Minh Đức
Triều Tâm Ảnh
Đức Phật, hai vị đại đệ
tử cùng Ānanda, Rāhula sang ni viện; ngài muốn thăm ni
viện mới, xem sinh hoạt của ni chúng, đồng thời thăm ni trưởng Gotamī, Yasodharā,
và Sundrī-Sunandā.
Vị ni trưởng đã chớm già nhưng vẫn còn quắc thước, khỏe mạnh. Bà
đã chứng đạt quả vị A-la-hán và các thắng trí, có nhiều khả năng và kinh nghiệm
hướng dẫn và lãnh đạo ni chúng.
Yasodharā trông cũng đã vững vàng, ổn định - vì bà cũng đã làm xong những việc
cần phải làm.
Còn nữa, hiện tại, bà là một trong bốn vị có đại thần
thông; nhưng bản chất khiêm tốn, lặng lẽ, ít nói - không
muốn mọi người biết đến nên ai cũng cảm giác bà chẳng có gì nổi bật. Đức Phật mừng cho họ, những người thân yêu nhất của ngài.
Chỉ
riêng Sundrī- Sunandā thì còn có vẻ bất an - do cô xuất gia không phải tự nguyện
mà bởi tình cảm huyết thống dòng tộc và gia đình, căn duyên lại chưa đủ đầy. Trường hợp này thì phải đợi nhân, đợi duyên thôi!
Rất nhiều tỳ-khưu-ni mới
xuất gia gần đây ra đảnh lễ đức Phật cùng các vị trưởng lão, đặc biệt, sau buổi
pháp thoại, ngài tán dương một cô ni trẻ đẹp vừa đắc tứ vô ngại giải vừa đạt các
thắng trí. Đấy là tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā
(Người có sắc đẹp như hoa sen - có làn da
như hoa sen).
Cuộc đời kỳ lạ của
Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc) đã được đức Phật kể lại,
sau đó các vị kết tập sư trước thuật như sau:
- Kể từ thời chư Phật quá
khứ như Padumuttra, Vipassī... nàng đã có duyên lành, đã từng được nghe pháp và
cúng dường lớn; đặc biệt là hay cúng dường hoa sen - và cũng đã từng phát nguyện
sau này sẽ đắc quả A-la-hán, trở thành vị thánh có khả năng thuyết pháp và có cả
thần thông.
Vào thời không có đức
Chánh Đẳng Giác ra đời, nàng sinh ra trong một gia đình lao
động. Một hôm, vào lúc sáng sớm, trên đường ra đồng gặt lúa, nàng thấy dưới đầm
có mấy đóa sen vừa nở rất đẹp. Thích thú quá, nàng lội xuống,
hái mấy bông sen và ngắt thêm mấy lá sen nữa. Đến căn chòi lá giữa đồng,
chuẩn bị buổi trưa cho mình, nàng ngồi rang cốm - chừng 500 hạt nổ - rồi lấy
những lá sen gói lại.
Lúc ấy, tại núi
Gandhamādana có một vị Độc Giác Phật (Pacceka - buddha) vừa xuất thiền duyệt
sau bảy ngày an trú định diệt thọ tưởng; quán căn cơ, thấy cô gái nông dân có
duyên lành nên ngài ôm bát khất thực - có mặt tức khắc tại căn chòi lá của nàng.
Cô gái vừa định bước
xuống ruộng, chợt trông thấy vị đạo sĩ, do căn lành quá khứ, liền khởi phát đức
tin trong sạch, vào chòi, lấy gói cốm rang ra đặt bát rồi dùng luôn mấy đoá hoa
sen phủ lên trên cho đẹp. Với tất cả tấm lòng thành, nàng chấp
tay, phát nguyện:
“- Do phước báu cúng
dường cốm rang và hoa sen ngày hôm nay, xin cho con có được rất đông con trai
bằng số lượng hạt rang ấy; và mỗi bước chân con đi đều xuất hiện mỗi bông sen
tươi thắm!”
Vị Độc Giác nói lời tùy
hỷ phúc chúc rồi vận thần thông bay về núi, đặt ngay ngắn mấy bông sen trên tảng
đá rồi đi khuất vào hang động, ngồi thọ thực. Tất cả mọi diễn tiến hành động của
ngài đều hiện ra rõ ràng trong tầm mắt của cô gái, làm cho nàng vô cùng hân hoan
và thỏa thích.
Phước báu ấy đưa cô hưởng
phúc các cõi trời, hết cõi trời, cô lại sanh làm người, nhưng lại nằm
thai hóa trong một búp sen tại một đầm nước dưới chân núi. Có một vị ẩn sĩ ngụ cư gần đấy. Sáng kia,
ra đầm rửa mặt, thấy tất cả sen đều nở, nhưng có một búp sen to lớn lạ thường,
lại đang như còn ngậm sương; ngài nghĩ: “Hẳn có một lý do hoặc có một duyên sự đặc biệt, hy
hữu nào đây!” Tò mò, vị ẩn sĩ lội xuống đầm, đặt
tay lên búp sen - thì kỳ lạ chưa, những cánh sen lại từ
từ nở ra, và bên trong hiện ra một cô bé gái nhỏ nhắn, xinh đẹp đang nằm khoanh
tròn như hài nhi trong bụng mẹ. Vị ẩn sĩ chợt xúc động, tình phụ tử khởi sanh,
ngài ôm cả bông sen và cô bé gái về căn chòi của mình, đặt lên sàng cỏ. Nhìn bé
gái - như được kết tinh tất cả mọi tinh túy của hương sắc hoa sen - vị ẩn sĩ
chợt trầm ngâm, lo lắng - vì biết lấy gì mà nuôi nó? Chợt dưng, đầu ngón
tay
trỏ của ông rịn ướt và một dòng nước trăng trắng chảy ra. Nếm
thử, ngài biết đấy là sữa. Thấy nhân duyên gì mà nhiệm mầu quá, ông biết
rằng, phước báu của bé gái này không phải tầm thường, vượt ra ngoài tầm hiểu
biết của phàm phu. Từ đấy, vị ẩn sĩ hết lòng chăm sóc, nuôi dưỡng hài
nhi. Cứ ngày ba bữa, ông chỉ cần đưa ngón tay vào miệng bé thì sữa tự động chảy ra. Sau đó, khi bé no
bụng thì sữa cũng tự động tắt! Cô bé lớn nhanh như thổi, bắt đầu biết đi, biết
chạy - vị ẩn sĩ phát giác thêm một điều kỳ lạ, là mỗi bước đi của cô bé lại có
một bông sen đỡ chân. Hình ảnh ấy như ảo ảnh, vì khi ông tới xem - thì không
thấy bông sen kia
nữa! Điều kỳ lạ thứ hai là ông không cần sắm xiêm y cho bé; vì xiêm y của bé
cũng tự có, một loại lụa rất đẹp, và sắc màu cũng tương tợ lá sen, cánh sen,
nhụy
sen! Da mặt, da tay chân của cô bé có một màu hồng mởn,
trắng nõn hoặc trắng phớt hồng; bước đi tới đâu thì hương sen tỏa ngát đến đấy!
Vị ẩn sĩ thầm hiểu rằng, đây là một vị tiên nữ từ cõi trời nào đó mà hoá sanh -
nên tứ đại kết dệt nên cô bé đều là loại vật chất tinh khiết, không hề thấy chất
bất tịnh như thân xác con người. Một là cô bé bị đọa, hai là cô bé sẽ có một sứ
mạng nhân duyên nào đó tại cõi người này chăng?
Hằng
ngày, vị ẩn sĩ phải vào rừng hái trái, đào củ để nuôi mạng. Cô bé học lời ăn
tiếng nói do ẩn sĩ dạy. Và họ sống như tình cảm cha con đầm ấm và hạnh phúc nhất
trên trần đời. Khi cô bé thành thiếu nữ thì vị ẩn sĩ đâm ra lo ngại mơ hồ. Cái trần gian bất tịnh và xấu xa này, không nơi nào có chỗ cho cô
con gái trong trắng và thuần khiết của ông ở được. Và ông cũng không thể
chăm sóc, gìn giữ sự thuần khiết cho cô bé suốt đời! Và thế là
chuyện xẩy ra sẽ phải xảy ra.
Có một
tiều phu làm củi gần đấy. Trưa hôm kia, khi vị ẩn
sĩ mang trái và củ từ rừng về, người tiều phu thấy một cô gái đẹp tợ bông sen,
trong chòi bước ra, đưa búp tay trắng hồng đỡ cây gậy và bình nước rồi dìu ông
ta vào trong. Người tiều phu cau mày, tự nghĩ:
“Quái, bao nhiêu năm rồi, vị ẩn sĩ này có giới hạnh rất thanh tịnh, không một
hạt bụi nào có thể bám vào đời sống phạm hạnh thiêng liêng của ông được - nhưng
bây giờ sao lại có một cô gái xinh đẹp ở chung?”
Tò mò, mà cũng muốn điều tra sự thật, người tiều phu bỏ công nhiều ngày rình rập
mới biết họ là cha con. Người tiều phu vẫn cứ còn thắc mắc:
“Không thể nào, cô gái này không thể là người được. Đã là người thì sắc đẹp cũng
chừng mực thôi! Cô ta rõ là một búp sen hồng tươi thắm, mà, hương sắc còn là
chúa của loài sen nữa! Là ma chăng? Là tiên chăng?”
Hôm kia,
đánh bạo, người tiều phu vào chòi lá xin nước uống. Vị ẩn sĩ
lấy trái cây đãi đằng. Cô gái phụ với ẩn sĩ việc này việc
kia. Hương sen tỏa ngát. Khi tiều phu cáo từ, vị ẩn sĩ
ân cần và thành khẩn nói:
- Con gái tôi từ cõi trời
mà xuống, mai này nó lên lại cõi trời. Trần gian này độc ác và xấu xa lắm, nó sẽ không ở lâu. Vậy
xin ông hãy giấu kín việc này, đừng cho ai biết nhé! Cha con tôi đội ơn ông
nhiều lắm!
Người
tiều phu gật đầu hứa với lời lẽ ngon ngọt.
Về nhà, lòng tham nổi lên, nghĩ rằng, nếu dâng cho vua tin này thì sẽ được một
món hời, ăn
hoài không hết! Cái nghề đốn củi được bao hơi, lại khổ cực suốt đời nữa, dại gì
mà giữ chữ tín!
Đóng
một bộ đồ tươm tất nhất, vào thẳng hoàng cung Bāraṇasī, trình với lính canh là
có việc hệ trọng cần bẩm báo trực tiếp với đức vua. Rồi sau đó, người tiều phu kể lại sự xuất hiện của “cô gái tiên” tại chòi lá của vị ẩn sĩ
cho đức vua nghe.
Thế
rồi, với một toán quân cận vệ, vô số lễ vật, đức vua tìm đến ngôi rừng, cắm trại
cách chòi lá không bao xa, cho người điều tra hư thực. Sau khi biết chắc về chuyện cô tiên là có thật, đức
vua tiến hành việc dạm hỏi với lễ vật trọng hậu.
Vị ẩn sĩ nói:
- Con gái ta là tinh hoa
của hoa sen, là phước báu từ cõi trời mà có - vậy xin nhà vua đối xử với nó như
đối xử với một nụ hoa trong sương sớm. Nó không chịu được nắng
quái và gió chướng của cuộc đời.
Rồi ông quay qua con gái:
- Này Padumavatī! Con gái
cưng của ta! Trên trần gian này, quyền lực của đức vua là tối thượng! Và nếu
nhân duyên tốt thì sự nương tựa nơi đức vua cũng là chỗ tối thượng! Cả ta và con
đều không có một lựa chọn nào khác! Hãy theo đức vua mà về hoàng cung đi!
Cô gái
khóc nức nở, khóc thảm thiết.
Đức vua
sai lấy áo xiêm, mũ miện gắn đầy bảy báu, phong cô gái làm hoàng hậu ngay tại
chỗ rồi rước nàng về cung. Vị ẩn sĩ nói với đức vua:
- Ngài hãy cho người mang
theo luôn những mâm vàng, mâm bạc này đi! Ta không biết dùng những thứ
ấy. Ta chỉ cần trái cây và nước lã thôi!
Thế rồi, khi con gái đi
rồi, vị ẩn sĩ bèn bỏ chòi lá, lên ẩn tu tận Tuyết Sơn, cuối đời, thiền chứng,
sanh về phạm thiên giới.
Cô gái, Padumavatī, về
làm hoàng hậu được đức vua cưng chiều hết mực - làm cho những bà phi ganh ghét,
đố kỵ, gièm pha rồi tìm cách ám hại. Theo với lời
nguyện xưa, nàng sanh được năm trăm con trai, nhưng chỉ có hoàng tử Mahā-Paduma
là thai sanh, bốn trăm chín mươi chín vị còn lại là
thấp sanh. Padumavatī bị truất phế ngôi hoàng hậu rồi lại được phục chức. Về sau, cả năm trăm vị hoàng tử đều làm đạo sĩ xuất gia, đắc quả Độc
Giác Phật và họ sống ở rừng sâu.
Cuối đời, do cô quạnh, phiền muộn, lâm chung, nàng Padumavatī lại sanh vào gia đình nghèo khổ.
Nàng lại làm phước thiện, được sanh thiên, sau đó, trôi nổi nhiều cõi trời và
người nữa.
Vào thời đức Phật
Kassapa, nàng thác sanh vào gia đình hoàng tộc, là công chúa, con của đức vua
Kikī, quốc độ Bārāṇasī. Họ có bảy chị em và nàng là thứ
hai, tên là Samaṇagutta. Mặc dầu sống trong xa hoa
nhung lụa, tài sắc vẹn toàn nhưng cả bảy cô đều từ chối chuyện lập gia đình, chỉ
đi nghe giáo pháp, sống đời giới hạnh không mệt mỏi, không thối thất. Sau
khi xin xuất gia, do đức vua không đồng ý, cả bảy cô sống đời cư sĩ tại gia -
thường bố thí, cúng dường lớn; lại còn thiết lập tu viện, đại lâm viên, xây dựng
cốc liêu cho đức Phật Kassapa và tăng chúng nữa.
Kiếp hiện tại, nàng sanh
ra trong một gia đình trưởng giả tại Sāvatthi, do phước báu xưa, nàng lại có làn
da như cánh sen, hương thơm như nhụy sen nên được đặt tên là Uppalavaṇṇā!
Lớn lên, nàng đẹp quá,
không những nổi tiếng khắp kinh thành mà còn lan xa
nhiều tiểu quốc. Các hoàng tử, vương tôn, công tử... ngày nào cũng ngựa
xe nườm nượp đến đánh tiếng dạm hỏi, chầu chực đầy sân, đầy nhà. Thấy
phiền luỵ quá, nhận lời người này thì mất lòng người kia - vị trưởng giả thở dài, nói với con gái:
- Con đẹp và tươi xuân
như đóa sen mới nở, ai cũng muốn bẻ, muốn ngắt!
Vì là kiếp cuối của tử
sinh, nàng nói:
- Nhưng rồi thì nó sẽ
tàn, sẽ phai sắc và rữa hương thôi, thưa cha thân!
Vị trưởng giả ngạc nhiên:
- Con nghĩ ra điều đó
thật à?
- Thưa vâng, con thấy rõ
như thế mà!
- Vậy sao con không xuất
gia? Đi xuất gia quách! Con biết ni trưởng Gotamī chứ?
- Thưa biết! Con thường
hay đến nghe pháp tại ni
viện. Ôi! Ở đấy có biết bao nhiêu là cành vàng lá ngọc đã tự nguyện cắt bỏ mái
tóc thanh xuân, sống đời giải thoát như hư không! Con cũng muốn xuất gia như họ!
Thế rồi, tiểu thư
Uppalavaṇṇā phủi tay mọi cám dỗ của giàu sang, danh vọng, địa vị và cả tuổi
thanh xuân đến ni viện xin xuất gia - làm rúng động cả kinh thành, làm vỡ nát
trái tim của biết bao nhiêu chàng trai hào hoa, phong nhã.
Hôm kia,
quét dọn giảng đường, thắp sáng những ngọn đèn đây đó; ánh lửa đỏ làm nàng chú
tâm, nhìn ngắm rất lâu. Nhớ đến một bài pháp của một vị trưởng lão, tỳ-khưu-ni
Uppalavaṇṇā nắm bắt đề mục lửa rồi đạt an chỉ định ngay
tại chỗ.
Vào trình bày thiền chứng
với ni trưởng Gotamī để được hướng dẫn thêm về thiền
quán vipassanā, thời gian rất ngắn sau, tỳ-khưu-ni đắc quả A-la-hán, tứ vô ngại
giải và luôn cả những thắng trí.
Kể xong chuyện, đức Phật
nói:
- Này Uppalavaṇṇā! Này
con gái! Như Lai tóm tắt như thế có đúng với các kiếp sinh tử của con chăng?
- Thưa đúng, bạch đức Tôn
Sư!
Đức Phật mỉm nụ hoa sen,
hỏi tiếp:
- Sau khi nhận được đề
tài thiền quán từ ni trưởng Gotamī - vậy thì có chuyện xẩy ra xúc động sâu xa
mà con an trú pháp, thấy rõ pháp nhanh như thế? Con gái hãy kể lại cho mọi người
cùng nghe.
- Thưa vâng! Bạch đức Tôn
Sư!
·
Trích từ: Một Cuộc Đời - Một Vầng Nhật Nguyệt 4
·
Tác giả:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh