Mấy ngày hôm sau, bà quý phi xinh
đẹp đến xin xuất gia tại Ni viện trên một cái võng bằng lưới vàng với một trăm
thị nữ theo hầu, có đức vua, chánh hậu Videhi, các quan
đại thần, các vị công nương... cùng đến tham dự cuộc lễ. Đức Phật đích thân chứng minh, các vị trưởng lão làm lễ thụ giới cho
nàng trước sự chứng kiến của Tăng Ni hai viện, triều đình cũng như hai hàng cư
sĩ.
Niềm vui thanh cao, thánh thiện làm
cho khuôn mặt của đức vua như tỏa hào quang, ông rộng tay mở kho tàng, đặt bát
cúng dường suốt bảy ngày, gồm đủ mọi lễ phẩm phụ tùy đến đức Phật và Tăng Ni -
để kỷ niệm ngày mừng vui trọng đại của hoàng gia. Đức vua hiền thiện này còn làm
một nghĩa cử cao đẹp là lập bốn trại chẩn bần bên ngoài bốn cổng thành để bố thí
cho những người nghèo khổ, cơ nhỡ, già cả, neo đơn... Ngoài ra,
mọi châu báu, tư trang, tư dụng của bà quý phi đều được ủy thác cho đức vua và
hoàng hậu để kiến thiết, chỉnh trang các tịnh xá trong kinh thành.
Sự kiện hy hữu này, Tăng Ni cứ bàn
tán mãi, chẳng rõ do nhân duyên kỳ lạ nào mà bà quý phi chỉ nghe một thời pháp,
đã có thể từ bỏ tức khắc mọi vinh hoa phú quý thế tục để sống đời một nữ khất sĩ
bần hàn!
Biết được mối
nghi hoặc trong lòng của mọi người, tôn giả Sāriputta thỉnh đức Phật vén mở bức
màn mù sương các kiếp tử sinh của bà quý phi để tăng trưởng đức tin cho hàng
tỳ-khưu hậu học. Thuận theo
mọi người, đức Phật đã kể chuyện tương đối đầy đủ, như sau:
- Cũng là duyên xưa, lối cũ thôi, này các thầy
tỳ-khưu! Bà Khemā này có duyên căn rất thâm hậu. Kể từ thời
đức Phật Padumuttara, cô sinh ra làm một nô tỳ cho một gia chủ trong thành phố
Haṃsavati. Đời sống cô rất nghèo hèn và cơ cực. Tuy nhiên, dung sắc cô
rất đẹp, diễm kiều, khả ái; nhất là mái tóc đen dài, óng ánh, mượt mà thả xuống
gót chân... Duyên may, hôm nọ, thấy trưởng lão Sujatā - vốn là đại đệ tử của đức
Phật Padumuttara - với nghi dung sáng rỡ, với lục căn thanh tịnh đang thong
dong, tự tại trì bình khất thực nơi xóm nhà ven lộ. Phát khởi tâm tịnh tín,
nhưng không có tiền, chỉ có vài xu lẻ, đủ để mua một chiếc bánh ngọt - cô thành
kính đặt bát cúng dường! Với trí tuệ, với thắng trí, trưởng lão thoáng nhìn đã
thấy, biết nhân, duyên và quả ở cô thí chủ này,
nên ngài dịu dàng cất tiếng nói:
- Vật thí tuy nhỏ nhoi, nhưng tâm
cô thành kính, tịnh tín nên nó đẹp lắm, quý lắm! Cô có ước
nguyện gì không?
- Thân phận con bé mọn, thấp thỏi,
đâu dám ước nguyện gì; chỉ mong rằng, một kiếp nào đó, trong tương lai, có cơ
duyên được đời sống xuất gia nhẹ nhàng, thanh thoát như tôn giả vậy.
- Cô sẽ có cơ duyên thù thắng và
rồi sẽ được như nguyện.
Được sự động
viên, khích lệ như thế - nên khi nào hễ có dịp là cô lại đặt bát cúng dường, dù
chút ít nhưng không mệt mỏi, bao giờ cũng hoan hỷ và mát mẻ.
Trong một cuộc cúng dường lớn lên đức Phật và chư tăng, không biết bao nhiêu là
vua chúa, quan lại, triệu phú, doanh gia... với tiền rừng, bạc bể, lương thực,
thực phẩm như núi, thượng vị loại cứng, loại mềm... Cô rất hổ thẹn vì thấy mình không có gì.
Chợt nghĩ đến tài sản quý báu là mái tóc đẹp, hiếm có; cô gái,
không ngần ngại, cắt ngay mái tóc đem bán. Người chủ tiệm cửa hàng trang
điểm, là một con người không có lương tâm; biết mái tóc này là cực quý; nhưng
nhìn thấy cô gái nghèo hèn, thuộc giới cấp thấp cổ, bé miệng, nên chỉ trả cho
hai đồng tiền vàng mà thôi! Lại còn miệng lưỡi đãi bôi, nói là cám cảnh hoàn
cảnh của cô nên đã mua với giá rất cao! Cô gái không buồn về chuyện ấy, bèn hối
hả sắm sanh lễ phẩm để chung hội thí với mọi người!
Đức Phật với thiên nhãn, thiên
nhĩ, tha tâm thuần tịnh siêu nhân - ngài biết tất cả việc xảy ra. Sớm hôm
ấy, đức Phật ôm bát, không dừng lại nơi chỗ phú quý của vua chúa, không dừng lại
nơi chỗ cao sang của các quan đại thần; và bỏ qua thượng phẩm của tất cả triệu
phú, doanh gia, các đại gia chủ - để đi đến nơi mâm vật thực nghèo nàn của cô
gái. Mừng đến nỗi nước mắt cứ giọt ngắn, giọt dài - cô gái
trân trọng đặt bát cho đức Thế Tôn trước hằng ngàn đôi mắt ngưỡng mộ lẫn ghen tỵ
của mọi người. Để cho phước báu của cô gái càng thêm viên mãn, đức Phật
bảo thị giả xếp gấp tấm tăng-già-lê làm bốn trải lên nền đất rồi ngài ngồi
xuống, an tĩnh, thanh tịnh độ thực ngay tại chỗ. Cô gái
quỳ xuống, chấp tay hầu một bên.
Đặt bát cho chư tăng đại chúng xong, mọi người quây quần lại xin cô gái
chia phước. Cô vui mừng lắm, nhưng không biết chia phước ra làm sao. Đức
Phật mỉm cười, ân cần dạy rằng:
- Con thành kính chấp tay lên, đặt
ngay nơi chỗ trái tim của mình - làm thế nào để cho ngôn ngữ, tâm hồn và ý nghĩ
kết hợp làm một, rồi nói như thế này: “ Tôi rất hoan hỷ, đại hoan hỷ chia phước đến cho tất
thảy mọi người”. Con biết tại sao không? Phước như ngọn đèn. Con đang có một ngọn đèn sau khi cúng
dường đến Như Lai. Ngọn đèn ấy, nếu con cho một trăm người thắp, ngàn người thắp
thì ánh sáng đèn cứ thế mà lan tỏa ra mãi; nhưng ngọn
đèn trong tay con vẫn không hao hụt, không suy suyển một chút nào. Nó vẫn nguyên
vẹn!
Thế rồi, sau khi cô gái chia phước,
mọi người đồng rân hô lớn, lành thay, làm cho cả đại địa và các tầng trời cũng
phải rung rinh.
Vị đại vương chí tôn kinh thành Haṃavatī
nghe chuyện cô gái, rưng rưng cảm động, xiết bao thương quý
- chiều ấy, cùng hai thị vệ, hỏi đường, tìm đến thăm tận nhà. Ngạc nhiên thấy cô gái đẹp quá, lại ở trong cái chòi rách nát với
một cậu em trai.
Đức vua trẻ thấy trái tim rung động, không muốn giấu
giếm thân phận mình, nói thật với cô gái và muốn rước cô gái về cung. Cô gái
thấy chàng trai cao sang, tuấn tú cũng nghe lòng mình bồi hồi, xao xuyến. Có gì
lạ đâu, họ đã từng là vợ chồng trong nhiều kiếp quá khứ rồi!
Lạ thay, khi cô gái vừa cúi đầu xuống, hổ thẹn, ngầm ý chấp thuận thì mái tóc
của cô ta dài ra như cũ. Đức vua trố mắt nhìn. Chỉ có đức Phật và các bậc có thắng trí mới biết phép lạ ấy có được
là bởi Đế Thích thiên chủ.
Hôm ấy, khi cô gái cắt bán mái tóc thanh xuân, mua vật thực cúng dường đức Phật
và được đức Phật thọ nhận rồi độ thực ngay tại chỗ - thì tại Đao Lợi thiên cung,
tảng đá vàng làm ngai ngồi của ông chợt nóng ran lên. Đây là
dấu hiệu, lúc nào tại nhân gian có ai đó làm phước, mà phước báu ấy rất cao
thượng, lúc trả quả, có thể thắng trội, vượt trội - có thể chiếm lĩnh ngay cả
ngai vàng của ông ta.
Dùng thiên nhãn ngắm nhìn, Đế Thích thấy biết ngay, nên ông đã ra tay ban chút
phép mầu cho cô gái được lấy lại mái tóc đẹp của mình trước khi se duyên về cung
với đức vua! Sau đó, cô gái được vua phong làm quý phi, sống một cuộc đời yên ấm,
vương giả.
Một lần nọ, khi thấy đức Phật tuyên
dương một tỳ-khưu-ni sáng chói đệ nhất về trí tuệ, bà đã ước nguyện sau này sẽ
sở đắc như vậy. Và đức Phật Padumuttara đã thọ ký cho bà được
như nguyện.
Hết kiếp sống ấy, do nhờ tâm tịnh
tín và phước báu thù thắng ấy, cô ta luân chuyển trong các cõi trời và người với
hạnh phúc sang cả và thù thắng, luôn là hoàng hậu, chánh hậu, vương phi các vị
vua trời và các đức Chuyển luân Thánh vương.
Đến thời Phật Vipassī, bà được xuất
gia trong giáo pháp này, được nổi tiếng là một tỳ-khưu-ni có trí phân tích với
ngữ ngôn tinh tế, trong sáng kiêm cả tài hùng biện.
Đến thời Phật Kakusandha, cô thác
sanh trong một gia đình cự phú, biết bố thí, trì giới, có đức tin thiêng liêng
với Tam Bảo, đã xây dựng một trú xứ vĩ đại, khang trang, đẹp đẽ để cúng dường
đến đức Phật và mấy chục ngàn tăng chúng có chỗ tĩnh cư.
Đến thời Phật Koṇāgamana,
tâm tịnh tín và sự bố thí cúng dường của cô
vẫn đi theo
ước nguyện cũ, vẫn là những đại tịnh xá, đại lâm viên cho đức Phật và giáo hội.
Đến thời Phật Kassapa, bà tên là
Samanī, là trưởng công chúa con đức vua Kikī nước Kāsi, kinh thành Bārāṇasī - đã khẩn khoản xin xuất gia nhưng không thuận duyên, do hai thân
không cho phép. Thế là bảy chị em, gồm Samanī, Samaṇagutta,
Bhikkhunī, Bhikkhudāyika, Dhammā, Sudhammā
và Saṅghadāyika sống trong những
cung điện nguy nga tráng lệ. Tuy nhiên, do căn tu nhiều đời, họ thường hay đi nghe
pháp, sống rất có giới hạnh và bố thí cúng dường không mệt mỏi...
Này các thầy
tỳ-khưu, đừng tưởng vị trưởng công chúa Samanī ấy là ai, chính là bà Khemā hiện
nay đấy.
Do nhân duyên nhiều đời như vậy, một thời gian sau, chắc chắn bà sẽ đắc quả
A-la-hán, đồng thời sẽ sở đắc tất cả mọi thành tựu từ ước nguyện cũ.
Ngoài những thắng trí, ngôn ngữ, biện tài, tỳ-khưu-ni Khemā sau này sẽ là bậc
trí tuệ đệ nhất trong hàng Ni chúng. Tự bà sẽ lấy lại phẩm vị từ ước
nguyện xưa của mình - khi quỳ dưới chân đức Phật Padumuttara, đã được ngài hứa
khả - vào thời giáo pháp hiện nay của Như Lai!
Đại chúng thở phào, nhẹ nhõm - và
thế là đức tin, thêm một lần nữa được xác lập, được củng cố, tăng trưởng.
Tôn giả Ānanda chợt thưa hỏi:
- Thế sáu vị công chúa đã từng nghe
pháp, bố thí, cúng dường, sống rất có giới hạnh thuở ấy - họ lưu lạc phương trời
nào, cảnh giới nào rồi, bạch đức Thế Tôn?
Đức Phật mỉm cười:
- Lại duyên xưa, lối cũ mà về. Họ đang có
mặt đầy đủ ở đây cả rồi!
Đại chúng ngơ
ngác. Có người, bất giác đưa
mắt nhìn ngược, nhìn xuôi!
Đức Phật lại tiết lộ bí mật một
chút:
- Đời này, họ đã
sanh ra, và trước sau họ đều tao ngộ trong giáo pháp.
Riêng cô công chúa út, rồi các thầy sẽ gặp thôi, không lâu đâu!
Đại chúng thỏa mãn vì câu chuyện
hay ho, cảm động ấy; và ấn tượng mà họ ghi nhớ nhất - là cô gái nghèo khổ đã tự
cắt bỏ mái tóc thanh xuân của mình, đem bán để mua thực phẩm cúng dường!
Lúc mọi người giải tán hết thì tôn
giả Ānanda cứ lẽo đẽo theo sau tôn giả Mahā Moggallāna để hỏi cho kỳ được 6 cô
công chúa còn lại là ai, tên là gì, hiện họ đang ở những đâu?
Tôn giả Mahā Moggallāna biết rất rõ
như sau: “ Samaṇagutta xưa, bây giờ là Uppalavaṇṇa;
Bhikkhunī xưa, bây giờ là Paṭācārā;
Bhikkhudāyika xưa, bây giờ là Kuṇḍalā; Dhammā xưa, bây giờ
là Kisā-Gotamī; Sudhammā xưa, bây giờ là Dhammadinnā” -
nhưng ngài chỉ cười, khẽ nói:
- Đức Thế Tôn chưa kể câu chuyện
còn lại - là có lý do của ngài - tôi là ai mà dám bước qua giới hạn ấy? Hiền hữu chỉ cần biết rằng, họ đều còn đang lưu lạc ở trong đời, còn
đang nếm đủ mọi mùi vị ngọt ngào cũng như đắng cay của cuộc sống, khi chưa dứt
nghiệp. Nhưng sau này, họ đều là những vị tỳ-khưu-ni đạo cao đức trọng,
sáng chói trong rừng Ni chúng! Đức Phật không đã từng dạy từ đầu, rằng là, ai
nấy đều cứ theo duyên xưa,
lối cũ mà về, đó sao!
Nói thế cũng bằng không! Tôn giả
Ānanda xịu mặt xuống, trông sao mà dễ thương, dễ mến đến vậy!
Trích từ: Một Cuộc Đời - Một Vầng Nhật Nguyệt 3
Tác giả:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh