Nguyên Minh

hình minh
họa: biểu tượng tri thức
Không hề có
một “cái ta” tồn tại độc lập với thế giới chung quanh! Phát biểu này có thể gây sốc đối với nhiều người, và có vẻ như rất
khó tin nhận đối với đại đa số.
Tuy nhiên, bằng những phân tích chính xác và khách quan, chúng
ta phải thừa nhận đó là một sự thật. Và việc khám phá sự thật này phải
được xem là một trong những thành quả vĩ đại nhất của
trí tuệ con người.
Nếu như những khám phá của Newton hay Einstein có khả năng tạo ra sự thay đổi
lớn lao trong thế giới vật chất quanh ta, thì sự nhận biết về bản chất cấu thành
thực sự của mỗi chúng sinh dẫn đến phá vỡ quan niệm chấp ngã kiên cố sẽ có công
năng giải thoát chúng ta khỏi mọi phiền não và khổ đau trong đời sống tinh thần.
Đơn giản chỉ vì mọi phiền não và khổ đau của chúng ta đều bắt nguồn từ sự chấp
ngã, nghĩa là tin chắc rằng có một bản ngã, một “cái ta” luôn tồn tại độc lập
trong mối quan hệ với thế giới quanh ta.
Do quan niệm chấp ngã, chúng ta đã không ngừng tìm mọi cách để bảo vệ “cái ta”,
chống lại mọi khuynh hướng mà ta cho là có thể gây tổn hại cho “cái ta” đó. Ta
cũng không ngừng nỗ lực để xây dựng, vun đắp cho “cái ta” của riêng mình được
nổi trội hơn, tốt đẹp hơn so với “người khác”. Chính vì vậy, một khi “cái ta” đó
bị xâm hại hay tổn thương, ta cảm thấy như đó là chính ta đang bị hại, và khi
“cái ta” đó chịu sự hư hoại tan rã theo luật vô thường,
ta rơi vào khổ đau cùng cực vì sự bám chấp cho đó chính là tự thân mình. Và tất cả những điều đó đều là ảo tưởng, vì chúng dựa trên một nhận
thức hoàn toàn không đúng thật.
Việc quay về quán chiếu tự thân để thấy được cái gọi là “ta” vốn chỉ là một hợp
thể của 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) sẽ giúp ta buông bỏ được những
định kiến sai lầm tai hại từ lâu nay vẫn luôn thôi thúc ta có những tư tưởng,
lời nói và hành vi xấu ác, tạo nhiều ác nghiệp. Hơn thế nữa,
khi quán chiếu sâu hơn về 5 uẩn, chúng ta còn thấy được rằng cả 5 uẩn đó tự
chúng cũng không hề có bất kỳ một thực thể bền chắc chân thật nào.
Chính vì vậy mà không có gì để “cái ta” có thể nương dựa hay bám víu vào đó cả.
Và sự thấu suốt về tính chất không thật, giả tạm của 5 uẩn sẽ giúp ta dứt trừ
được mọi khổ đau và nguyên nhân gây khổ đau. Trong Tâm kinh Bát-nhã đề
cập rất đầy đủ về ý nghĩa này:
“Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thiết khổ ách.”
Tạm dịch:
“Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu xa pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa liền thấy rõ
được cả năm uẩn đều là không, [nhờ đó] vượt qua được mọi sự khổ ách.”
Nghĩa không ở đây không nên hiểu như là sự trống không, chẳng
có gì, mà cần hiểu như đã trình bày ở một đoạn trên là “không hề có một thực thể
bền chắc, chân thật”. Nhiều người do hiểu sai về nghĩa không được dùng
trong kinh điển Phật giáo nên đi đến nhận thức sai lầm rằng đạo Phật bi quan yếm
thế hay phủ nhận mọi sự hiện hữu. Trong thực tế, những kết quả có được từ sự
quán chiếu sâu xa trong đạo Phật bao giờ cũng là chân thật, đúng đắn, và vì thế
luôn có khả năng dẫn dắt chúng ta đi theo
con đường sáng suốt nhất.
Đạo Phật không hề phủ nhận mọi sự hiện hữu, mà chỉ nhìn sâu
vào để thấy rõ được bản chất thực sự của mọi sự vật, hiện tượng. Nhờ vào
sự quán chiếu sâu xa và chân thật mà về mặt cấu thành, ta có thể thấy rõ là toàn
bộ thế giới hiện tượng đều chịu sự chi phối của lý nhân duyên; về mặt vận hành
thì tất cả đều tuân theo luật nhân quả; và về mặt bản chất thì tất cả đều là vô
thường, không có thực thể độc lập, tự tồn tại.
Đó là những nguyên lý khái quát bao trùm tất cả, và chỉ thông
qua việc nắm hiểu những nguyên lý này ta mới có thể nhận thức được một cách đúng
đắn, chân thật về thế giới hiện tượng cũng như về chính bản thân mình.
Khi nhận biết đúng thật như vậy, chúng ta không vì thế mà chối
bỏ thế giới hiện tượng đang hiện hữu đối với các giác quan của ta. Tuy
nhiên, ta sẽ không chỉ quan sát chúng bằng vào những cảm nhận vốn là không thật
của các giác quan, mà còn phải sử dụng đến tuệ giác quán chiếu để nhìn sâu vào
bản chất thực sự của chúng. Chính nhờ đó mà ta mới có được khả
năng hóa giải mọi sự chi phối, tác động của thế giới hiện tượng.
Giống như khi ta xem một người làm ảo thuật, nếu không hiểu biết gì về ảo thuật
ta sẽ thấy những gì xảy ra đều là thật, như lửa cháy, chim bồ câu bay lên, dao
đâm xuyên qua cổ họng người... Khi hiểu được thực chất của vấn đề, tuy vẫn nhìn
thấy giống như mọi người khác, nhưng ta biết rõ đó chỉ là trò ảo thuật, rằng
những gì ta nhìn thấy chỉ là một kiểu ảo giác được tạo ra bằng một cách nào đó
để đánh lừa các giác quan của ta... Như vậy, ta sẽ không hốt hoảng khi nhìn thấy
lửa cháy, không khiếp sợ khi nhìn thấy con dao đâm xuyên qua cổ họng người...
Trong cuộc sống cũng vậy, nếu ta bám chấp vào bản ngã và không thấy được tính
chất vô thường, nhân duyên tan hợp của thế giới hiện tượng, không hiểu được lý
nhân quả đang tự nhiên vận hành, ta sẽ liên tục quay cuồng vì chịu sự thôi thúc,
cuốn hút của mọi sự vật, hiện tượng quanh ta... Ngược lại, với một cái nhìn sáng
suốt và thấu đáo về bản chất thực sự của bản thân mình và thế giới chung quanh,
về sự vận hành tự nhiên của toàn bộ thực tại này, ta sẽ luôn có được sự sáng
suốt và an ổn, không chịu sự chi phối, cuốn hút bởi những gì diễn ra quanh ta.
Nhận thức chân thật về thế giới quanh ta là thấy được tất cả sự vật, hiện tượng
đều do nhân duyên kết hợp mà thành, dẫn đến hệ quả là tất cả đều vô thường, liên
tục biến đổi, không bền chắc và nhất thiết phải trải qua các tiến trình sinh -
diệt hay thành - hoại. Mặc dù vậy, toàn bộ thế giới đang hiện
hành này là thật có đối với các giác quan của chúng ta.
Và vì thế, ta không thể ứng xử với chúng như những thứ không
thật có.
Chẳng hạn, trước khi đi ra giữa trời nắng nóng, bạn cần một chiếc mũ để đội lên
đầu chứ không phải thứ gì khác, và việc có hay không có chiếc mũ là hai sự thật
khác nhau, dẫn đến những kết quả khác nhau. Do đó, bạn không thể phủ nhận sự tồn
tại của chiếc mũ trong thế giới vật chất.
Nhưng nếu bạn không thấy được bản chất thực sự của chiếc mũ là do các nhân duyên
hợp thành, là vô thường, luôn biến đổi và chắc chắn rồi sẽ hoại diệt, thì bạn sẽ
có thể phụ thuộc rất nhiều vào chiếc mũ. Khi ai đó làm hỏng
hoặc lấy mất nó, bạn sẽ bực tức hoặc buồn phiền vì sự mất mát. Nếu sự hư
hỏng hay mất mát đó đã là một sự thật, thì sự bực tức hay buồn phiền của bạn chỉ
là một phản ứng hoàn toàn vô ích và trong thực tế là có hại.
Chúng ta cần phải nhận thức về chiếc mũ như một đối tượng thực
sự tồn tại trong thế giới quanh ta, với những công năng và thuộc tính cá biệt
của nó, vì đó là một sự thật. Ta cần phân biệt chiếc mũ với những thứ
khác như đôi giày, chiếc áo... Khi đi ra nắng thì ta cần tìm chiếc mũ chứ không
thể thay nó bằng đôi giày hay chiếc áo...
Vì thế, đạo Phật không hề phủ nhận điều đó, nhưng gọi loại sự thật này là Tục đế,
nghĩa là sự đúng thật chỉ trong phạm vi thế tục, hay thế gian. Nói cách khác, trong đời sống thế gian, ta vẫn phải nhận hiểu chính
xác về mọi sự vật, hiện tượng bằng loại sự thật này.
Các định luật về vật lý, hóa học, cơ học... đều thuộc phạm trù Tục đế.
Nhưng bản chất thực sự của chiếc mũ vẫn cần được nhận biết như một hợp thể do
nhân duyên cấu thành, luôn biến đổi và sẽ hoại diệt, vì
đây cũng là một sự thật. Loại sự thật này có ý nghĩa sâu xa hơn, phổ quát hơn
nên được gọi là Đệ nhất nghĩa đế hay Chân đế, và cũng được xem là sự thật tuyệt
đối để phân biệt với Tục đế chỉ được xem là sự thật tương đối.
Khi phân tích ở phạm trù tương đối, mỗi một hiện tượng, con người hay sự vật cá
biệt đều sẽ có những thuộc tính và công năng khác biệt nhau, như chiếc mũ của
bạn sẽ có màu sắc, kích thước, tính chất không hoàn toàn giống với những chiếc
mũ của người khác... Sự khác biệt này là thuộc phạm trù Tục đế.
Ngược lại, khi phân tích ở phạm trù tuyệt đối thì về bản chất mọi chiếc mũ đều
như nhau, vì chúng đều do các nhân duyên giả tạm hợp thành, luôn biến đổi theo thời gian và cuối cùng sẽ hư hoại. Không những thế, đây
còn là bản chất của mọi pháp hữu vi, tức là mọi pháp có
hình tướng. Và bản chất tương đồng phổ quát này là thuộc phạm
trù Chân đế.
Khi xét theo Chân đế thì không những mọi sự vật, hiện tượng đều giống nhau về
bản chất vô thường, mà chúng cũng không hề có một thực thể độc lập, tự tồn tại,
bởi sự sinh khởi của chúng đều có tương quan, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, sự vật
khác... Sự phụ thuộc lẫn nhau trong thế giới hiện tượng khiến cho mỗi một sự vật,
hiện tượng đều không thể tự chúng sinh khởi hay tồn tại, hay nói cách khác là
chúng không hề có một thực thể chân thật, tự tồn.
Chính trong ý nghĩa này mà Tâm kinh Bát-nhã đã dạy rằng: “Sắc tức thị không,
không tức thị sắc.” Cho đến các uẩn khác là thọ, tưởng, hành và thức cũng đều như vậy.
Và khi năm uẩn đều là không, thế giới hiện tượng cũng là không
- trong ý nghĩa không hề có một thực thể chân thật, tự tồn - thì bản thân “cái
ta” vốn được xem là chủ thể nhận thức cũng không dựa vào đâu để có thể là thật
có và bền chắc.
Từ những phân tích trên, một nhận thức chân thật, chính xác về
thế giới quanh ta cũng như về chính bản thân ta luôn phải bao gồm hai lớp ý
nghĩa. Đó là sự thật tương đối hay Tục đế và sự thật tuyệt đối hay Chân
đế.
Nhờ hiểu rõ thế giới quanh ta bằng Tục đế, ta luôn có khả năng
ứng xử thích hợp với từng hoàn cảnh, nhận biết đúng về từng sự vật để có thể vận
dụng một cách thích đáng trong việc làm lợi ích cho bản thân và người khác.
Nhờ hiểu rõ thế giới quanh ta bằng Chân đế, ta sẽ thoát khỏi được sự chi phối,
cuốn hút hay thôi thúc vốn sinh khởi từ những hiện tượng hay sự vật quanh ta,
luôn nhận biết đúng thật về bản chất của chúng mà không có những sự tưởng tượng
hay thêu dệt, phóng chiếu của tâm thức lên hiện tượng hay sự vật.
Lấy ví dụ, khi ta nhìn thấy một chiếc xe tay ga đời mới với dáng vẻ thật đẹp đẽ và lôi cuốn. Về mặt
Tục đế, ta nhận hiểu rõ công năng của chiếc xe, đánh
giá được về dáng vẻ, màu sắc cũng như những thông số về tốc độ, sức mạnh, mức
tiêu thụ nhiên liệu, độ bền... của nó và có thể so sánh với chiếc xe ta đang
dùng hoặc những chiếc xe khác nữa. Ta có thể biết rõ loại xe
mới này có những ưu điểm nào và việc sử dụng nó sẽ mang lại những hiệu quả tốt
hơn như thế nào...
Tuy nhiên, về mặt Chân đế ta cũng đồng thời nhận biết rõ bản
chất vô thường, giả hợp và không bền chắc của nó. Ta biết nó cũng chỉ là
một chiếc xe
như bao nhiêu chiếc xe khác và không thể mãi mãi xinh đẹp, hấp dẫn như hiện nay
ta đang nhìn thấy.
Với sự hiểu biết đầy đủ về cả hai lớp ý nghĩa tương đối và tuyệt đối, ta sẽ có
một phản ứng đúng đắn và thích hợp khi tiếp xúc với chiếc xe.
Nếu việc mua xe là đáp ứng với những nhu cầu thực sự cần thiết trong cuộc
sống của ta, chẳng hạn như giúp ta di chuyển nhanh hơn, thoải mái hơn, ít tiêu
hao nhiên liệu hơn... và ta hiện có đủ tiền dành cho việc mua xe, ta sẽ quyết
định mua nó. Ngược lại, nếu xét thấy chiếc xe đang dùng
cũng đáp ứng được đầy đủ những nhu cầu của mình, hoặc xét thấy mình chưa có đủ
khả năng tài chánh, ta sẽ bỏ qua việc mua xe mà không có gì bận tâm đến nó.
Trong trường hợp chúng ta không nhận hiểu được bản chất thực sự của chiếc
xe, nghĩa là thiếu đi lớp ý nghĩa tuyệt đối, ta sẽ có
thể khởi sinh những cảm xúc, tư tưởng hoặc hành vi không thích hợp. Chẳng hạn,
do quá ham thích vẻ đẹp vốn là giả tạm của chiếc xe, ta quyết định mua nó trong
khi điều đó là không thực sự cần thiết cho công việc hay cuộc sống; hoặc có thể
ta không đủ tiền mua nhưng vẫn quyết định vay mượn bạn bè để mua, và điều đó dẫn
đến nhiều hệ quả bất lợi, khó khăn về sau. Thậm chí, trong trường hợp ta không
mua được chiếc xe vì không đủ khả năng, ta vẫn có thể
bị nó làm khổ vì sự khao khát, thèm muốn thôi thúc trong lòng ta, và điều đó
khiến ta không thể sống một cách an vui, thanh thản.
Lấy một ví dụ khác, khi ta tiếp xúc với một người nào đó, ta cần hiểu rõ về hình
dáng, năng lực, tính tình... của người ấy trong mối quan hệ so sánh với những
con người khác, nhưng đồng thời ta cũng phải nhận biết rằng, về bản chất thực sự
thì con người đó chỉ là sự giả hợp của năm uẩn, mang tính vô thường, luôn biến
đổi và không có một thực thể tự tồn tại.
Nhờ hiểu biết đúng thật về năng lực, tính tình... (Tục đế) ta sẽ có thể giao
tiếp với con người đó một cách hiệu quả, có thể giúp đỡ họ hoặc nhờ cậy họ làm
những công việc thích hợp... Nhưng đồng thời, nhờ hiểu biết đúng thật về bản
chất thực sự (Chân đế), ta sẽ loại bỏ được những định kiến như ưa thích, ghét bỏ,
đố kỵ... đối với người đó; ta cũng không sinh khởi những cảm xúc sai lầm đối với
người đó như là mê đắm, thèm muốn hay ganh tỵ...
Qua những ví dụ nhỏ như trên, ta có thể thấy được ý nghĩa của
một nhận thức chân thật là quan trọng như thế nào đối với cuộc sống của chúng ta.
Chắc chắn là sự nhận biết đúng thật và đầy đủ về thế giới quanh ta sẽ luôn giúp
ta giảm nhẹ rất nhiều sự bực tức hay buồn phiền, khổ đau trong cuộc sống.
Mặt khác, đối với chính bản thân ta thì việc nhận thức đúng
thật và đầy đủ cũng vô cùng quan trọng. Về mặt Tục đế,
ta cần nhận biết đúng về năng lực, vai trò và trách nhiệm của bản thân ta trong
xã hội, vì điều đó giúp ta có những tư tưởng, hành vi hay lời nói thích đáng,
mang lại lợi ích cho bản thân và mọi người quanh ta.
Nhưng đồng thời về mặt Chân đế, ta cũng phải nhận biết rõ rằng cái gọi là “ta”
đó chẳng qua chỉ là sự giả hợp của năm uẩn, mà tự thân các uẩn đó cũng không hề
có sự bền chắc chân thật. Điều này sẽ giúp ta dần dần loại bỏ được những cảm xúc
tiêu cực như tham muốn, sân hận, ghen ghét, đố kỵ... vì tất cả những cảm xúc này
đều sinh khởi dựa trên căn bản chấp ngã, nghĩa là tin rằng có một “cái ta” chắc
thật đang tồn tại để ta phải luôn bảo vệ và phát triển.
Như vậy, một nhận thức chân thật phải là một nhận thức đúng
thật và toàn diện, thấy biết về thế giới hiện tượng quanh ta cũng như thấy biết
về chính bản thân ta thông qua sự soi sáng của cả Tục đế và Chân đế. Sự
thấy biết đúng thật theo Tục đế giúp ta phân tích và đánh giá sự việc đúng như
những tính chất và công năng của chúng, trong khi sự thấy biết theo Chân đế giúp
ta thoát khỏi mọi sự chi phối, lôi cuốn của thế giới hiện tượng cũng như kiểm
soát và loại bỏ dần những cảm xúc tiêu cực thường sinh khởi mỗi khi ta tiếp xúc
với các đối tượng bên ngoài.
Để có thể hiểu sâu hơn về tầm quan trọng của một nhận thức
chân thật, có lẽ chúng ta cần phân tích sơ qua về quá trình tiếp xúc và sinh
khởi những cảm xúc của bản thân ta với một đối tượng bên ngoài.
Khi ta tiếp xúc với một con người chẳng hạn, trước tiên sẽ là sự nhận hiểu về
ngoại hình rồi đến ngôn ngữ, cử chỉ... Nếu những yếu tố ban
đầu đó được ta ưa thích, ta sẽ bắt đầu tạo ra trong tâm trí mình một “bản sao”
của người đó.
Nhưng vấn đề đáng lưu ý ở đây là, chúng ta hầu như không bao giờ tạo ra một “bản
sao” trung thực! Khi ta yêu thích một người, ta sẽ ghi nhận nơi người đó toàn
những ưu điểm, những vẻ đẹp cả về tinh thần lẫn thể chất... Và “bản sao” của
người đó xuất hiện trong tâm trí ta sẽ được tô đậm nét, được phóng đại lên nhiều
lần những ưu điểm, những vẻ đẹp, trong khi ta lại hiếm khi thấy được những
khuyết điểm, những nết xấu... Và nếu có thì ta sẽ có khuynh
hướng làm cho những yếu tố xấu đó trở nên mờ nhạt đi, sao cho chúng không còn
đáng lưu tâm nữa.
Khuynh hướng ngược lại sẽ xuất hiện khi đối tượng là người mà ta không ưa thích
hay oán ghét. Trong trường hợp này, ta sẽ tạo ra một “bản sao” của người ấy
trong tâm trí ta với những đường nét nhấn mạnh vào các thói xấu, các khuyết điểm...
và hầu như ta không hề thấy được những ưu điểm vốn có của người ấy, hoặc nếu có
thì ta cũng có khuynh hướng phớt lờ đi, không lưu tâm đến chúng.
Trong cả hai trường hợp, những gì ta ghi nhận về đối tượng đều
không còn trung thực, không hoàn toàn đúng thật như trong thực tế. Và
quan trọng hơn nữa, mức độ sai lệch này sẽ ngày càng phát triển lớn hơn
theo thời gian, theo số lần mà ta nghĩ nhớ đến người ấy. Nếu là người ta
yêu thích thì hình ảnh người ấy trong ta sẽ ngày càng đáng yêu hơn, tốt đẹp, cao
quý hơn... Và ngược lại, nếu là người ta căm ghét thì
hình ảnh người ấy sẽ ngày càng trở nên xấu xa, đáng ghét hơn...
Không chỉ là sự phóng đại, cường điệu hóa những gì ta nhận biết trong thực tế,
mà tệ hại hơn nữa là ta còn có khuynh hướng thêu dệt, tưởng tượng ra những điều
hoàn toàn không thật có để làm biến dạng hình ảnh của đối tượng ấy trong tâm trí
theo khuynh hướng yêu thích hoặc căm ghét của riêng ta.
Và đây cũng chính là lý do giải thích vì sao những kẻ yêu nhau thì thường có
khuynh hướng ngày càng say đắm nhau hơn, trong khi những kẻ oán ghét nhau thì dễ
đi đến tình trạng ngày càng xa cách, càng ghét nhau thậm tệ hơn nữa...
Bởi tiến trình này diễn ra gần như là một khuynh hướng tự nhiên ở hầu hết mọi
người trong chúng ta, trừ phi ta có thể nhận biết được tính chất vô lý của nó
thông qua sự tu tập quán chiếu đúng thật.
Hầu hết các nhà tâm lý học hiện đại đều nhận biết khá rõ về
tiến trình nói trên. Vì thế, họ luôn đưa ra những lời
khuyên trong giao tiếp là phải chú trọng đặc biệt đến ấn tượng ban đầu.
Nếu bạn có thể “chinh phục” được tình cảm của một người nào đó ngay trong lần
đầu tiên tiếp xúc, thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc bạn đã thiết lập được cả
một tiến trình tự động theo sau luôn khuếch đại những
ưu điểm của bạn trong lòng người ấy. Ngược lại, nếu bạn lỡ tạo
ra một ấn tượng không tốt trong lần đầu gặp gỡ, thì việc xóa bỏ ấn tượng ấy sẽ
vô cùng khó khăn.
Những cô gái về làm dâu nhà chồng thường hiểu rất rõ quy luật này trong mối quan
hệ với cha mẹ chồng cũng như anh, chị, em trong nhà chồng... Một “lễ ra mắt”
thành công sẽ dẫn đến mọi việc “đầu xuôi đuôi lọt”, nhưng nếu như đã thất bại
trong một không khí ảm đạm thì rất có khả năng là những cơn mưa bão xung đột
tình cảm sẽ còn kéo dài mãi mãi về sau...
Nhưng tiến trình khuếch đại những tình cảm yêu ghét của chúng
ta đối với một đối tượng như vừa mô tả trên cũng chỉ mới là giai đoạn khởi đầu.
Bởi chúng ta thường không chỉ “yêu để mà yêu” hay “ghét chỉ để ghét”, mà những
cảm xúc đó còn có tác dụng dẫn dắt, thôi thúc mọi tư tưởng, lời nói và hành vi
của chúng ta theo khuynh hướng của chúng.
Trong trường hợp ta yêu thích một người, thì đồng thời với
việc phóng đại những ưu điểm của người ấy trong tâm trí, ta cũng bắt đầu nảy
sinh một khuynh hướng khao khát, mong muốn chiếm hữu người ấy.
Trước tiên, ta tự mình tạo ra một sợi dây liên kết vô hình giữa người ấy và ta,
gắn kết ngày càng chặt chẽ hơn, để rồi cuối cùng ta đi đến chỗ mặc nhiên xem
người ấy là “của ta”.
Tất nhiên, sự “chiếm hữu” đơn phương trong tâm tưởng này chỉ là khởi điểm, và
tiếp theo đó ta sẽ tìm mọi cách để có thể thực sự chiếm
hữu được người ấy.
Và cho dù có thực sự “chiếm hữu” được người ấy hay không, vì
đã tự mình xem người ấy là “của ta” nên ta bắt đầu nảy sinh sự phụ thuộc, gắn bó
với người ấy. Khi không được thường xuyên tiếp xúc, gần
gũi, ta thấy nhớ mong, khao khát. Được gặp gỡ, chuyện trò, ta thấy vui vẻ,
hạnh phúc... Và nếu vì một lý do nào đó mà ta phải xa lìa người ấy, không còn
được tiếp xúc, gặp gỡ nữa, ta sẽ thấy buồn khổ, phiền muộn...
Vấn đề còn tiếp tục đi xa hơn nữa khi ta luôn tin chắc rằng những gì ta nghĩ về
người ta yêu thích là hoàn toàn đúng thật - trong khi sự thật thì đó lại là
những đường nét, tính cách đã được cường điệu hóa theo
ý riêng của ta. Vì thế, khi thực tế không diễn ra đúng như ta
mong muốn, chẳng hạn như khi những hành vi ứng xử của người ấy không giống như
ta mong đợi, ta cảm thấy thất vọng và đau khổ. Điều này
rất dễ nhận ra ở những người thân trong gia đình. Chẳng hạn, các bậc cha
mẹ luôn phóng đại tài năng của con cái họ và do đó đặt quá nhiều kỳ vọng vào
chúng, để rồi phải thất vọng khi thực tế diễn ra là chúng không có khả năng đạt
được những điều họ mong muốn... Đây là nguyên nhân rất phổ biến mang đến sự buồn
phiền, đau khổ cho phần lớn chúng ta, cho dù người ta thương yêu đó có thể là vợ,
chồng, con cái hay thuộc về bất cứ mối quan hệ nào khác trong cuộc sống...
Toàn bộ tiến trình mang lại sự khổ đau và phiền muộn như trên đều do chính ta
làm “đạo diễn” từ đầu đến cuối. Nguyên nhân của kịch bản sai lầm này chính là sự nhận thức không
đúng thật về đối tượng cũng như về chính bản thân ta. Do chỉ thấy biết về
đối tượng qua lớp ý nghĩa tương đối mà không thấy được bản chất tuyệt đối, nên
ta đã không ngừng tạo ra những hình ảnh, nhận thức ngày càng sai lệch về đối
tượng, dẫn đến những cảm xúc, tình cảm cũng sai lầm, không đúng thật. Mặt khác, do không thấy được bản chất thực sự của “cái ta”, vẫn luôn
xem “ta” như một thực thể độc lập và thật có nên ta mới nảy sinh ý niệm chiếm
hữu đối tượng thành “của ta”, nhằm thỏa mãn những khao khát, mong muốn của riêng
ta.
Như vậy, những sai lầm như trên rõ ràng là có thể loại bỏ nếu ta biết quán chiếu
bản thân cũng như đối tượng thông qua cả Tục đế và Chân đế.
Khi nhận thức về bản thân cũng như đối tượng tiếp xúc với cả hai lớp ý nghĩa
tương đối và tuyệt đối, ta sẽ có một cái nhìn đúng thật với những gì đang xảy ra,
thấy biết được cả những tính chất thuộc phạm trù tương đối cũng như bản chất
thực sự của đối tượng. Sự nhận thức đúng thật và toàn diện này sẽ giúp ta
luôn sáng suốt để có được những tư tưởng, hành vi, lời
nói đúng đắn và thích hợp với từng hoàn cảnh, mang lại lợi ích cho bản thân ta
cũng như cho mọi người quanh ta, thay vì là những khổ đau và phiền muộn.