Phương pháp ứng dụng Tứ tất đàn vào đời sống xã hội

Thích Thái Hòa

               Ai là người ứng dụng Tứ tất đàn vào xã hội? Đó là vấn đề.

               Người đầu tiên ứng dụng Tứ tất đàn vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, độ đời là Đức Phật. Tiếp theo Đức Phật là các vị lịch đại tổ sư. Tiếp theo nữa là các vị Bồ Tát. Các vị Bồ Tát sau khi đã hoàn thành được căn bản Phật học, tức là tự hoàn thiện được mình về mặt đạo đức, nhân cách thì nghĩ đến công ơn của Phật, công ơn của Tổ, của cha mẹ, công ơn của mọi người, mọi loài, công ơn của xã hội mà phát khởi tâm bồ đề, thực hành Bồ tát đạo.

Cho nên, người có thể ứng dụng Tứ tất đàn vào sự tu học và hoằng pháp lợi sinh hiện nay phải là những người có tâm Bồ tát, mà cụ thể là những người thọ trì Bồ Tát giới, thực hành Bồ Tát đạo, nghĩa là đi trên con đường của đại thừa.

Bởi vì sau khi hoàn thiện được bản thân về mặt nhân cách, đạo đức, Bồ Tát thấy rằng thế gian còn tăm tối. Bản thân mình thánh thiện mà thế gian tăm tối, bản thân mình sống hạnh phúc mà thế gian đau khổ, bản thân mình sang trọng mà thế gian thấp kém thì cái thấp kém của thế gian có thể ảnh hưởng đến cái cao thượng của mình. Cũng như mình xây một ngôi nhà đẹp trong một khu vườn đẹp mà không có đường đi vào, không có ai thưởng thức được thì ngôi nhà đẹp của mình, khu vườn đẹp của mình có giá trị gì, có lợi ích gì.

Do đó, muốn ngôi nhà mình đẹp, khu vườn mình đẹp thì phải có con đường đẹp dẫn vào, có những con người với đầy đủ trình độ, khả năng thưởng thức những thứ đẹp đẽ, những thứ quý giá đó. Mình cũng phải làm cho cả những người chung quanh ngôi nhà mình sạch hơn, đẹp hơn thì cái đẹp của ngôi nhà mình mới có giá trị.

Và quan trọng hơn nữa, là mình phải làm sao để mọi người có thể thưởng thức được hết những trân quý trong nhà mình.

Muốn vậy, tự thân con người phải tự hoàn thiện bản thân, hoàn thiện nhân cách của mình, rồi nhìn ra ngoài xã hội và phát khởi tâm đại thừa để thực hành Bồ tát đạo, để giúp cho những người khác cũng hạnh phúc như mình, hoàn thiện như mình, có nhân cách như mình, có đời sống cao đẹp như mình, sang trọng như mình và an lạc như mình.

Con đường mà lợi mình, lợi người như thế gọi là con đường của Bồ tát hạnh. Làm lợi mình, lợi người như thế gọi là hạnh của Bồ Tát. Tâm làm lợi mình, lợi người như thế gọi là tâm của Bồ Tát.

Bây giờ, Bồ Tát ở trong cõi người, từ nơi thế giới con người mà phát tâm Bồ tát, thì phải nhắm vào nơi xã hội chúng ta đang sống. Mà muốn chuyển hóa xã hội chúng ta đang sống, chúng ta phải nhắm tới chuyển hóa những người thương yêu liên hệ với chúng ta. Bồ Tát thì phải làm cho vợ, cho chồng của Bồ tát dễ thương. Còn nếu Bồ tát tại gia mà vợ mình không dễ thương, chồng mình không dễ thương thì mình còn nói dễ thương với ai được. Bồ tát cha, Bồ Tát mẹ phải làm cho con cháu mình dễ thương ra, nếu không thì mình nói ai được giữa cuộc đời này. Giữa bạn bè với nhau, mình phải làm cho bạn mình dễ thương ra, nếu không thì làm sao mình nói với các đối tượng xã hội khác được.

Các đối tượng xã hội, họ nhìn vào mình dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, nhưng trước hết, họ nhìn vào nhân cách tu tập của mình. Nếu mình không có nhân cách, thì có nói chăng cũng chỉ là sáo ngữ, chỉ là bản nhạc ca ngợi nghe êm tai, chứ chẳng có giá trị gì.

Do đó, muốn ứng dụng Tứ tất đàn vào sinh hoạt xã hội, trước hết chúng ta phải phát tâm bồ đề, thực hành Bồ tát đạo, nói một cách khác, phải phát khởi tâm chí đại thừa để đi vào cuộc sống, để có mặt ngay giữa cuộc đời này, có mặt ngay nơi xã hội đầy biến động và sinh động này để gầy dựng lại những gì đã đổ vỡ, hàn gắn lại những gì đã rạn nứt, dựng đứng lại những gì đã xiêu vẹo, bật đèn cho người ta thấy, chỉ đường cho người ta đi đến nơi an ổn, hạnh phúc, cao thượng.

Muốn như vậy, người Phật tử ứng dụng Tứ tất đàn phải lắng nghe và học hỏi không biết mệt mỏi. Mình phải học hỏi những gì thế gian đã có. Chắc chắn các anh/chị/em đã được học về ngũ minh rồi. Ngũ mình là năm phương pháp mà người học giáo lý đại thừa phải học, phải nghiên cứu, phải thực tập để có khả năng đi vào sống giữa lòng xã hội, làm thay đổi xã hội theo hướng Phật Pháp.

Thứ nhất là Thanh minh. Thanh minh có nghĩa là hiểu rõ về mọi thứ ngôn ngữ.

Mình ở Mỹ thì phải nói được ngôn ngữ của người Mỹ mới có thể giúp được cộng đồng người Mỹ. Bây giờ các anh/chị/em ở Mỹ mà còn nói tiếng Việt và chỉ giúp được cộng đồng người Việt mà không giúp được cộng đồng người Mỹ thì làm sao mà giúp cho xã hội Mỹ đi theo hướng Phật pháp được. Xã hội Mỹ có những cái đã hoàn thiện về mặt khoa học kỹ thuật, nhưng mặt tâm linh, tín ngưỡng và những mặt khác vẫn chưa hoàn thiện, thì bây giờ, vai trò của các anh/chị/em là phải hoàn thiện cho xã hội người Mỹ, cho cộng đồng người Mỹ về mặt Phật pháp. Và mình có thể giới thiệu đạo Phật Việt Nam, lịch sử Phật giáo Việt Nam cho người Mỹ biết, mà muốn được như vậy, mình phải giỏi về Thanh minh, tức là giỏi về ngôn ngữ học, tục ngữ, phương ngữ của người Mỹ. Không những vậy, mình còn phải giỏi về văn hóa, luật lệ của người Mỹ nữa.

Cho nên, Phật tử muốn đi vào đời, ứng dụng Tứ tất đàn làm thay đổi xã hội của người Mỹ theo hướng Phật pháp thì phải giỏi về Thanh minh.

Thứ hai là Nhân minh, tức là giỏi về luận lí học. Người ta nói ra là mình biết được họ nói sai ở chỗ nào, đúng ở chỗ nào. Muốn chinh phục người khác, thì mình phải có những luận lý sắc bén, nếu không thì khó mà làm cho người ta nghe và chấp nhận luận điểm của mình.

Không có Nhân minh, mình không biết đúng sai. Sống ở trong một cộng đồng nào đó, mình phải biết biện luận để nêu rõ chánh lý và phá bỏ tà kiến của cộng đồng đó, nâng cộng đồng đó đi lên với chánh kiến. Vì vậy, chúng ta phải có Nhân minh luận.

Thứ ba là Công xảo minh, tức là phải giỏi về khoa học công nghệ. Nhất là trong xã hội Mỹ rất phát triển về khoa học công nghệ, khoa học thông tin thì chúng ta phải giỏi cái đó, đi vào trong lĩnh vực đó để ứng dụng Tứ tất đàn vào đó. Qua Tứ tất đàn, chúng ta có thể làm thay đổi xã hội Mỹ theo hướng Phật pháp, giúp cho xã hội Mỹ ổn định lại tất cả những gì mà họ chưa thể ổn định. Chúng ta đóng góp được như vậy là nhờ vào Công xảo minh.

Thứ tư là Y phương minh, tức là phải giỏi về y học.

Chúng ta phải giỏi về y khoa. Y khoa ở đây không chỉ là các bệnh về sinh lý, về cơ thể người mà còn phải giỏi về tâm học, tâm lý trị liệu nữa.

Và sau khi chữa lành các bệnh trên thân của họ, bệnh trong tâm của họ thì ta đưa họ đi về đâu?

Ta có Thế gian tất đàn rồi, Vị nhân tất đàn rồi, Đối trị tất đàn rồi, ta thành tựu ba mặt đó rồi, thì ta phải đưa họ đi về Đệ nhất nghĩa tất đàn, tức là cái chân lý tối hậu mà Phật giáo muốn nói cho cuộc đời, Phật giáo muốn hiến tặng cho cuộc đời. Như trong kinh Pháp Hoa, đức Phật muốn đưa người đi tới nơi bảo sở, chứ không phải dừng lại ở hóa thành. Nhưng muốn đưa người ta đi tới bảo sở, mình phải có khả năng tạo ra hóa thành để cho mọi người dừng chân, vì đường đi xa quá, sức người có hạn.

Thứ năm là Nội minh, tức là giáo lý của mình.

Như vậy, chúng ta thấy rằng, trong Ngũ minh thì Thanh minh, Y phương minh, Công xảo minh, Nhân minh thuộc về Thế gian tất đàn, Đối trị tất đàn, Vị nhân tất đàn còn Nội minh là Đệ nhất nghĩa tất đàn. Mình làm y học là để chuyển vận Nội minh cho xã hội, tức là phải nói được giáo lý đức Phật dạy, mục đích lời Phật dạy, mục đích ra đời của đức Phật, mục đích kinh điển Phật giáo lưu truyền là để làm gì cho xã hội con người. Và để nói được những điều đó, mình phải biết sử dụng ngôn ngữ, y dược, khoa học công nghệ, sử dụng luận lý để chuyển tải. Do đó, một vị đi vào xã hội để ứng dụng Tứ tất đàn vào trong sinh hoạt của xã hội, vị đó phải có tâm bồ đề rộng lớn, có những phương tiện thực tiễn, mới có thể đóng góp và làm thay đổi xã hội theo tinh thần Phật giáo.

Trong xã hội mình làm thay đổi đó, phải lấy hai chất liệu trí tuệ và từ bi làm chủ yếu.

Để thay đổi toàn thể thế giới, mình có Thế gian tất đàn. Để thay đổi từng cá nhân, từng xã hội, mình có Cá cá vị nhân tất đàn. Xã hội Việt Nam khác với xã hội Mỹ; xã hội Trung Hoa khác với xã hội Pháp; xã hội Pháp khác xã hội Anh,... Đi đến đâu mình cũng biết được Thế giới tất đàn như vậy, Vị nhân tất đàn như vậy, thì mình mới sử dụng Đối trị tất đàn thành công, mới đưa xã hội đi về với Đệ nhất nghĩa tất đàn, nếu không thì sẽ thất bại.

Các anh/chị/em tụng kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn đã biết, Bồ Tát Quán Thế Âm, đối với người cần hiện thân trưởng giả, Ngài liền hiện thân trưởng giả để thuyết pháp; đối với người cần hiện thân tể tướng để thuyết pháp, Ngài liền hiện thân tể tướng để thuyết pháp; đối với người cần hiện thân đạo đức, như Tỳ kheo, Tỳ kheo ni để thuyết pháp, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni để thuyết pháp,… Ấy là Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu Đối trị tất đàn, Vị nhân tất đàn, Thế gian tất đàn. Và thuyết pháp để đưa người ta đi tới đâu? Tới sự an lạc, hạnh phúc và thành Phật trong tương lai, từ đó, họ sanh khởi niềm tin là bản thân mình cũng có Phật tính, mình cũng có khả năng thành Phật, thấy được đau khổ của người khác cũng là đau khổ của mình, từ đó mà khởi tâm hành Bồ Tát đạo. Như thế là thành tựu được mục đích thuyết pháp, tức là Đệ nhất nghĩa tất đàn.

Cho nên, phương pháp ứng dụng Tứ tất đàn là trước hết, người ứng dụng Tứ tất đàn phải là người có tâm Bồ tát, phải học hỏi giáo lý xuyên suốt từ Thanh văn đến Đại thừa, và đừng dừng lại ở nơi hạnh Thanh văn. Hạnh Thanh văn giống như hạnh của một người giàu đóng cửa, hưởng thụ một mình, bà con không ai có lợi gì cả. Do đó, tự hoàn chỉnh hạnh Thanh văn rồi,  phải hướng tới và phát tâm thực hành hạnh Bồ tát, thì hạnh Thanh văn mới có ý nghĩa. Hạnh Thanh văn là hạnh trong sạch và hoàn thiện tự thân, nếu hạnh ấy mà có Bồ tát hạnh ở trong, thì mình có thể đem sự trong sạch đó làm trong sạch, lợi ích cho nhiều người. Cũng như người nhà giàu, giàu có là quý, nhưng biết đem tài sản của mình chia sẻ cho nhiều người chung quanh, những người nghèo khó hơn mình, từ đó, những người nghèo cảm đức từ bi của mình nên quy y Tam bảo, bỏ ác làm lành, có tâm hướng thượng. Đó chính là con đường của Bồ tát, con đường ứng dụng Tứ tất đàn vào đời sống xã hội.

Người đầu tiên chuyển tải pháp và ứng dụng Tứ tất đàn vào đời sống xã hội là Đức Phật, sau đó là các vị Tổ sư của chúng ta, tiếp theo là các vị Tăng ni, Phật tử thọ trì Đại thừa bồ tát giới thiết lập trên nền tảng của bồ đề tâm.

Bồ đề tâm có hai chất liệu trí tuệ và từ bi. Nhờ có hai chất liệu này mà Phật giáo có mặt giữa cuộc đời một cách đích thực để góp phần xây dựng một xã hội theo cái nhìn của Phật giáo. Thầy nhắc lại là đạo Phật không phải đi vào cuộc đời, đạo Phật có ngay giữa cuộc đời. Nếu nói rằng đạo Phật đi vào cuộc đời thì đó không phải là cách nói theo ngôn ngữ Đệ nhất nghĩa tất đàn.

Nói theo ngôn ngữ Đệ nhất nghĩa tất đàn là Phật giáo có mặt ngay giữa cuộc đời, chứ không phải có bên lề cuộc đời hay ngoài cuộc đời, để rồi từ đó mà đi vào cuộc đời. Chắc chắn rằng, các anh/chị/em đã học kinh Pháp Hoa, và thấy hoa sen có mặt ở trong bùn, chứ không phải hoa sen đứng ở ngoài bùn, rồi đi vào trong bùn và nở ra hoa. Và các anh/chị/em cũng đã học kinh Duy Ma Cật và đã biết rằng, sinh tử và niết bàn không phải là hai cửa ngõ khác nhau, mà là hai mặt của sự giác ngộ. Và bài Tứ diệu đế cũng đã cho ta thấy rằng, Đức Phật dạy Tứ diệu đế về khổ, tập, diệt, đạo, thì khổ và tập là mặt của sinh tử; diệt và đạo là mặt của niết bàn. Khổ và tập là mặt của hệ lụy, của phiền não, còn diệt và đạo là mặt của bồ đề, của giải thoát. Khổ và tập là nguyên nhân và kết quả của khổ đau trong sinh tử; diệt và đạo là nguyên nhân và kết quả của đời sống giải thoát an lạc. Như vậy rõ ràng đạo Phật không phải đứng ngoài cuộc đời hay bên lề cuộc đời để đi vào, mà đạo Phật có mặt ngay giữa cuộc đời để làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Cho nên giải thoát và hệ lụy cũng chỉ như hai mặt của một bàn tay mà thôi. Chúng ta phải hiểu như vậy rồi, chúng ta mới nói đạo Phật có mặt giữa cuộc đời để giúp cho xã hội thăng hoa.

