Rời Vesāli, đức
Phật và đại chúng ghé thăm Videha, Moriya sau đó qua Malla. Đâu đâu cũng được
chư tăng và hai hàng cận sự
Nam
nữ tiếp đón, cúng dường. Đức Phật chỉ định các vị thượng thủ
A-la-hán thay nhau thuyết pháp. Mọi sinh hoạt tu tập,
chùa viện, liêu xá ở những xứ sở này đang từng bước đi vào ổn định.
Hôm ấy, do tiết
trời nắng nóng, đức Phật và đại chúng dừng chân tại khu rừng Ampiyamba, gần
thành Anupiya - trước khi lên đường đến Koliya - thì có một cậu bé trai
tìm đến. Nó cứ đưa đôi mắt trong sáng, ngây thơ nhìn đức Phật rồi luẩn quẩn
loanh quanh bên các vị trưởng lão chứ không chịu rời đi. Nhìn khuôn mặt sáng sủa,
thuần hậu của cậu bé, tôn giả Sāriputta đưa mắt thiện cảm,
ân cần hỏi chuyện. Biết cậu bé có thiện cảm đặc biệt
khi nhìn tướng hảo của đức Phật, phát tâm trong sạch muốn xuất gia - tôn giả bảo
là phải xin phép gia đình đã.
Cậu bé hớn hở
vụt chạy đi, lát sau, dẫn một bà già đến - trông còn quắc thước với sắc phục,
dáng dấp có vẻ dòng dõi quý phái - rồi rành rõi giới thiệu:
- Đây là bà
ngoại cháu - bà ngoại cháu rất vui mừng khi thấy cháu được đi
theo quý ngài.
Bà già sụp lạy
đức Phật và chư
vị trưởng lão rồi với nước mắt nước mũi kể lại rằng:
- Tội quá quý
ngài ơi! Nó là dòng dõi hoàng tộc xứ Malla đấy. Khi còn
trong thai bào, thì mẹ nó - tức là con gái cưng của già
đây - bị chết vì bạo bệnh. Khi đem hỏa thiêu, do sức nóng của
lửa làm cho cái bụng người chết nứt ra làm hai. Không biết căn do kỳ lạ
nào - mà cái bọc thai
lại vọt ra, rơi vào một bụi cây, nằm vắt vẻo giữa mấy cành cây, an bình như một
phép lạ. Nên được đặt tên là Dabba. Thấy cháu lại tưởng
đến con gái, già xin bên nội cho già được nuôi dưỡng. Bây giờ nó đây, ngoan ngoãn và dễ dạy, thông minh và hiếu thuận.
Không có điều gì đáng chê ở nơi tính hạnh của nó cả.
Ai cũng thương. Bây giờ nó cứ nằng nặc được xuất gia đi theo quý ngài, già mừng như được chết đi mà sống lại. Thế
gian này trăm ngàn sự khổ, ai đi tu được như quý ngài, già cũng mừng...
Bà lão sụt sùi lau nước mắt. Tôn giả đưa tay
chỉ đức Phật:
- Đây là đức Thế
Tôn! Cậu bé sẽ được nương tựa trong hào quang của đức Tôn Sư vô thượng...
Bà già lại sụp lạy.
Lại nói huyên thuyên:
- Già nghe rồi,
già biết rồi. Ai không nghe câu chuyện một vị thái tử cao sang kinh thành
Kapilavatthu bỏ vương vị, vợ đẹp con xinh để đi xuất gia tầm đạo thì kẻ đó không
có tai. Ai không biết vị ấy sáu năm nằm gai nếm mật,
khổ hạnh vô thượng - sau đó tìm tới cội bồ-đề, chỉ tịnh và quán minh mới đắc quả
Chánh Đẳng Giác thì kẻ ấy không có óc! Hãy cho cháu được xuất gia ngay bây giờ
đi - bạch đức Thế Tôn!
Đức Phật mỉm
cười:
- Cái hạt giống
quý đấy, này Sāriputta! Ông hãy đích thân làm lễ xuất gia sa-di cho Dubba -
Mallaputta!
Không biết duyên lành thế nào mà trong hội chúng lại có vị có thừa y bát.
Thế là cậu bé được làm lễ xuất gia.
Tôn giả Sāriputta đích thân dẫn Dubba ra bờ suối để cạo tóc.
Do túc duyên ba-la-mật sẵn có, khi đường dao cạo thứ nhất vừa lướt qua làn da
đầu, Dubba chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi đường dao cạo thứ hai vừa kéo theo một chùm
tóc, Dubba đắc quả Tư-đà-hàm. Thế rồi, đường dao thứ
ba, Dubba đắc quả A-na-hàm. Đường dao thứ tư vừa xong -
thì Dubba thành tựu rốt ráo cứu cánh sa-môn hạnh - đắc quả A-la-hán luôn cả các
thắng minh.
Khi tôn giả dẫn
Dubba đến trình diện đức Phật, ngài nói:
- Này,
Sāriputta! Chú bé này đã là “con trai” của Như Lai - vậy ông hãy cho thọ luôn cụ
túc giới! Đây là trường hợp đặc biệt trong giáo hội của Như Lai.
Nghe đức Phật
tuyên bố như vậy, các vị có Tam minh chỉ mỉm cười nhưng một số phàm tăng thì bàn
tán xôn xao:
- Kỳ diệu làm
sao - chú bé qua bốn đường dao đã đắc quả A-la-hán rồi?
- Đức Tôn Sư vừa
gọi là “ Con trai ” đó!
- Bảy tuổi lại
được thọ đại giới sao?
Sau khi Dabba-Mallaputta trở thành tỳ-khưu trẻ nhất của giáo hội, nhìn tăng
tướng đẹp đẽ như một ngoan đồng cõi trời, ai cũng trầm trồ, tấm tắc nhìn ngắm. Bà ngoại của cậu cũng thảng
thốt nhìn sững.
Đức Phật chợt
nói:
- Này
Moggallāna! Ông hãy kể chuyện nhân duyên quá khứ của
Dubba-Mallaputta cho cả hội chúng được nghe để họ khỏi thắc mắc và hoài nghi.
Rồi lớp mù sương
quá khứ, sau đó đã được vị Đệ nhất thắng trí vén mở, như sau:
“- Vào thời đức Thế Tôn Padumuttara, Dabba sinh ra trong một gia đình trưởng giả
hữu danh tại kinh đô Haṃsavatī.
Ông thường đến chùa để nghe pháp.
Hôm đó, đức Phật tán thán, khen ngợi một vị tỳ-khưu đã quán xuyến, giỏi giang về
việc sắp đặt chỗ ăn
ở cho mấy chục ngàn vị tỳ khưu mà đâu đó đều đàng hoàng, tươm tất. Đức Phật gọi
phong tặng phương danh vị tỳ-khưu ấy là “Đệ nhất về hạnh tri
xứ ”!
Dabba nghe
vậy, thỏa thích, hoan hỷ quá, ông nỗ lực cúng dường lớn, làm các công đức phục
vụ Tam Bảo không mệt mỏi - rồi quỳ xin đức Phật Padumuttara chứng minh cho ông,
trong một kiếp vị lai nào đó, được xuất gia với một vị Phật và sẽ thành tựu sở
nguyện công hạnh giống như vị tỳ-khưu “Đệ nhất về tri xứ ”
kia. Đức Phật thọ ký cho ông.
Sau nhiều
trăm ngàn năm được luân chuyển thọ hưởng phước báu trời và người - đến thời đức
Thế Tôn Kassapa, ông được xuất gia và tu tập cùng với 6 vị tỳ-khưu bạn hữu ở
trong một hang núi. Khi đức Phật nhập diệt rồi mà cả 7 vị đều chưa chứng được gì cả.
Và tình trạng sinh hoạt và tu tập của giáo đoàn cũng không còn nền nếp, nghiêm
túc như xưa. Hôm kia, họ họp bàn, thảo luận:
- Đã có triệu chứng giáo pháp suy đồi, chúng ta phải làm sao?
Sống chung với những tỳ-khưu thiếu niệm và thiếu tinh
cần, chúng ta sẽ thối thất mất.
- Khi một vị
Phật ra đi, một lúc nào đó, trên cõi châu Diêm-phù-đề này sẽ có dấu hiệu phong
thịnh, hỏa thịnh, thủy thịnh hay địa thịnh - sẽ tạo nên những biến cố bất toàn
cho chúng ta.
Sau khi đi
đến nhất trí, họ làm một cái thang cao, cùng leo lên
một ngọn núi đá có vách dựng đứng; rồi thốt lời đại nguyện rằng:
- Nếu chưa
chứng quả, chúng tôi không rời đỉnh núi này, thà thịt nát xương tan, thà tử thần
cướp đi mạng sống - đây là lời hứa thiêng liêng!
Rồi họ xô ngã cái thang.
Thế rồi, chỉ
mới ngày thứ năm, một vị tỳ-khưu đã làm xong phận sự của mình, tức là việc cần
làm đã làm xong. Lặng lẽ, vị ấy ôm bát sang Bắc Cu-lu châu khất thực, trở về nói
với các bạn rằng:
- Hãy thọ
dụng vật thực, các bạn! Việc lớn tôi đã làm xong rồi, bây giờ, việc đi khất thực
hằng ngày hãy để dành cho tôi.
Tuy nhiên,
cả sáu vị thà nhịn đói chứ không chịu thọ dụng. Họ nói:
- Khi xô cái
thang xuống, chúng ta không hề nói rằng: “ Là vị nào đắc Tam minh trước, vị ấy
phải có bổn phận đi khất thực để hộ độ cho những vị còn lại chưa đắc!” Vì chưa
giao ước như thế nên chúng tôi không dám dùng, thà chết cũng không thể dùng
được!
Một vị nói:
- Rất cảm ơn
lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, ngài đắc Tam minh là do duyên phước ba-la-mật đầy
đủ. Còn chúng tôi, nếu căn duyên còn thiếu - thì thà chịu đau khổ do đói, khát
cũng rèn luyện thêm được ý chí, nghị lực và tinh cần cho mình, cũng là cách bổ
túc ba-la-mật vậy.
Thấy không
khuyên can được ý chí bất thối của họ - vị A-la-hán đành nói lời phúc chúc rồi
quăng bát ra giữa hư không, du hành sang phương khác.
Đến ngày thứ
bảy, một vị nữa đắc quả A-na-hàm; nhưng do đói và khát, chấm dứt thọ hành, vị ấy
trú thánh định rồi hóa sanh vào cõi Ngũ tịnh cư thiên, Niết-bàn luôn ở đấy,
không trở lại nhân gian nữa. Năm vị còn lại, không đắc được gì cả, lần lượt ra đi do đói và khát. Nhưng nhờ tâm tinh cần bất thối chuyển ấy,
cả năm vị đều được hưởng phước báu luân phiên cõi người và trời. Đến thời đức
Phật Sākya của chúng ta, cả năm vị đều được thác sanh ở châu Diêm-phù-đề, nơi
này và nơi khác, như sau:
- Một vị
sanh vào hoàng tộc, kinh thành Takkasīla, quốc độ Gandhāra - có tên là
Pukkusāti. Một vị sanh vào thai bào nữ du sĩ xứ
Majjhantikā - có tên là Sabhiya. Một vị sanh vào gia tộc của
vị trưởng giả xứ Bāhiya - có tên là Bāhiya. Một vị sanh vào
thai
bào của vị tỳ-khưu-ni có tên là Kumārakassapa. Còn Dabba tái sanh trong dòng
hoàng tộc tại thành Anupiya xứ Malla! Thế là cả 5 vị tỳ-khưu
thuở xưa tu hành tinh cần quá mức cho đến chết, sẽ cùng lần lượt kẻ trước người
sau tao ngộ trong giáo pháp đức Tôn sư của chúng ta!”
Chuyện kể xong, đại chúng thở phào. Hóa ra cậu bé này có căn cơ sâu dày đến vậy. Nếu
cơ duyên tròn đủ, cậu ta đã đắc quả A-la-hán với thời gian cách đây cả một vị
Phật, chứ đâu phải tầm thường!
Tỳ-khưu
Dabba-Mallaputta bây giờ đã lấy lại tư cách, tác phong, sự chững chạc, đĩnh đạc
của một trưởng lão thánh tăng, quán nhân duyên sau trước, rồi quỳ thưa:
- Bạch đức Thế
Tôn! Hãy cho đệ tử về Trúc Lâm tịnh xá để tập sự công việc đúng như lời nguyện
thuở trước khi quỳ bên chân đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara!
Đức Phật mỉm
cười:
- Ừ, đúng vậy,
con trai!
Bà ngoại của Dabba đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chưa thôi, đức Phật còn bảo:
- Con trai hãy
quăng bát qua hư không rồi vận thần thông lực trở về Jetavana trình diện các vị
trưởng lão ở đấy, rồi xin được làm phận sự của mình cho xứng đáng với danh xưng
của vị tỳ-khưu “Ưu thắng về tri xứ”!
Tỳ-khưu
Dabba-Mallaputta vâng mệnh, đảnh lễ đức Phật và chư tăng rất từ tốn và chậm rãi,
xong, như cánh chim ưng vàng bay qua hư không, chỉ mấy sát-na sau là mất dạng.
Đại chúng hoan hỷ, tán thán không hết lời.
Bà ngoại của chú
bé thấy mình như đang sống trong truyện cổ tích. Vui mừng quá,
tâm tịnh tín phát khởi, bà xin quy y, bắt đầu làm một cận sự nữ thuần thành
trong giáo hội của đức Tôn Sư.
Trích đăng từ: Một Cuộc Đời - Một Vầng Nhật Nguyệt 3
Tác giả:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh