thì mỗi người có mỗi cách khác
nhau. Bà già quê bảo vệ vàng bằng những miếng giẻ rách, những người thành phố
bảo vệ vàng bằng những tủ két, những ngân hàng bảo vệ vàng với những dụng cụ cài
đặt bằng khoa học hay những vệ sĩ,…
Vàng là một thứ kim loại quý báu do quy ước của con người
tạo nên, nên nó cần phải được con người bảo vệ dưới nhiều hình thức khác nhau để
vàng khỏi bị đánh mất. Vàng không có gì quý đối với muôn vật, nhưng nó là vật
quý của con người. Vàng không hề chết vì con người, nhưng con người phần nhiều
chết vì vàng!
Tuy nhiên, vàng không thể tự sinh mà đất sinh ra vàng và
vàng có giá trị đối với đời sống con người là do con người quy ước giá trị cho
nó và bảo vệ nó.
Ở trong
đời, có những cái quý được bảo vệ bằng súng đạn, bằng luật pháp, bằng những tòa
nhà nguy nga tráng lệ, bằng những quân đội hùng mạnh và những khí giới tân kỳ,
nhưng nó chưa hẳn đã được an toàn bằng sự bảo vệ của miếng giẻ rách.
Cục vàng của một bà già quê gói trong miếng giẻ rách vứt ở
trong xó nhà, trải qua bao nhiêu mưa nắng, và biết bao kẻ đến người đi, mà nó
vẫn còn. Nó còn, vì nó được bảo vệ từ miếng giẻ rách của một bà già quê vậy!
Tiêu Thụ Tín Ngưỡng
Dù cho thức ăn ngon và bổ dưỡng đến mấy,
mà ta đội nó lên đỉnh đầu, thì nó vẫn chẳng giúp ích được gì cho cái đói hay sức
khỏe của ta. Ta phải biết tiêu thụ những thực phẩm để nuôi dưỡng thân tâm, chứ
không nên đội thực phẩm trên đỉnh đầu, khiến cho thân tâm càng lúc càng nặng nề
và mệt lả.
Cũng vậy, nếu ta chỉ biết đội trên đầu
những lời cao quý của các bậc thánh hiền, thì những lời cao quý ấy chẳng giải
quyết được gì cho những khổ đau của chính ta, mà một đôi khi những lời cao quý
ấy, lại làm cho ta đi bị hỏng chân và ngã quỵ nữa.
Muốn hết đói, ta phải biết ăn, chứ không
phải đội thực phẩm trên đầu và muốn hết khổ đau, ta phải biết ứng dụng lời các
bậc thánh nhân vào ngay trong cuộc sống hàng ngày, chứ không phải để tín ngưỡng.
Đội thức ăn trên đỉnh đầu, thì càng đội ta
lại càng thấy mệt nhoài và vô ích, cũng vậy càng tín ngưỡng những lời dạy của
các bậc thánh nhân, thì càng làm cho ta thêm thèm khát và mệt nhoài, mà chẳng có
lợi ích gì cho cơn thèm khát của ta.
Vậy, tại sao ta chỉ tín ngưỡng mà không
biết ứng dụng và tiêu thụ những tín ngưỡng ấy vào trong đời sống hàng ngày của
ta, để nuôi dưỡng thân tâm ta, khiến cho thân tâm ta cũng trở thành cao quý như
những gì mà ta đã và đang tín ngưỡng ấy?
Điều Kinh Tởm
Không ai sinh ra trên đời nầy bỗng dưng
trở thành người cao quý hay thấp kém, mà cao quý hay thấp kém đều tùy thuộc vào
tâm ý và hành động của họ.
Nếu ta nghĩ và làm theo những gì thấp kém
nơi tâm ta là tức khắc, ta trở thành người thấp kém và nếu ta nghĩ và làm theo
những gì cao quý nơi tâm ta, là tức khắc ta trở thành người cao quý.
Ta đừng nghĩ rằng, ta là người cao quý khi
ta có nhiều quyền lực và tiền bạc. Quyền lực và tiền bạc không có khả năng mua
được hạnh phúc và đời sống cao quý của con người. Quyền lực và tiền bạc có thể
dọa dẫm và mua chuộc được những con người thấp kém, lấy tham dục làm vui, nhưng
chúng chẳng có ý nghĩa gì đối với những người không vui theo tham dục.
Kẻ thấp kém nhất trong đời là làm nô lệ
cho tham dục và người gian ác nhất trên đời là dùng tham dục để gài bẫy con
người.
Bậc cao thượng và có tự do nhất trên đời
là không bị nô lệ bởi tham dục và bậc có quyền uy nhất trên đời là những người
có khả năng phá hỏng những bẫy sập tham dục ấy cho mọi người thoát ra.
Nô lệ tham dục là sự nô lệ đáng kinh tởm
nhất, vì tất cả sự tự do và cao quý trong đời sống con người đã bị chúng làm cho
rơi mất tất cả!
Đoạt Hướng
Nhà của bạn, bị nhà của người khác đoạt
hướng, khiến mọi sinh hoạt trong gia đình của bạn lộn xộn, không hanh thông; mồ
mả trong dòng họ của bạn bị mồ mả của người khác đoạt hướng, khiến cho con cháu
trong dòng họ của bạn ăn tới, làm lui và lại sinh ra nhiều bất ổn, những nhà
Phong thủy học đã nói cho chúng ta biết như vậy!
Người đi biển bị mất Hải bàn, thì không
định được hướng đi và thuyền sẽ bị trôi dạt lâu dài trên biển cả, đó là một sự
thật mà những người đi biển đã nói cho ta biết như thế!
Cũng vậy, trong đời sống, bạn bị kẻ khác
đoạt hướng, bạn sẽ mất trắng linh hồn, thì đời sống của bạn chỉ còn lại những gì
của búp bê hay robo vậy.
Những người muốn đoạt linh hồn của bạn,
trước hết họ đoạt hướng sống của bạn. Họ đoạt hướng sống của bạn bằng cách nào?
Bằng cách hút hết những tinh chất hiểu biết của bạn và thay vào những cái biết
cứng đờ của họ cho bạn, khiến bạn không còn là bạn nữa, bạn trở thành những
thuộc tính của họ và trở thành kẻ làm nô lệ cho họ đời đời, điều đó đến khi nào
bạn mới nhận ra!
Bạn chỉ nhận ra được điều đó, khi
nào bạn biết ngồi yên, đi yên, đứng yên, nằm yên, hay hành hoạt trong sự yên
lắng, để cho những vô minh, vọng tưởng nơi tâm thức của bạn được lắng xuống.
Mọi vô minh, vọng tưởng nơi tâm thức của bạn đã tự lắng trong,
thì không còn có bất cứ một tài năng nào ở trên trời hay dưới đất có thể chiếm
đoạt được linh hồn của bạn. Và nếu vô minh, vọng tưởng nơi tâm của bạn không tự
lắng trong, thì bất cứ cái gì ở trên đời nầy cũng đều có khả năng đoạt hướng và
chiếm mất linh hồn của bạn. Ấy là điều mà các bậc trí giả nội chứng ở trong đời
đã nói cho chúng ta biết như vậy!
Nói Với Nhà Giáo Dục
Cầu học với tâm danh lợi, thì càng học,
tâm ta càng trở nên tăm tối và đời sống của ta lại càng trở nên gần gũi với cái
gian, cái ác; học tập với tâm vô cầu, thì càng học, tâm ta càng sáng lên và đời
sống của ta lại càng trở nên gần gũi với cái chơn, cái thiện.
Ngày xưa có vị lang y tài giỏi, thấu hiểu
mọi phương thuật chữa bệnh. Có lần ông ta chữa lành bệnh cho những người nghèo,
những người nầy đem thổ sản để cảm ơn ông, ông không nhận, những người ấy năn nỉ
ông, ông nói: “Tôi đã nhận được từ nơi tấm lòng cao quý của quý vị rồi”.
Rồi, ông lại chữa lành bệnh cho những
người giàu có, những người nầy đem vàng bạc đến tạ ơn ông, những người ấy năn nỉ
ông, ông nói: “Vàng bạc quý thật, nhưng không quý bằng tấm lòng của quý vị đã
đối xử với tôi, tôi từ chối phẩm vật biết ơn, mà chỉ nhận nơi quý vị tấm lòng
biết ơn là nhiều lắm rồi”.
Những người con trong nhà thấy như vậy,
ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, cha chữa bệnh đối với những người nghèo, họ không có
tiền của, khi họ lễ tạ, cha từ chối mà nhận nơi họ một tấm lòng, điều ấy chúng
con dễ hiểu, nhưng đối với người giàu, sao cha không nhận lễ vật của họ mà từ
chối, điều ấy làm cho chúng con khó hiểu?”.
Ông lang y nói: “Cái khổ do bệnh đem lại,
thì giữa người giàu, người nghèo có khác gì nhau. Và cái chết, thì người giàu,
người nghèo gì, có ai mà không sợ. Nhưng, một đôi khi cái khổ do bệnh đem lại,
hay cái chết do nỗi sợ đưa đến, thì người có tiền của, tâm của họ lại hoảng loạn
hơn nữa, khiến bệnh của họ tăng lên và cái chết đến với họ một cách nhanh chóng
các con ạ! Ta chữa bệnh chỉ nhìn vào cái thân tâm của người bệnh mà chữa, mong
cho họ mau thoát khỏi bệnh, chứ ta đâu có chữa bệnh với tâm phân biệt giàu
nghèo!”.
Ông lang y ấy, có nhiều người đến xin học
pháp thuật chữa bệnh của ông, nhưng phần nhiều đều bị ông từ chối, ngay cả con
ông, tại sao? Vì người đến xin học, không phải bằng tấm lòng mà bằng tâm mưu
sống. Ông nói: “Thà đốt hết sách vở, còn hơn dạy cho những kẻ cầu học với tâm
mưu cầu danh lợi. Tại sao? Vì học với tâm mưu cầu danh lợi, thì ngay nơi cái
nhân học đã là ác rồi, huống gì những hậu quả do cái nhân học ấy đem lại, thì nó
quấy ác và tàn hại cuộc sống đến chừng nào!”.
Thật vậy, người có học mà ác, chẳng khác
nào con vi khuẩn ác tính ẩn sâu, khoét đục và hủy hoại mọi giá trị sự sống cao
quý của con người. Vì vậy, tội lỗi của họ, nước bốn biển không thể rửa sạch, lửa
hỏa diệm sơn không thể đốt tiêu, xác thân của họ, vùi sâu ngàn thước dưới lòng
đất và đã trải qua ngàn đời, mà mùi hôi của họ vẫn còn nồng nặc.
Ấy nên, những người làm giáo dục, phải cẩn
thận. Không phải chỉ cẩn thận và chín chắn ở nơi cách học và cách dạy, mà còn
phải cẩn thận ở nơi định hướng của cái học cho người học và cái dạy cho người
dạy. Nếu không, chính các ông là con vi khuẩn cực kỳ độc hại, nằm ẩn sâu trong
môi trường giáo dục, và những con người do các ông giáo dục, đào tạo đều trở
thành những trái ung thối của xã hội đó vậy!
Vậy, tội lỗi của các ông đối với cuộc đời,
nước nào rửa sạch?!
Cùng Phật Đi Chơi
“Hết thảy chúng sanh đều có Phật tính và
đều có khả năng thành Phật”. Ấy là lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cách
đây hơn hai mươi sáu thế kỷ. Và lời dạy ấy của Ngài ngày nay ta đem tư duy để
chạm tới, thì vẫn còn mới tinh khôi.
Phật tính là những gì cao quý nhất, sáng
suốt nhất, tinh anh nhất, rộng lớn nhất và xinh đẹp nhất nơi tự tâm của mỗi
chúng ta.
Sống ở trong đời, ta đánh mất sự cao quý,
vì tâm ta chạy theo sự ngu hèn, nên làm khuất lấp tánh Phật nơi ta; sống ở trong
đời, ta đánh mất sự sáng suốt, vì tâm ta chạy theo bản ngã, nên làm khuất lấp
tính sáng nơi ta; sống ở đời ta phóng tâm chạy theo tiền tài, sắc dục, danh lợi,
đam mê ăn uống và hưởng thụ ngủ nghỉ, nên làm khuất lấp tinh anh trong đời sống
của ta; sống ở trong đời, ta đánh mất sự rộng lớn, vì ta nghĩ về ta và cái của
ta quá nhiều, nên làm khuất lấp tính rộng lớn nơi ta và sống ở đời, vì ta nghĩ
xấu cho người, nên cái xấu chảy tràn ra trong tâm ta và tưới tẩm thân thể của ta
bằng chất xấu ấy, nên cái đẹp nơi tâm ta bị khuất lấp.
Cái đẹp nơi tâm ta đã bị che khuất, thì
dáng hình và đời sống của ta làm sao mà đẹp được; tâm ta đã bị đắm chìm trong
những vũng thấp kém, thì ta lấy gì để sống đời cao thượng; tâm ta bị đẩy lùi
trong vô minh, thì lấy gì mà bước ra ánh sáng; tâm ta suốt ngày đêm bận rộn,
tính toán hơn thua, lời lỗ, trên dưới, trước sau, bên nầy bên kia, thì lấy gì để
kết tụ tinh hoa; và tâm ta bị trăm dây não phiền trói buộc, thì lấy cái gì để
bước tới chân trời rộng lớn, tự do!
Ta có Phật tính mà ta không biết quý tính
Phật nơi ta, thì ở trong đời ai quý giúp cho ta nhỉ!
Vì vậy, ta phải biết quý Phật tính nơi ta,
trước khi đức Phật đến giúp ta khai ngộ và hội nhập Phật tính, ấy là cái biết mà
ta cần phải biết!
Ta phải biết thỉnh mời đức Phật trong tâm
ta dậy, để Ngài cùng ăn cơm, uống nước, cùng đi, đứng, nằm, ngồi, thở vào, thở
ra và cùng làm việc cũng như cười nói với ta, để ta cùng với Phật đi chơi và
chơi ở đâu ta cũng có Phật!
Thả Cái Gàu Xuống
Có vị khách Tăng trẻ đến thăm một vị Thiền
sư, vị Thiền sư hỏi: Thầy ăn cơm được không, sao mà gầy vậy? Khách Tăng trẻ nói:
Con quá bận rộn và lo lắng nhiều Phật sự, nên ăn và ngủ ít được.
Vị Thiền sư hỏi: Phật nào mượn Thầy lo? Sự
nào cần Thầy làm? Lo Phật sự mà ăn cơm không được, mặt mày hốc hác, thì lo Phật
sự làm gì? Thầy hãy ăn cơm và uống nước thật sự đi, đừng tát nước mặn vào ruộng
lúa của mình và của những người khác nữa nhé!
Thầy hãy thả cái gàu xuống đi!
Người Mất Châu Báu
Bạn sống hớ hênh để cho châu báu trong nhà
bị mất, gia đình càng ngày, càng trở nên nghèo thiếu, bạn phải đến xin nhà người
giàu để làm thuê mướn, người ta đã trả lương cho bạn bằng một phần mười của lợi
nhuận, do bạn làm ra, nhưng bạn lại cảm ơn người ta rối rít!
Bạn có biết người nhà giàu mà bạn đang làm
thuê mướn ấy là ai không? Ấy là tên ăn trộm châu báu của bạn ngày trước đấy!
Dòng Sông Chảy Ngược
Người không đủ trí tuệ và đức độ mà làm
vua, tránh sao cho khỏi tai nạn bị các quan đại thần lấn hiếp! Quan trên không
liêm chính, tránh sao khỏi nạn quan dưới lộng hành. Quan dưới quyết đoán ngu
muội, tránh sao khỏi nạn dân khinh. Dân ngu và hèn, lại ham ăn, tránh sao cho
khỏi nạn bị quan ức hiếp, lừa phỉnh!
Cũng vậy, dòng sông vốn chảy xuôi, nhưng
do dưới cao hơn trên, khiến nước sông chảy ngược vậy!
Nước sông chảy ngược, trách ai bây giờ?
Buông
Hễ bản ngã nơi bạn càng lớn, thì tính độc tài nơi bạn càng nhiều và sự thất vọng
nơi bạn càng lắm, điều đó đến khi nào bạn mới nhận ra?
Bạn thấy không? Nước Mỹ, có vũ khí cực kỳ
tối tân, có quân đội hùng mạnh, có cơ quan tình báo huấn luyện kỹ lưỡng và giăng
bũa ra khắp cả năm châu, bốn bể; lại còn có nền khoa học kỹ thuật lão luyện, có
các vệ tinh nhìn xuyên suốt các vì sao trên trời, và nhìn thâu dưới lòng đất,
giàu có tài sản ngất trời và một đồng đô la của họ, có giá trị xấp xỉ hai mươi
ngàn đồng VN, vượt xa đồng nhân dân tệ,… thế mà họ không dám nghĩ đến chuyện độc
tài, còn bạn là ai mà ưa độc tài đến thế?
Bạn biết không? Nước Mỹ, tuy hùng mạnh như
vậy, nó cũng muốn độc tài lắm, nhưng không dám độc tài, vì nó biết độc tài là
thất vọng và tự sát.
Độc tài là thất vọng và tự sát, lịch sử
văn minh của thế giới con người đã nói và hiển thị cho chúng ta như thế, đến khi
nào bạn mới nhận ra điều ấy, để khỏi bị bệnh mù quáng và tâm thần đối với bạn và
những gì chung quanh bạn!
Càng ôm lấy bản ngã, bạn càng rơi vào sự
nghèo đói, lạc hậu, quê mùa và tự sát, chân lý của sự sống đã nói cho chúng ta
biết như thế, vậy bạn tiếc gì mà không buông!
Ruồi
Nơi tay bạn cầm miếng thịt mỡ, bạn không
cần mời gọi gì mà những chú ruồi vẫn tìm đủ mọi cách để bay đến sống gần gũi và
thân thiện với bạn.
Có khi bạn giận những chú ruồi, đi mua
thuốc độc để xịt cho nó chết, nhưng những chú ruồi nầy chết, thì có những chú
ruồi khác bay đến điền vào cho bạn.
Bạn đừng tưởng rằng, bạn là người hấp dẫn và quan trọng với
những chú ruồi. Đối với những chú ruồi, bạn chẳng có gì quan trọng và hấp dẫn
cả, chính miếng thịt mỡ nơi tay bạn mới quan trọng và hấp dẫn đối với chúng nó.
Bạn không tin tôi nói sao? Nếu không tin,
bạn hãy vứt miếng thịt mỡ nơi tay bạn đi và rửa tay bạn cho sạch, thì bạn biết
ngay!
Vì vậy, bạn không phải chân lý và chẳng có
bất cứ sự hấp dẫn nào đối với ruồi; chân lý và sự hấp dẫn của ruồi là miếng thịt
mỡ ở nơi tay bạn!
Họ Thành Công
An toàn và hạnh phúc của bạn không thuộc
về phía trái, không thuộc về phía phải mà thuộc về cả hai.
Nửa thân thể bên phải của bạn đang hoạt
động một cách tốt đẹp và an toàn, là nhờ bán cầu não trái của bạn không bị
thương tích; và một nửa thân thể bên trái của bạn đang hoạt động an toàn và tốt
đẹp là nhờ bán cầu não bên phải của bạn không bị tổn hại.
Vì vậy, bạn muốn an toàn cho thân thể phía
phải, bạn phải biết chăm sóc não cầu phía trái và bạn muốn an toàn cho thân thể
phía trái, bạn phải biết chăm sóc não cầu phía phải.
Với một người sống hạnh phúc, không thể
chỉ hoạt động nửa phần thân thể và còn nửa phần bị bại liệt, mà phải có khả năng
hoạt động toàn thân.
Họ sống bước tới với toàn thân và toàn
trí, họ bước lui với toàn thân và toàn trí, họ đứng dậy với toàn thân và toàn
trí, họ ngồi xuống với cả toàn thân và toàn trí, họ làm việc, nói cười hay yên
nghỉ cùng đều cả toàn thân và toàn trí.
Do đó, những kẻ có trí đức trong đời, họ
sống không nghiêng về phải, không nghiêng về trái, mà họ cần có cả não bộ phải
và trái để chăm sóc đời sống toàn thân và toàn trí của họ.
Và với bước đi toàn thân và toàn trí, nên
họ đạt đến mục tiêu hạnh phúc cao cả của đời sống, ngay trong cách ngồi, cách
đứng, cách làm việc, cách đi, cách ăn uống, nói cười hay trong những cách ngồi
lắng yên để ngắm nhìn trần thế.
Đôi Mắt Yên Bình
Bạn bắt rắn đầu đuôi, bạn sẽ bị
rắn cắn chết. Nhưng, nếu bạn có một cái nạng sắt, ấn vào cổ rắn và bắt rắn ở nơi
cổ, thì việc bắt rắn của bạn rất dễ dàng và an toàn.
Cũng vậy, lòng tham là rắn độc ở nơi tâm
của bạn, sự sân hận, sự mù quáng, tính kiêu mạn, sự phân biệt, kỳ thị và tâm
chấp ngã là những con rắn độc đang hoạt động công khai hoặc đang nằm ngủ yên nơi
tâm của bạn, nếu bạn không phát hiện ra nó hay bạn đang sống với nó mà thiếu
cảnh giác, thì trước sau gì nhân cách và hạnh phúc của bạn cũng bị nó cắn chết.
Nhưng, nếu bạn thấy chúng là nguy hiểm,
sinh tâm sợ hãi, muốn loại trừ chúng ra khỏi tâm của bạn một cách vội vã, gấp
gáp mà không có phương pháp, thì nhân cách và hạnh phúc của bạn sẽ bị chúng cắn
chết sớm hơn!
Muốn bắt các loại rắn độc ấy ra khỏi tâm,
trước hết bạn phải biết theo dõi và nhận diện đơn thuần đối với chúng, để thấy
rõ những hoạt động của chúng lúc công khai nơi ý thức, lúc bí mật hay ngủ yên
nơi tàng thức.
Sau khi đã bám sát theo dõi, thấy rõ những
hoạt động lúc công khai, khi bí mật và lúc yên nghỉ của chúng rồi, với giới
hành, bạn bắt đầu cô lập những lương thực của chúng hàng ngày, khiến cho chúng
bị đói, tiềm năng hoạt động của chúng yếu dần và dẫn đến tê liệt, bấy giờ bạn
dùng năng lực của định và tuệ để chặt đứt và đốt cháy chúng, ngay khi chúng khởi
niệm, thì lúc ấy chúng sẽ bị diệt tận hoàn toàn, ngay ở nơi mảnh đất tâm của
bạn.
Bấy giờ đất tâm của bạn, những rắn độc
không còn, nhưng những khí phần của chúng vẫn còn gây độc hại, nên bạn phải sử
dụng tuệ quán để tảo trừ và xông ướp mảnh đất tâm của bạn, bằng sức ấm của tuệ,
có nội dung của Từ bi hỷ xả, khiến cho đất tâm của bạn càng ngày càng trở nên
thơm, sạch và an bình, những đóa hoa tâm của bạn bắt đầu nở ra với những sắc
hương xinh thơm, dễ chịu và thanh khiết.
Bấy giờ, bạn sống ở đâu cũng đẹp, và lúc
nào, ở đâu bạn cũng có đôi mắt yên bình, để ngắm nhìn mọi sự hiện hữu ở đời, với
tâm đầy thương yêu và chia sẻ.
Vàng Bị Tráo
Bạn đi dự bất cứ buổi tiệc nào hay
mỗi khi có dịp xuất hiện trước đông đảo quần chúng, bạn thường trang điểm nơi cổ
của bạn bằng chiếc vòng vàng và mọi người mến và quý bạn qua chiếc vòng vàng ấy!
Nhưng, vì ham chơi hay lơ đểnh, mất cảnh
giác hoặc ngủ say, chiếc vòng vàng thật, bạn mang nơi cổ đã bị kẻ gian tráo mất
khi nào mà bạn không hề hay biết!
Chiếc vòng bằng vàng thật, bạn thường
trang điểm nơi cổ đã bị tráo mất và kể từ khi bị tráo mất chiếc vòng vàng thật,
bạn đi đến đâu, chẳng ai thèm để ý, vì bạn chẳng còn có cái gì để thiên hạ đáng
chú ý nữa, cái thật nơi bạn đã bị đánh mất, bạn chỉ còn lại cái giả thôi mà!
Cái giả giữa thiên hạ thiếu gì, mà thiên
hạ phải mất công chú ý đến bạn!
Khi bạn nhận ra được rằng, bạn đã bị tráo
mất chiếc vòng vàng thật, nơi cổ bạn đang trang điểm chiếc vòng vàng giả, mặt
bạn tái mét hay ửng đỏ lên, bạn bẽn lẽn với mọi người và nói cười một cách gượng
gạo!
Cái tội mất của là phần nhiều do khoe của
vậy! Cũng như người nấu bếp mất miếng thịt mỡ, vì đem thịt mỡ khoe với mèo vậy!
Than ôi, trách ai!
Đức Sáng Oán Tự Tiêu
Ở giữa đời không ai bỗng dưng mà nói xấu mình, người ta nói
xấu mình là vì ngày trước, mình đã từng gây oán thù đối với họ không bằng những
hình thức nầy, thì cũng bằng những hình thức khác, nên ngày nay họ nói xấu mình
dưới nhiều hình thức khác nhau, cũng chỉ là để đòi nợ nơi mình, và nếu mình
thông minh, thì mình sẽ không giận họ, nhìn họ mình mỉn cười và sẵn sàng chấp
nhận những lời nói xấu của họ đối với mình với tâm hoan hỷ, không chấp trước,
không thành kiến, thì mọi nợ nần giữa mình và kẻ nói xấu kia tự nhiên được tiêu
trừ, bấy giờ tâm mình an ổn như người không còn mắc nợ, phước đức của mình tăng
lên, niềm vui chân thật của mình càng lúc càng tròn đầy.
Và cũng vậy, ở giữa đời, không một
ai bỗng dưng ca ngợi mình, người ta ca ngợi mình là vì mình đã từng thi ân với
họ, bằng những hình thức nầy hoặc bằng những hình thức khác, nên ngày nay, họ ca
ngợi mình cũng dưới nhiều hình thức khác nhau, cũng để trả ân cho mình, và nếu
mình thông minh, thì nhìn họ, mình mỉm cười với tâm biết khiêm tốn và hổ thẹn,
không chấp trước, không bị đi hỏng chân, thì mọi ân tình giữa mình và những
người ca ngợi mình càng lúc càng sáng trong, thánh thiện và
cao quý.
Vì vậy, những bậc có trí đức trong
đời, sống giữa đời, không nhìn lỗi người, không chống trái việc người, không
gièm pha và khuếch đại lỗi của người, không có tâm muốn hơn người, chỉ hướng tới
cái đẹp của người để học, nhìn cái tốt của người để quý, nên đối với họ có oán
thù nào, thì oán thù tự tiêu và nếu có ân nào, thì ân tự sáng và đẹp vậy.
Vị Thầy Chân Thật
Thế nào là một vị Thầy chân thật? Vị Thầy
chân thật là vị Thầy có tâm hồn rỗng rang, không bận rộn với cái cũ cũng không
ham chuộng đối với cái mới; không khen mình, chê người; sống kiên nhẫn và khiêm
tốn, đối với mọi pháp học và pháp hành; Phật pháp và họ không hề có sự tách
biệt; Phật pháp là họ và họ là Phật pháp; họ không hề keo lẫn đối với Phật pháp
mà sống với tấm lòng và bàn tay mở rộng; họ sống với mọi người bằng tất cả tấm
lòng chân thật, nhưng bàn tay họ mở ra đúng lúc, lời nói của họ phát ra đúng đối
tượng, đúng nơi chỗ, đúng nhân duyên, đúng thời điểm; và tâm của họ thì không hề
bị mắc kẹt bởi bất cứ một thứ gì, dù đó là những ý niệm pháp hay không phải là
pháp.
Tâm họ là tâm giác tỉnh hoàn toàn đối với
cũ và mới, chứ không phải chỉ có cũ hay mới; tâm họ là tâm giác tỉnh viên mãn
giữa mình và người, chứ không phải chỉ biết mình quên người hay ngược lại.
Kiêu Ngạo
Ở đời không ai có quyền cấm bạn kiêu ngạo, vì quyền ấy là quyền rất tự nhiên của
bạn, khi bạn thực hiện một vài công việc nào đó thành công.
Bạn có thể kiêu ngạo với mọi người, bạn có
thể kiêu ngạo với những con trâu, con bò, con chó,… nhưng bạn đừng bao giờ kiêu
ngạo với hơi thở của bạn; bạn đừng bao giờ kiêu ngạo với không gian mà bạn đang
sống; bạn đừng bao giờ kiêu ngạo với một hạt nắng của mặt trời hay một giọt nước
miếng trong miệng bạn,…
Bạn không tin tôi nói sao? Nếu không tin, bạn hãy đối xử với
hơi thở của bạn bằng thái độ kiêu ngạo của bạn thử xem!
Chao ôi! Chỉ có một hơi thở, một khoảng
không gian, một hạt nắng, một giọt nước miếng, ngay cả một cục phẩn, một chút
nước tiểu trong bạn,… bạn còn phải biết đối xử với nó rất mực tử tế, trang
trọng, huống hồ gì là giữa con người với con người mà bạn kiêu ngạo được sao?
Nên, Phật dạy, kiêu ngạo là hạt giống si
ngốc, liên hệ đến tâm chấp ngã của ta. Kiêu ngạo càng lớn, thì tâm chấp ngã càng
nhiều, khiến ta càng vọng tưởng, điên đảo và mê muội đối với cuộc sống nầy.
Vĩnh Biệt Tự Hào
Trong cuộc sống nầy, bạn có gì để tự hào
ư? Bạn tự hào về tiền bạc phải không? Chao ơi, lầm rồi! Nó đâu phải là của bạn
mà bạn tự hào. Nó là của nước cuốn trôi; của lửa đốt cháy; của đất vùi dập; của
giặc cướp mất; của vua quan tịch thu; của chồng con hay vợ con phá tán,… hay nói
rõ và chính xác hơn, nó không phải là của bạn, nó là của vô thường, luân lưu,
biến diệt kia mà!
Bạn tự hào về sắc đẹp chăng? Chao ơi, lầm
rồi! Nó đâu phải là của bạn. Nó là sự luân chuyển của trời đất kia mà! Mọi sắc
đẹp và sức khỏe của bạn đều bị quỷ vô thường nuốt chửng, điều ấy bạn có nhận ra
không!
Bạn tự hào về quyền lực ư? Chao ơi, lầm rồi! Làm gì có quyền
lực thật để cho bạn tự hào nhỉ! Có nhiều lần trong đời, bạn phải gục đầu, van
xin những cục phẩn trong ruột già của bạn và những nước tiểu nơi bọng đái của
bạn tha thứ những lầm lỗi cho bạn kia mà!
Vì vậy, quyền lực tối cao của cuộc sống,
không phải thuộc về bạn, mà chúng thuộc về vô thường, già, bệnh và chết.
Bạn đang thở, đang bưng chén cơm để ăn,
đang bưng tách nước để uống, đang tập thể dục, thể thao mỗi ngày,… có nghĩa là
bạn đang năn nỉ bệnh hoạn và sự chết tha thứ cho bạn phải không? Nếu vậy, thì
bạn có gì để tự hào! Và nếu không phải vậy, thì bạn thử đừng thở vài phút thử
xem!
Chính những tự hào không có gì để đáng tự
hào ấy của bạn, làm cho đời sống của bạn trở nên nghèo cùng, tăm tối và khổ lụy.
Vậy, bạn hãy vẫy tay chào những cái tự hào
không đáng tự hào ấy đi. Trước khi vẫy tay chào, bạn hãy gọi tên nó và nói:
“Nầy, tự hào! Ta biết mặt mũi mày rồi, mày là những hạt giống hèn hạ và khờ khạo
nhất ở trong tâm ta, được ý thức ngụy trang bằng những niềm kiêu hãnh, nên ta
càng kiêu hãnh, ta lại càng bị cuộc sống khinh miệt. Vậy, ta xin vĩnh biệt
mày!”.
Chặt Rất
Đẹp
Ở đời có ba việc chẳng có ai ưa thích,
nhưng nó vẫn đến với mọi người, đó là già, bệnh và chết.
Già, bệnh và chết, chúng có gốc rễ từ
tham, sân và si. Nếu ta biết chặt đứt gốc rễ tham, sân và si, thì già, bệnh và
chết không còn có bất cứ duyên cớ gì mà đến với ta.
Muốn chặt đứt tham, sân và si, ta phải
biết chặt đứt những nhận thức sai lầm về thân, tức là chặt đứt thân kiến thủ;
chặt đứt những tuân thủ sai lầm đối với những giới điều, tín điều, tức là chặt
đứt giới cấm thủ; và chặt đứt những cái nghi ngờ sai lầm.
Muốn chặt đứt thân kiến thủ, giới cấm thủ
và nghi ngờ sai lầm, thì ta phải có tư duy chân chính; không gần gũi thầy tà,
bạn ác, và ta phải có tâm siêng năng học hỏi, gạn lọc, suy xét.
Ta không có chánh tư duy, vì ta không thực
tập chánh niệm; ta gần gũi thầy tà, bạn ác, vì ta thiếu chánh tư duy, thiếu
chánh niệm, thiếu chánh trí và bị loạn tâm.
Ta loạn tâm, vì tâm ta bị dao động bởi
phiền não bên trong và âm thanh, sắc tướng bên ngoài; tâm ta không có học giới
phòng hộ; thân ta không có luật nghi nhiếp phục.
Tâm ta không có học giới phòng hộ, thân
không có luật nghi nhiếp phục, vì ta bất tín, lười biếng, không chấp nhận sự
giáo huấn của bậc Thánh, thích nhìn vào chỗ dở của người khác để chỉ trích, rêu
rao, bêu xấu.
Vì sao như vậy? Vì ta quen tập theo thói
thầy tà, bạn xấu; quen tập theo thói ăn ngang, nói ngược; quen tập theo thói
thiếu cung kính với mọi người.
Do đâu quen thói ấy? Vì tâm buông lung,
không biết hổ thẹn với mình, không biết hổ ngươi với người.
Do tâm buông lung, mất trắng niềm tin,
không biết hổ thẹn với mình, không biết hổ thẹn với người, nên tham, sân, si tha
hồ có mặt ở nơi ý, có mặt nơi ngữ và có mặt nơi thân.
Mỗi khi tham, sân, si đã có mặt nơi thân,
ngữ và ý, thì già, bệnh, chết và những bất như ý khác, cũng đều có mặt ngay
trong đời sống của ta, chúng làm cho ta sợ hãi và đốt cháy hết thảy hạnh phúc và
an lạc của ta.
Muốn chấm dứt già, bệnh và chết, ta phải biết chặt đứt tham
sân si, bằng cách lắng nghe pháp, tư duy pháp và thực hành pháp theo sự chỉ dạy
của Thế Tôn.
Pháp hành đầu tiên của ta thực tập là
Chánh tư duy. Tư duy để thấy rõ, thấy chính xác già, bệnh, chết do đâu mà có và
do đâu mà đến? Thấy rõ, thấy chính xác, chúng do tham, sân, si mà có và chúng
đến từ tham sân si. Biết vậy, ta nỗ lực cô lập mọi thức ăn của chúng, để làm cho
khả năng hoạt động của chúng yếu dần ở trong tâm ta, sau đó ta dùng thiền định
để nhiếp phục và dùng tuệ quán để tảo trừ, khiến tham, sân, si, nơi tâm ta sạch
hết, thì già, bệnh và chết cũng hết đường lui với ta.
Bấy giờ, ta không còn làm bạn với già,
bệnh và chết; già, bệnh và chết không còn là những người bạn bất như ý của ta.
Ta có đời sống tự do và hạnh phúc, vì tâm ta không còn bị tham, sân và si trói
buộc.
Tham sân si đã bị những lát kiếm của tuệ
quán chặt đứt rất đẹp!