Như vậy, rõ ràng rằng, đạo Phật có mặt ngay giữa lòng xã hội, để làm cho xã hội nở ra hoa trái của sự an lạc, giải thoát, của trí tuệ và từ bi.

1- Ứng dụng Tứ tất đàn vào xã hội mô:

Theo cách nhìn của Phật giáo, thì xã hội không phải chỉ là những sinh hoạt thuộc về loài người, mà nó bao gồm cả y báo và chánh báo của lục đạo chúng sinh, của ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Và lục đạo chúng sinh thì bao gồm cả chư thiên, nhân loại, atula, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Vì vậy, Phật giáo nhìn xã hội với một tầm mô rất lớn, một cái nhìn toàn thể và chi tiết. Và tất cả những hoạt động của sáu loài gồm: chư thiên, nhân loại, atula, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục đều liên hệ đến những hoạt động của xã hội con người. Chúng ta muốn hiểu xã hội con người, thì chúng ta phải hiểu những cái gì không phải là con người, không phải là xã hội con người. Cho nên, chúng ta muốn hiểu xã hội con người thì chúng ta phải có tầm nhìn và tầm hiểu về xã hội chư thiên, xã hội của a tu la, xã hội của súc sinh, xã hội của ngạ quỷ, xã hội của địa ngục thì chúng ta mới có thể hiểu được xã hội con người một cách hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn.

Và khi chúng ta đã hiểu được xã hội con người qua xã hội của chư thiên, xã hội của atula, xã hội của súc sinh, xã hội của ngạ quỷ, xã hội của địa ngục, thì chúng ta mới có thể áp dụng được pháp Tứ tất đàn vào xã hội con người, để xây dựng xã hội con người theo tinh thần Phật giáo.

Và muốn hiểu xã hội của hết thảy lục đạo chúng sinh, chúng ta phải hiểu nhân và quả của chúng. Chư thiên do tu nhân gì, thực tập nhân gì, duyên gì hỗ trợ, mà đạt tới quả báo của thế giới chư thiên. Nhân loại do thực tập Pháp gì, do tu Pháp gì, do thành tựu nhân gì, thực tập nhân gì, duyên gì, mà đi tới thế giới ở trong loài người. A tu la là do nhân gì, duyên gì, quả gì mà tạo nên thế giới của họ, tạo nên xã hội của họ. Và thế giới súc sinh, xã hội súc sinh cũng vậy, do nhân gì, duyên gì, quả gì mà đi tới thế giới của súc sinh. Và ngạ quỷ là do nhân gì, duyên gì mà đi tới thế giới, xã hội của ngạ quỷ. Địa ngục là do nhân gì, duyên gì mà tạo nên xã hội của địa ngục hay thế giới của địa ngục. Chúng ta hiểu được thế giới của chư thiên, của nhân loại, của atula, của súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục qua nhân duyên, nhân quả, nghiệp báo, thì chúng ta mới hiểu được thế nào là Thế giới tất đàn. Và khi chúng ta hiểu được Thế giới tất đàn như vậy, thì chúng ta mới ứng dụng Phật Pháp vào trong các thế giới ấy, xã hội ấy để có thể đưa họ đi về với Đệ nhất nghĩa tất đàn.

Chúng ta phải hiểu xã hội dưới một cái nhìn bao quát và chi ly của Phật Pháp, cái nhìn bằng trí tuệ ở trong Phật giáo. Còn nếu chúng ta chỉ hiểu xã hội con người, qua những hoạt động của nó về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từ thiện, tín ngưỡng,… thì chúng ta chưa hiểu xã hội của con người là gì.  Nếu ta chỉ hiểu rằng, những hoạt động xã hội là những hoạt động trên những lĩnh vực ấy, và chỉ là những lãnh vực ấy, thì những hoạt động xã hội của chúng ta sẽ không thành công. Tại sao?  Vì chúng ta chỉ hiểu những sinh hoạt của xã hội con người chỉ là những sinh hoạt đơn thuần của con người thôi, cái hiểu như vậy chưa phải là chánh kiến ở trong đạo Phật. Và cái chiêm nghiệm về thế giới con người mà chỉ nhắm tới con người thôi, thì chưa phải là chánh tư duy ở trong đạo Phật. Chúng ta nghĩ về con người và chỉ duy trì suy nghĩ về con người thôi, thì đúng là chúng ta chưa có chánh niệm ở trong đạo Phật. Chúng ta chỉ nói ngôn ngữ con người và chỉ nhắm tới con người và xã hội con người thôi, thì chúng ta vẫn chưa hiểu chánh ngữ ở trong Bát chánh đạo ở trong đạo Phật. Và chúng ta hành hoạt mà chỉ nhắm tới phạm vi con người thôi, chỉ những hành động liên hệ đến con người thôi, thì chúng ta chưa hiểu được chánh nghiệp ở trong đạo Phật, trong Bát chánh đạo. Và chúng ta tu tập thiền định mà chỉ nhắm tới buông thư, chỉ xả những cái sốc, những bận rộn trong thế giới con người thôi, thì chúng ta chưa hiểu thế nào là chánh định ở trong đạo Phật, ở trong Bát chánh đạo. Do đó, qua bài học này, chúng ta phải học cho kỹ và có tầm nhìn thế nào là Thế giới tất đàn hay thế gian tất đàn. Nếu chúng ta không hiểu Thế gian tất đàn, chúng ta khó mà đóng góp phần mình vào thế giới con người.

Tất cả các anh/chị/em đã thấy, ngày hôm nay thế giới đang sôi nổi bởi bầu không khí của thế giới đang bị ô nhiễm và những động đất, thiên tai, hỏa hoạn, núi lửa làm cho xã hội Âu châu mù mịt khó khăn. Do đâu mà có? Có phải là do thiên nhiên không được bảo toàn, con người khai thác thiên nhiên đến một mức độ mà thiên nhiên phải lên tiếng, lên tiếng để bảo toàn lại những gì mà thiên nhiên đã bị cướp mất bởi con người, bởi lòng tham của con người, bởi cái nhìn sai lạc của con người về thế giới, về xã hội.

Cho nên thầy hy vọng qua thời pháp thoại này, tất cả các anh/chị/em Vạn Hạnh I của Hoa Kỳ sẽ có được một tầm nhìn rộng lớn hơn, để có thế đóng góp được cái nhìn của Phật Pháp, cái tu học của Phật Pháp vào trong môi trường, trong xã hội mà các anh/chị/em đang có mặt, nói cách khác là cho xã hội con người nói chung và xã hội Hoa Kỳ mà các anh/chị/em đang có mặt ở đó.

2-Áp dụng Tứ tất đàn cụ thể trong tổ chức GĐPT:

Bây giờ mình nói theo nghĩa cụ thể mà tổ chức của các anh/chị/em là tổ chức gia đình phật tử, ấy là một tổ chức nhỏ trong cộng đồng xã hội nhân loại, chúng ta có thể áp dụng Tứ tất đàn vào tổ chức gia đình phật tử, thì phải áp dụng như thế nào?

Gia đình phật tử hiện  nay đã trở thành gia đình phật tử liên kết với nhau để trở thành một tổ chức toàn cầu. Bởi vậy, muốn áp dụng Tứ tất đàn vào tổ chức này, thì phải hiểu thế nào là gia đình phật tử toàn cầu. Gia đình phật tử toàn cầu được tạo nên, bởi gia đình phật tử các châu lục, các quốc gia. Như vậy, mình muốn ứng dụng Tứ tất đàn vào gia đình phật tử toàn cầu, thì mình phải có cái nhìn toàn cầu, qua cái nhìn từng châu lục, từng quốc gia thì mình mới có thể điều khiển được, lãnh đạo được gia đình phật tử toàn cầu, gia đình phật tử trên thế giới. Điều này là anh Bạch Hoa Mai làm Tổng thư ký Gia đình phật tử trên thế giới cần phải lưu ý. Nếu mình muốn điều khiển một gia đình phật tử toàn cầu thành công, mình phải hiểu được văn hóa, chính trị, luật pháp, tôn giáo của từng vùng, mà không phải chỉ hiểu Phật giáo không là đủ. Ví dụ ở xã hội Tây phương thì Thiên chúa giáo có gốc rễ như thế nào, Tin lành có gốc rễ như thế nào, Anh giáo có gốc rễ như thế nào, và ở các nước Trung đông, Indonexia, Malaysia… thì hồi giáo, có ảnh hưởng như thế nào và đức tin của quần chúng các nước đó đối với tôn giáo bản xứ như thế nào, mình phải nắm vững. Nắm vững và hiểu biết như vậy gọi là Thế giới tất đàn.

Và khi nắm vững niềm tin, kinh tế, chính trị, luật pháp,…của từng quốc gia như vậy, thì mình mới có thể chuyển tải được chất liệu Phật Pháp vào trong vùng đó. Và trong ngôn ngữ Phật giáo các anh/chị/em thường nghe là tùy duyên hóa độ. Tùy duyên để chuyển tải Phật Pháp vào. Nhưng tùy duyên mà không bị tiêu diệt, không bị biến thể là bởi vì mình có Đệ nhất nghĩa tất đàn, tức là tùy duyên mà bất biến. Tùy duyên mà không bị đánh rơi mục đích của mình.

Ban hướng dẫn của các châu lục cũng phải biết được cái toàn thể và cái chi tiết của từng vùng, từng khu vực mới có thể chuyển tải được Phật Pháp vào trong từng khu vực của mình, và trong sự chuyển tải Phật Pháp đó, mình có luôn cả tổ chức gia đình phật tử của mình. Mình muốn duy trì tổ chức gia đình phật tử thì phải duy trì cho được tinh thần của đạo Phật. Và mình duy trì được tinh thần đạo Phật thì mới duy trì được tinh thần tổ chức của các giáo hội. Và duy trì được tư tưởng, tinh thần tổ chức của các giáo hội, thì mình mới duy trì được đoàn thể của mình. Tùy theo mức độ quy định của các nội quy, quy chế của các hiến chương. Nếu đạo Phật không còn, thì các nhân danh tổ chức Phật giáo trở thành ra lộng ngôn mà thôi. Cho nên, phải hiểu thế nào là toàn thể, thế nào là từng vùng, mới ứng dụng được Đệ nhất nghĩa tất đàn vào trong đó. Cho nên, muốn ứng dụng được Đệ nhất nghĩa tất đàn thì phải hiểu và ứng dụng cho được Thế giới tất đàn.

Đó là Thầy nói một cách tổng quát. Bây giờ mình nói cụ thể hơn một chút về tổ chức gia đình phật tử.

Một gia đình phật tử theo như quý anh/chị/em đã biết, một liên đoàn trưởng nam hoặc liên đoàn trưởng nữ phải có liên hệ như thế nào với các đoàn trong gia đình của mình, phải biết các đoàn trưởng và đoàn sinh trong đơn vị của mình. Như thế nào gọi là biết? Đó là mình phải biết nhân, biết duyên, biết quả, biết báo, biết nghiệp của từng đoàn viên của mình. Cho nên, trong một đoàn oanh vũ nam hoặc oanh vũ nữ, một đoàn thiếu nam hay thiếu nữ, liên đoàn trưởng phải biết cho hết, từ đoàn trưởng cho đến đoàn sinh.

Hiểu như thế nào? Hiểu nhân, quả nghiệp báo của từng người, từng đoàn. Cái hiểu đó gọi là cái hiểu Thế gian tất đàn hay thế giới tất đàn. Rồi từ đó, mình chuyển tải được Phật Pháp vào trong họ và làm thay đổi nhân, duyên, quả báo của họ, từ thấp đến cao, từ mê đến ngộ, từ một người không dễ thương trở thành một người dễ thương, từ một con người tầm thường trở thành một con người cao quý. Việc làm như vậy, chính  Phật đã từng ứng dụng và thành công trên con đường hoằng pháp độ sinh của Ngài từ khi Ngài thành đạo tại Bồ Đề Đạo Tràng, chuyển pháp luân tại Lộc Uyển, cho đến khi nhập Niết bàn tại rừng cây Sala Song Thọ.

Ứng dụng Tứ tất đàn vào sự nghiệp hoằng pháp độ sanh, sự ứng dụng nầy là nét đặc biệt mà chỉ Đức Phật mới có, chỉ có đạo Phật mới có, các tôn giáo khác không có. Các anh/chị/em cũng đã thấy là trên bước đường truyền bá Phật Pháp, sau khi Đức Phật niết bàn rồi, các Tổ của mình cũng tiếp tục con đường đó, cũng bằng cách ứng dụng Tứ tất đàn trong sự nghiệp hoằng pháp. Và nhờ vậy, Phật giáo đã phát triển khắp cả ngũ hà Ấn Độ, rồi lan qua các nước phụ cận và trải dài cả toàn thể thế giới. Phật giáo đi đến đâu không có chiến tranh, không có hận thù; Phật giáo đi đến đâu thì đem lại hòa bình đến đó, xem quốc gia đó, vùng đất đó, như là đất nước của mình, quê hương của mình và mình có trách nhiệm làm sáng chói lên ở vùng đó, ở đất nước đó.

Vì vậy, Phật giáo không có xâm lăng và không cần mượn bất cứ một thế lực nào để phụ họa, để truyền bá chánh Pháp của Phật hết. Nên, các anh/chị/em cũng lưu ý là mình đừng có dựa quyền, dựa thế bất cứ ai hết, mà chỉ dựa vào tuệ giác của mình, dựa vào tâm bồ đề của mình, dựa vào tình thương của mình để mà hành đạo.

Nhờ dựa vào tâm bồ đề, nên Phật giáo không bị tai tiếng trên bước đường truyền giáo của mình, trong khi các tôn giáo khác thì dùng vũ lực, dùng súng đạn, dùng những thế lực chính quyền để truyền bá giáo lý của họ,  vì vậy nên đã gây ra những điều đáng tiếc cho xã hội con người. Những tôn giáo khác, họ nói họ làm đẹp cho xã hội con người, nhưng chính họ là gây ra những đáng tiếc cho xã hội con người. Trong lúc đó Phật giáo không có chuyện đó, Phật giáo không hề có chuyện truyền giáo dùng những thủ đoạn này thủ đoạn khác hay cậy thế, cậy quyền gì hết, Phật giáo cũng không đem tiền bạc để mua chuộc ai, mà cũng không đem quyền lực để mà quyến rũ hay áp đặt ai theo mình, mà chỉ đem đức độ của mình, đức độ của trí tuệ và từ bi để giúp đời mà thôi.

Tại sao Đức Phật làm được như vậy? Tại vì trí tuệ của Đức Phật hiểu rõ được Thế gian tất đàn và Ngài biết cần phải làm gì lúc này và ở đây; và lúc khác thì cần phải làm cái gì, nói cái gì cho ở đó. Khi trình độ của một người quá kém, thì mình cần phải nói cái gì cho họ, chứ không phải trình độ của một người quá kém, mà mình nói chuyện quá cao siêu với họ được. Vì vậy, quý anh chị em biết rằng, Đức Phật cấm đệ tử của ngài thuyết Pháp cho người đang đói. Đối với một người đang đói, thì trước hết mình phải cho họ ăn đã, chứ khi họ đang đói, mình thuyết Pháp thì họ làm sao mà nghe. Có đôi người không biết rằng, đối tượng nghe đang đói, mà cứ “đèo queo” thuyết pháp rằng: “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng đi, sẽ hết đói”. Nói như vậy là không thực tế. Cho nên người ta đói, mình phải nấu cơm cho người ta ăn, hay quyên góp tiền cho người ta để người ta ăn, khi họ ăn no rồi, mình mới nói Pháp cho họ. Người ta đói, mình nói Pháp làm sao họ nghe. “Cha chết không bằng hết gạo”. Cho nên, khi no rồi, người ta mới nghe được Phật Pháp, tiếp thu được Phật Pháp, hiểu được Phật Pháp, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống, để rồi từ đó họ tự lực đứng dậy và có khả năng bước tới sự cao quý hơn. Trong cuộc đời hoằng pháp, Đức Phật ứng dụng được như vậy là do ngài đã thấy rõ thế nào là chân lý của cuộc sống, thế nào là nhân, thế nào là duyên, thế nào là quả của mỗi người, của mỗi cộng đồng, của mỗi thời đại, nên Ngài đã ứng dụng Thế gian tất đàn vào trong con đường hoằng Pháp của ngài.

Bây giờ các anh/chị/em cũng vậy, muốn phát triển cho được tổ chức gia đình phật tử để đóng góp vào sự nghiệp hoằng Pháp của Phật giáo trên toàn thế giới nói chung, thì các anh/chị/em phải nắm vững Thế gian tất đàn và ứng dụng triệt để nó, thì mình sẽ thành công, thành công rất nhiều mặt và có thể đóng góp được sự có mặt của mình vào nơi thế giới mình đang hiện hữu.

Chắc chắn, các anh/chị/em đã thấy đạo Phật là một tôn giáo rất là vui, đầy ý nghĩa, và đầy sinh lực, vì nó không phải chỉ có gắn liền với xã hội người sống mà còn gắn liền với xã hội người chết nữa. Cho nên, trong đạo Phật không phải chỉ có cầu an mà còn có cả cầu siêu nữa. Cầu an cho xã hội người sống và cầu siêu cho xã hội người chết. Những tín ngưỡng, những tình cảm của người sống nghĩ về người chết, đều là những liên hệ đến xã hội hết.

Nếu xã hội chỉ nghĩ đến người sống thôi, những tiện nghi cho người sống thôi, còn người chết thì mình không lo cho họ, không nghĩ tới họ thì tình cảm của mình bị khuyết tật rất nhiều. Vì vậy, đạo Phật có một cái nhìn toàn thể, mình phải hiểu xã hội là một xã hội toàn thể của con người, bao gồm cả sống và chết, cả sinh và diệt. Còn nếu mình chỉ hiểu xã hội là những sinh hoạt của người sống không thôi, thì cái hiểu đó không có gì gọi là chánh kiến hết mà là tà kiến, phiến diện. Do cái hiểu biết phiến diện, nên mình hành xử không dễ thương, được cái này mất cái kia. Một hành động được một phía, mất một phía, sao có thể gọi là chánh nghiệp được.

Cho nên, mình phải có cái nhìn rất là chi tiết, rất thấu đáo, rất tổng thể thì khi đó, mình mới đóng góp được cho việc xây dựng một xã hội theo tinh thần Phật giáo, và mình mới có thể đóng góp cho tổ chức và duy trì cho tổ chức của mình đi theo tinh thần ấy. Cho nên, các anh/chị/em cố gắng, tuy đang ở vị trí của Ban hướng dẫn điều hành cấp thế giới, cấp quốc gia, cấp châu lục, thì cũng phải thực tế và phải nỗ lực cố gắng xây dựng cơ sở hạ tầng của mình. Bởi vì cơ sở hạ tầng là nền tảng để tiến tới cho những cái rộng lớn một cách vững chãi. Những cơ sở hạ tầng bị hỏng, thì cơ sở rộng lớn khó có thể tồn tại một cách vững chãi được.

Các anh chị em đã từng đọc kinh Bách Dụ, đức Phật đã đưa ra một ví dụ rất cụ thể về vấn đề này: có một người ở nông thôn lên thành phố, thấy người ta xây nhà lầu hai, ba tầng, anh ta cũng thích, khi về nhà quê, anh ta mới kêu mấy người thợ xây tới và đề nghị xây cho anh một cái nhà ba tầng. Người thợ nói là không thể xây được, vì muốn xây tầng ba thì phải mở móng đã, phải xây tầng một cho vững chãi đã, rồi mới đến tầng hai và tầng ba. Anh nông dân nói là anh chỉ đủ tiền xây tầng ba thôi và anh chỉ thích làm tầng ba mà không cần phải làm tầng hai, tầng một. Người thợ xây đành chịu. Không một người thợ nào, dù được đào tạo ở các trường kỹ sư siêu hạng đến cỡ nào cũng chịu, không thể xây được ngôi nhà ba tầng mà không có tầng một và tầng hai. Ngôi nhà ấy, chỉ có thể vẽ được trên giấy, vẽ được trên những ý niệm vọng cầu mà không bao giờ có thể thiết lập được trên thực tế.

Cũng vậy, cơ sở hạ tầng của mình mà yếu, không đủ tầm cỡ thì mình xây dựng cái gì trên đó cũng dễ sụp đổ. Chắc chắn điều này các anh các chị cũng đã thấy rồi và trong chuyến về nước vừa rồi, anh Mai cũng đã thưa với Thầy rằng, sự liên kết giữa thế hệ trước và thế hệ sau có một khoảng trống, khoảng trống đó là do cơ sở hạ tầng của mình yếu, các đơn vị sở tại của mình yếu. Đây là điều mà các anh chị em phải lưu ý, muốn xây dựng xã hội, chúng ta phải đi từ cái cơ bản, chứ đừng có tiến nhanh, tiến mạnh. Tiến nhanh, tiến mạnh nguy hiểm lắm. Mình phải đi từ cái vững chãi, cụ thể và thực tế.

Một đơn vị có thực là khi các thành viên có thực. Do đó, các thành viên của gia đình phật tử phải có những nền tảng, mà như Thầy đã từng giảng, đó là “Em tưởng nhớ Phật; Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em; Em thương người và vật”. Mình phải biến những chất liệu đó trở thành đời sống của mình, chứ không phải chỉ là những châm ngôn, những điều luật mà mỗi tuần mình tới đọc một lần là xong. Không phải như thế.

“Em tưởng nhớ Phật”, đó là phương pháp hành trì mà mình phải thực tập để Phật luôn luôn có mặt ở trong mình. Ban đầu thì mình tưởng Phật ở bên ngoài. Sau đó, nhờ Phật ở bên ngoài mà mình thấy Phật ở trong lòng mình. Cho nên, mình phải biến chất liệu tưởng nhớ Phật đó, thành đời sống của mình; đi mình cũng nghĩ tới Phật, đứng cũng nghĩ tới Phật, nằm cũng nghĩ tới Phật, ngồi mình cũng nghĩ tới Phật, ăn cũng nghĩ tới Phật, uống cũng nghĩ tới Phật; làm việc mình cũng nghĩ tới Phật, mà ngay cả chơi, mình cũng nghĩ tới Phật. Khi mà tất cả những hành hoạt của mình đều nghĩ tới Phật, thì những cái  xấu của tâm chúng sinh không có điều kiện, cơ hội để khởi lên trong hành động của mình. Và mỗi khi những cái xấu của chúng sinh không có điều kiện, cơ hội để khởi lên trong người mình, trong hành động của mình, thì những vi phạm về luật pháp, vi phạm về giới luật hoặc sống phóng túng, buông lung để tạo ra những rối rắm cho gia đình và xã hội là hoàn toàn không có. Đó mới là sự đóng góp cụ thể để xây dựng xã hội. Cho nên, Thầy mong rằng, tất cả các anh chị em phải có những giờ phút hướng dẫn cho các em ngồi yên để tưởng nhớ Phật. Tưởng nhớ Phật ở trong sự yên lắng và sâu sắc hơn.

Rồi “kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em”, thì mình phải cụ thể như thế nào, chứ không phải chỉ nói suông. Các em đi học phải thưa cha mẹ mà đi; khi đi học về phải thưa cha mẹ con đã đi học về. Đi học hay đi làm bất cứ công việc gì, con cái phải đem hình ảnh của cha mẹ đi theo. Đem theo hình ảnh cha mẹ tất bật, vất vả để lo cho con cái ấy, thì con cái mới thấy được cái tất bật, cái khó khăn ấy của cha mẹ để mà thương, mà quý. Khi đi về, con cái cũng phải nhớ hình ảnh cao quý của cha mẹ mà đi về với cha mẹ. Và mình phải thấy rằng, trong đời sống không có tình cảm nào quý bằng tình cảm anh chị em với nhau trong huyết thống; không có tình cảm nào quý bằng tình cảm anh chị em cùng lý tưởng với nhau trong ngôi nhà tâm linh, để mà nuôi dưỡng cái tình cảm đó. Khi đã có tình cảm rồi, mình thuận thảo với nhau rất là dễ; chị ngã em nâng; anh hư thì em làm cho anh trở lại đàng hoàng, em hư thì anh phải tìm cách giúp em mình trở lại đàng hoàng, đàng hoàng trong gia đình huyết thống cũng như gia đình tâm linh. Đức Phật đã nói mình sống với nhau phải biết “ẩn ác dương thiện”, nghĩa là những điều xấu của nhau, thì mình phải biết làm cho nó tiêu dần đi, hạn chế nó lại và những điều tốt của nhau, thì mình làm cho nó lớn dần lên, khuếch đại nó ra. Đó là một điều rất đẹp, tạo ra sự hóa giải về sự bất hòa. Còn nếu người ta chỉ xấu một chút, mà mình khuếch đại cái xấu ấy lên, trong khi người ta có rất nhiều cái đẹp, thì mình làm cho nó ẩn khuất đi, việc làm như vậy làm sao mà anh em dẫn đến thuận thảo với nhau được! Cả đời, người ta không ăn vụng, chỉ lỡ một lần đói bụng ăn vụng miếng đậu khuôn, mà mình cứ đem chuyện xấu đó nói hoài, bỏ qua hết tất cả những điều tốt của họ không nói. Cách sống với nhau như vậy, thì không thể nào đưa đến sự hòa thuận, thương yêu nhau được.

Vì vậy, người lãnh đạo phải là người có tâm lượng rộng lớn, bao dung, độ lượng; đối với bản thân thì luôn khắc kỷ, nghiêm túc; nhưng đối với người thì phải có tâm độ lượng hơn, bao dung hơn thì sẽ thành tựu. Trái lại, đối với người thì mình quá nghiêm khắc mà đối với mình thì quá buông lung; đối với người thì không chịu tha thứ mà lại rất dễ tha thứ cho bản thân, thì mình không thể trở thành một thành viên dễ thương ở trong một gia đình, để rồi trở thành một thành viên dễ thương, vững chãi ở ngoài xã hội được.

Cho nên, điều luật “kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em” cũng phải được hiểu cho sâu và thực tế, nhằm có thể áp dụng được, để tạo ra những con người dễ thương cho tổ chức gia đình phật tử, và những con người dễ thương đó sẽ liên kết lại với nhau để tạo ra một gia đình phật tử dễ thương, một tổ chức gia đình phật tử có thật. Có thật về thực chất, năng lực, có thật về phẩm tính. Và khi có quá nhiều phật tử dễ thương như vậy sẽ có tác dụng ảnh hưởng tốt tới xã hội và làm cho xã hội tốt đẹp.

Điều thứ ba: “em thương người và vật”. Như Thầy đã nói, xã hội Phật giáo đâu chỉ có con người không, mà bao gồm cả muôn loài và muôn vật. Vật ở đây là những loài vật thấp kém hơn mình và ngay cả môi trường thiên nhiên.

Cho nên Thầy nghĩ, ba châm ngôn của gia đình phật tử hay chính xác là ba điều luật của ngành Oanh không thôi đã là tuyệt vời rồi. Nó có một cơ sở rất vững chãi. Muốn thương người và vật thì phải biết thiết lập tình thương đó trên nền tảng của Phật, của Pháp, của Tăng; phải biết thiết lập tình thương đó từ nơi gia đình của mình, phải thể hiện sự hiếu kính cha mẹ và thuận thảo với anh chị em ngay trong gia đình của mình. Phải có điểm cơ bản nầy, thì mình mới đi tới chuyện thương người và vật được, mới nói chuyện bảo vệ môi trường, môi sinh được; mới nói chuyện không khí bây giờ bị nhiễm ô và cần phải bảo vệ để cho nó đừng có bị ô nhiễm được. Còn nếu mình coi cha mình không ra gì, mẹ mình không ra gì, gây gỗ với anh chị em trong gia đình, thì cơ sở đạo đức và hiểu biết nào để mình có thể nói tới chuyện bảo vệ môi trường, môi sinh, nói chuyện nhân loại, chúng sinh. Cho nên, chuyện mình thương chúng sinh có thể có được, thương mọi người có thể có được, có thể làm đẹp xã hội được, khi cơ sở mình đã có được.

Thực tập được chất liệu em tưởng nhớ Phật, em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em, lúc đó em mới có thể thương người và vật. Khi mình nói thương người và vật, thì mình có cơ sở bảo chứng, như ngân hàng phát tiền tệ ra, nhưng phải có kim ngân bảo chứng, nếu không có vàng để bảo chứng, thì tiền tệ lưu hành bị lạm phát. Cũng vậy, mình nói quá nhiều về tốt đẹp, về đạo đức, nhưng không có gì để bảo chứng, thì lời nói của mình không có tác dụng gì mà trở thành ra nói láo, vô ích. Đức Phật đã nói rằng, “Như lai là gì? Như lai nghĩa là những gì Như lai nói, thì Như Lai đã làm; những gì Như Lai đã làm, thì Như Lai mới nói”. Nhờ tính chất như thực đó, mà đạo Phật mới tồn tại. Đạo Phật tồn tại là nhờ tính chất như thật của nó.

Và Thầy nhắc lại, các anh chị em đừng có lo về sự suy đồi của đạo Phật, vì đạo Phật không bao giờ suy đồi, chân lý làm sao có chuyện suy đồi được. Suy đồi là do đức tin của người con Phật đối với Phật không đúng, tin sai, do tin sai nên người ta hiểu nhầm đó là đạo Phật, chứ chân lý thì không bao giờ có sinh có diệt, có thăng trầm. Chỉ có căn cơ con người, trình độ con người có thăng có trầm, có đúng có sai mà thôi.

Mình phải thực tập để có chất liệu Phật Pháp thực sự để ứng dụng được những gì đức Phật đã dạy, lúc đó mình nói thì người khác mới nghe. Chẳng hạn, Thầy nói các anh chị em đừng ăn thịt, cá, hãy ăn chay đi, mà Thầy lại ăn mặn,  ăn thịt cá, thì làm sao Thầy nói chuyện ăn chay với các anh chị em có hiệu quả được. Hay bản thân Thầy lúc nào cũng hút thuốc, thì việc Thầy khuyên các anh chị em đừng hút thuốc trở nên vô ích, vì lời khuyên ấy chẳng ai nghe, thì nói làm gì. Cũng như có người nói rằng “xã hội đừng nên tham nhũng” nhưng bản thân người nói lại tham nhũng thì thà đừng nói còn hơn, cứ im lặng mà ăn thì người ta còn thông cảm, còn mình cứ nói giọng đạo đức, mà lại sống phi đạo đức, thì không ai tin, mà lại trở thành bị châm biếm và xã hội từ đó mà rối loạn.

Vậy nên, muốn nói về Tứ tất đàn có ý nghĩa, thì trước hết mình phải có đời sống trí tuệ và từ bi, phải thực tập lời Phật dạy một cách thực sự. Và Thầy xin nhắc lại là mình đừng quá lo về sự suy đồi của đạo Phật. Đạo Phật không có chuyện bị suy đồi. Chánh pháp không có chuyện bị suy đồi. Cái bị suy đồi thì không thể gọi là chánh. Suy đồi là do căn cơ, trình độ, nghiệp lực của chúng sinh thấp kém. Có nhiều người sợ đạo Phật suy đồi, nên cố gắng làm tôi mọi cho thế lực này, thế lực khác để mong đạo Phật được hưng vượng. Cơ sở đã sai, làm sao tồn tại được! Cho nên, Phật tử phải giữ khí tiết của mình.

Vì vậy, khi mình hiểu được Thế giới tất đàn, hiểu được Đệ nhất nghĩa tất đàn đi từ đâu, mình mới biết các bậc tiền bối trong gia đình phật tử có một tuệ giác tu học về Phật Pháp rất lớn, rất vững chãi; có một công trình tu luyện và thâm tín đối với Tam Bảo và yêu quý tổ chức của mình rất nhiều, mới rút ra được những cốt tủy để tạo nên những châm ngôn và điều luật cho gia đình phật tử như thế..

Châm ngôn có đó, điều luật có đó. Có những người thực hiện tốt, có những người thực hiện chưa tốt, có những người dường như không chịu thực hiện, nhưng vẫn nói mình là Phật tử. Nếu chúng ta là thuộc tổ chức gia đình phật tử, thì chúng ta phải hiểu cho rõ những thành phần như vậy, để có thể đưa họ đi về với ý nghĩa chính đáng.

3- Ứng dụng Tứ tất đàn vào ba điều luật:

Nhân đây, Thầy sẽ nói về mối liên hệ của ba điều luật ngành Oanh, liên hệ đến Tứ tất đàn.

Thứ nhất, “em tưởng nhớ Phật” là Đệ nhất nghĩa tất đàn, vì nó là thuộc về niềm tin. Hễ là người tin Phật thì sẽ nói Phật là “số một”, điều đó không có gì ngạc nhiên cả. Tôi tin Phật thì Phật của tôi là số một. Chứ đừng vì ngôn ngữ xã giao, đi đến chỗ khác thì nói “chúa mới là số một, còn Phật của tôi là số hai” để có cơm áo, để được mời vào phòng ngồi, để xã giao với ngoại đạo là không đúng. Thế gian tất đàn như vậy là hỏng! Như vậy là đã đánh mất mục tiêu của mình. Cho nên một người tin Phật nói rằng “Phật của tôi là số một” thì không ai cho đó là nói ngoa hết. Nói như vậy là đúng, đúng với người tin Phật! Còn nếu tin Phật mà nói “Phật số hai, chúa số một” thì người ta sẽ cho là mình nói xạo. Không ai tin Phật mà cho Phật là số hai. Nếu Phật là số hai thì tin làm gì, sao không đi tin chúa! Cho nên, em tin Phật thì Phật của em là số một! Đó là đệ nhất nghĩa tất đàn về niềm tin.

Và trong Đệ nhất nghĩa tất đàn này có cả ba tất đàn còn lại để yểm trợ cho nó. Nên, em tin Phật, em tưởng nhớ Phật là Đệ nhất nghĩa tất đàn. Biết như vậy thì mình phải làm gì? Mình phải dùng Đối trị tất đàn để đưa em đó đi về với niềm tin Phật, với “tưởng nhớ Phật”. Mình phải ứng dụng Vị nhân tất đàn để biết được cá tính của mỗi người nhằm đưa em đó đi về với niềm tin “Phật là số một”. Nếu em nghĩ rằng khoa học là số một mà Phật không phải là số một, thì mình phải sử dụng Các các vị nhân tất đàn để làm cho em thấy khoa học chưa phải là số một. Ví dụ, vào thế kỷ 18 khoa học mới phát minh ra kính hiển vi, mới có khái niệm về vi trùng học, thế mà 26 thế kỷ trước, đức Phật đã nói trong ly nước có vô số vi trùng. Khoa học chỉ là kiểm chứng lại những gì đức Phật đã nói, nên trí thức của khoa học không thể sánh bằng với tuệ giác giác ngộ mà đức Phật đã chứng nghiệm được. Và các nhà khoa học chỉ thấy được vi trùng thông qua các dụng cụ thí nghiệm mà không phải bằng mắt thường, trong lúc đó, Phật không cần dùng bất cứ một thí cụ khoa học nào cả, Ngài nói bằng tuệ giác, bằng sự chứng ngộ trực tiếp. Nên trí thức khoa học không thể so sánh với Phật được. Mình phải chứng minh cho rõ điều đó. Việc chứng minh như vậy là Vị nhân tất đàn, để đưa họ đi về với Đệ nhất nghĩa tất đàn: là niềm tin Phật. Và để chứng minh được, mình phải biết sử dụng ngôn ngữ khoa học, biết diễn tả các dụng cụ khoa học, biết ứng dụng kiến thức khoa học. Ngôn ngữ khoa học phải là ngôn ngữ cụ thể, có chứng minh hẳn hoi, chứ không phải là ngôn ngữ của thi ca hay triết học. Mình phải biết rõ và ứng dụng Thế gian tất đàn vào điều đó, để đưa điều đó đến Đệ nhất nghĩa tất đàn.

ảnh: Trại Dũng-Gdpt Đức Chơn

Đối trị tất đàn cũng vậy. Nếu người ta không có niềm tin đối với Phật mà chỉ có niềm tin đối với khoa học, thì trước hết mình thuận theo họ, mình nói về niềm tin khoa học, rồi sau đó chuyển niềm tin khoa học nơi đối tượng cần giáo hóa đó đi về với niềm tin của Phật. Bởi vì niềm tin khoa học, dù là giỏi đến mấy, cũng vẫn còn nằm trong dục giới, sắc giới, vô sắc giới mà thôi, chưa thoát ra được ba cõi ấy, chỉ có niềm tin Phật mới thoát ra được luân hồi sinh tử, thoát ra khỏi sinh-già-bệnh-chết. Một nhà khoa học dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thoát khỏi cái bị sinh, bị già, bị bệnh, bị chết. Mình phải chứng minh như vậy, để đưa người có niềm tin khoa học đi tới với niềm tin Phật một cách rốt ráo.

Điều luật thứ hai là “em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em”. Đây là căn bản và mục đích đạo đức con người ở mặt huyết thống. Từ căn bản đạo đức huyết thống đó mà liên kết với nhau, tiến tới hình thành đạo đức xã hội. Tôn giáo cũng thiết lập trên nền tảng đạo đức này. Không có tôn giáo nào trên thế giới khuyến khích con cái hỗn xược và bất hiếu với cha mẹ. Cũng không có tôn giáo nào kích động anh em trong nhà gây chiến và bất hòa với nhau. Nếu người nào bất hiếu với cha mẹ, bất hòa với anh chị em, người đó sẽ không có mặt ở nơi cảnh giới mà các tôn giáo đề cao. Vì vậy, như ngài Long Thọ nói, trong mỗi tất đàn đều có đầy đủ cả ba tất đàn kia, nên ta biết rằng : trong điều luật “ em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em” của GĐPT, cũng có đầy đủ cả Tứ tất đàn.

Mục đích là mình muốn dạy cho các em về đạo đức huyết thống, thì mình phải đề cao sự kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em. Đề cao như vậy, được xem như là Đệ nhất nghĩa tất đàn. Rồi mình phải làm như thế nào để các em kính mến cha mẹ ? Ví dụ mình nói rằng: “công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Cách nói ấy là Vị nhân tất đàn hay là Đối trị tất đàn, hay Thế gian tất đàn để đưa các em đi đến mục tiêu là kính mến cha mẹ, thuận thảo với anh chị em. Và mục đích của sự kính mến, thuận thảo này là gì? Là tạo ra được sự bình ổn của đạo đức gia đình và sự bình ổn của đạo đức xã hội. Nhưng, tạo ra sự bình ổn đạo đức gia đình và xã hội để làm gì? Để từ nơi đó mà thực hành chánh nghiệp, để đi tới với Phật đạo.

Do vậy, từ nơi châm ngôn “em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em” vẫn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, tùy theo mức độ hướng dẫn mà mình nâng nó lên.

Thứ ba là “em thương người và vật”. Đệ nhất nghĩa tất đàn ở đây là các vị Bồ Tát luôn luôn rải lòng từ bi, thương người, thương vật, thương hết thảy chúng sinh. Như Thầy đã nói, xã hội Phật giáo bao trùm hết thảy lục đạo chúng sinh; bao gồm dục giới, sắc giới và vô sắc giới, chứ không phải chỉ bao gồm ở nơi xã hội loài người nhỏ bé này. Nếu chỉ nhìn vào xã hội nhỏ bé này để hướng đến giải quyết các vấn đề xã hội, thì không bao giờ giải quyết thành công được. Vì thế, muốn giải quyết các vấn đề của xã hội con người, ta phải tiến tới để có một cái nhìn phi xã hội con người. Khi đã hiểu rõ những cái phi xã hội con người, thì ta mới có thể hiểu được xã hội con người. Phải hiểu như thế thì mới có thể thương người và thương vật được.

Khi một người đã thương người rồi, thương vật rồi, thì lẽ đương nhiên họ có thể tiến tới thương các bậc thánh, thương Phật và kính trọng Phật, đặt đức tin vào nơi đức Phật. Thương vật, nghĩa là thương những loài vật có phước báo kém hơn loài người. Vì sao mà thấp kém? Vì do nhân, duyên, quả của nó thấp kém, nên phải chịu nghiệp báo thấp kém như vậy. Do đó, mình thương nó, chăm sóc nó và tạo cơ hội cho nó có điều kiện để tiến lên. Đó là tinh thần của Bồ Tát, mà các bậc tiền bối của chúng ta đã đưa vào trong châm ngôn thứ ba này một cách rất nhẹ nhàng, lại rất sâu thẳm, nhưng vô cùng thực tế.

Khi một em oanh vũ không bẻ cành hoa, ép vào trong sách của mình để làm của riêng, thì em đó đã biết bảo vệ loài vật rồi, đã biết thương người thương vật rồi. Bởi vì vườn hoa là của chung, mình không thể đi tới chậu hoa hay vườn hoa để ngắt hoa ép vào vở của mình, làm như vậy là mình không thương vật, cũng không thương người, vì người trồng hoa rất vất vả, người bảo vệ hoa cũng rất vất vả, mà hoa cũng rất vất vả để có thể lớn lên và trổ hoa, mình ngắt hoa ép vào vở, chứng tỏ là mình đã không thực tập điều thứ ba này một cách thấu đáo, một cách thực tế, một cách sâu sắc, một cách toàn diện. Và các em thực tập, phát huy được điều này, thì các em không bao giờ đi bắt chuồn chuồn, ngắt cánh rồi thả cho chuồn chuồn bay. Chuồn chuồn bị ngắt cánh làm sao mà bay! Do đó, từ thương một con vật nhỏ, một đóa hoa nhỏ như thế mà tâm từ bi của mình lớn lên. Khi tâm từ bi lớn lên thì mình sẽ không giết hại ai. Loài vật mà mình còn thương, còn bảo vệ; một đóa hoa rừng, mình cũng không làm thương tổn, thì làm sao mình có thể làm thương tổn con người. Con người mình còn không làm thương tổn, thì làm gì có chuyện mình làm thương tổn cha mẹ, thầy bạn, anh chị em của mình! Khi mình không làm thương tổn ai, chính là mình đã có ý thức bảo vệ sự sống, đã thực tập một cách viên mãn giới không sát sanh của người Phật tử.

Và khi đã thương rồi, mình sẽ bảo vệ, chứ không ăn trộm của người ta. Thấy của rơi, nhặt được, mình đem trả lại. Cho nên, một người đã thực sự thương, có chất liệu của trí tuệ, của từ bi, người đó không bao giờ đi ăn trộm của ai. 

Rồi mình thương mọi người, thương mọi loài, mình sẽ không nở làm tổn hại đức hạnh của họ, đâu nỡ làm tổn hại tiết hạnh của người ta. Mấy anh chị em mà thương quý nhau, tôn trọng nhau thì không bao giờ có chuyện lăng nhăng với nhau để tình cảm trở nên thấp kém, mù lòa, hư hỏng dẫn đến những hành động tệ hại gây tan rã hạnh phúc gia đình người khác và làm tan nát nhân cách của chính mình. Từ đó mà giữ được giới không tà hạnh.

Khi mình đã thực tập và biết thương người và vật, mình sẽ không nói láo. Mình ghét người ta thì mới nói láo với họ cho bỏ ghét, chẳng hạn, có người hỏi “nhà bác A ở đâu”, mình biết, nhưng vì ghét, nên mình nói nhà bác A không có ở đây, để họ đi tìm loanh quanh cho bỏ ghét. Vì do ghét, do thù hận mà nói láo, do vô minh mà nói láo, do tham dục mà nói láo; chứ còn do tình thương chân thật, thì không đời nào mình nói láo hết, mà trái lại, khi người ta hỏi, mình còn bày vẽ cặn kẽ nữa.

Khi “đã thương người và vật”, mình sẽ không uống rượu say. Vì sao? Nhìn vào ly rượu, mình thấy có biết bao nhiêu lúa gạo, bao nhiêu bông hoa, bao nhiêu nho, bao nhiêu thảo dược… đã bị nghiền nát thành rượu để mình uống, bao nhiêu công nhân đã lao tác để tạo nên chén rượu cho mình uống. Vì thế, nhìn vào ly rượu, mình thương bao nhiêu người đang đói nghèo cần đến những thứ tạo nên rượu đó. Nếu mình nhìn ly rượu mà không thấy được những thứ đã tạo nên ly rượu thì không đời nào mình thương người và vật một cách có ý nghĩa. Do thấy được như thế, nên mình giữ được giới không uống rượu một cách thoải mái.

Mình giữ giới được là nhờ mình có cái nhìn sâu, nhờ có trí tuệ, nhờ có tình thương. Còn nếu thiếu trí tuệ, thiếu tình thương, thiếu sự thiền quán sâu sắc, thì chuyện giữ giới là khó. Khi một người không giữ giới sát sanh, không giữ giới trộm cắp, không giữ giới nói láo, không giữ giới tà dâm, không giữ giới uống rượu, thì làm sao người đó có thể đóng góp sự có mặt của mình cho sự xây dựng một xã hội tốt đẹp được, và làm sao đem lại hạnh phúc cho gia đình, cho xã hội được.

Vì lẽ đó, muốn xây dựng được một xã hội tốt đẹp, mình phải hiểu Tứ tất đàn và ứng dụng tứ tất đàn đó vào trong mọi lãnh vực sinh hoạt của xã hội.

Như vậy là Thầy đã trình bày xong phần “ứng dụng tứ tất đàn vào sinh hoạt xã hội và chuyển hóa xã hội theo tinh thần Phật giáo”.

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác