Các bạn thân mến!
Xin hãy dành đôi phút tĩnh lặng để suy tư về một
điều nhỏ bé nhưng không kém phần quan trọng trong cuộc sống của mỗi người, đó
chính là hồn quê hương, là nét đẹp văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt nam.
Nói đến nét đẹp dân tộc Việt
người ta thường liên tưởng đến hình ảnh mái chùa cong vút, ẩn mình thanh thoát
trên núi cao hay những vùng quê ven sông yên ả. Bởi vì “mái chùa che chở hồn dân
tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông”. Thật vậy, dù ở nơi đâu, làm gì
người dân Việt cũng không bao giờ quên nếp sống của tổ tiên được hun đúc qua bao
thế hệ bằng hình ảnh mái chùa thân thương trìu mến.

Từ xưa cuộc sống người dân Việt đã gắn liền với
tiếng chuông chùa vang lên ngày hai buổi sáng chiều. Thuở ấy, người dân không tính thời gian bằng đồng hồ mà sử dụng
tiếng chuông chùa để đoán định giờ giấc.
Chuông chùa buổi sáng ngoài việc thức tỉnh người mê hãy mau tỉnh thức quay về
với bản tánh giác ngộ, còn nhắc nhở người nông phu dắt trâu ra đồng, người buôn
bán họp chợ bắt đầu một ngày mới. Khi ánh hoàng hôn ngả bóng,
là lúc chuông chùa vang vọng khắp thời không nguyện cầu âm siêu dương thới, cũng
là thời gian mọi người kết thúc công việc trở về với mái gia đình.
Vậy đó, cuộc sống người dân Việt và tiếng chuông chùa đã hòa quyện vào nhau tạo
nên nếp sống nhịp nhàng, bình yên của dân tộc từ những buổi bình minh huy hoàng
đất Việt.
Theo bao thăng trầm của lịch sử,
ngôi chùa cũng bao phen thịnh suy cùng vó ngựa cuồng chinh, bom rơi đạn lạc. Vật chất đã biến thiên theo quy luật “thành, trụ, hoại, không” nhưng tinh thần và
tâm hồn người Việt vẫn luôn sáng ngời trong sử sách.
Do ảnh hưởng của chiến tranh cả nước Việt Nam không
còn mấy ngôi chùa giữ được dáng dấp nguyên sơ, một số đã tu bổ trang trọng như
chùa Dâu, chùa Trấn Quốc, chùa Bút Tháp… nhưng một số vẫn đang trong tình trạng
báo động như chùa Trăm Gian, chùa Tây Phương, chùa Thầy mà đau lòng nhất là ngôi
chùa Một Cột - dấu tích còn lại của vương triều nhà Lý - một trong những vương
triều lừng lẫy của dân tộc Việt Nam.
Theo sử sách, chùa được xây lần thứ nhất năm 1049:
“Mùa đông tháng 10 dựng chùa Diên Hựu. Trước đây, vua chiêm
bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà.
Khi tỉnh dậy vua nói với bề tôi, có người cho là điềm không lành.
Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa
đất, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy ở trong mộng.
Cho các nhà sư đi xung quanh tụng kinh cầu nhà vua sống lâu.
Vì thế gọi là chùa Diên Hựu với nghĩa là phúc lành dài lâu. Năm 1070 mùa
xuân tháng giêng năm Thần Võ thứ 2, vua viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước khắc
vào phiến đá.”
Lần xây dựng thứ hai vào năm 1105, vua tu bổ chùa
Diên Hựu: “Mùa thu tháng 9 làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu... Bấy giờ vua chữa lại chùa đẹp hơn chùa cũ, đào hồ Liên Hoa Ðài gọi
là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang
chạm vẽ chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ. Bích trì đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước
sân chùa xây Bảo Tháp. Trước khi vào chùa còn có một
phương đình bằng đá xanh cao 8 trượng (khoảng 26m) trước cổng chùa. Chùa là một cụm kiến trúc bề thế, có ý tưởng độc đáo và thẩm mỹ đẹp
đã bị chiến tranh tàn phá, trở thành um tùm rậm rạp thời giặc Minh.”
Thông qua nhiều tài liệu cổ cho biết chiếc cột thần
kỳ cao tới 20m, trong đó có bia Sùng Diện Linh ở chùa
Long Ðọi Nam Hà do Binh bộ thượng thư Nguyễn Công Bật viết đã mô tả và ghi chép
tỷ mỷ việc xây tiếp chùa Một Cột: “Mở cửa chùa Diên Hựu tại vườn tây. Dấu vết theo quy mô ngày trước, lo toan Thánh ý ngày nay. Ðảo hồ
thơm Linh Chiểu, giữa hồ trồi lên cột đá. Trên cột đá
có một hoa sen ngàn cánh xòe ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm.
Trong đền đặt pho tượng sắc vàng, ngoài hồ có hành lang
bao bọc. Ngoài hành lang lại có hồ Bích Trì, bắc cầu cong đi lại, ở sân trước hai
cầu bên tả hữu xây bảo tháp lưu ly...” (trích
nguồn từ
http://vnexplore.net/destination/18)
Tài liệu trên cho thấy đây là ngôi chùa của Hoàng
triều nhà Lý do đích thân nhà vua cho khởi công xây dựng và tiến hành trùng tu
nhiều lần, mỗi lần trùng tu đều mang dáng dấp nguy nghiêm và diễm lệ hơn xứng
tầm với một ngôi Quốc tự. Chùa Một Cột còn là nơi nhà vua đến
lễ Phật cầu phúc cho vạn dân bá tánh vào những ngày rằm và mồng một hằng tháng.
Vậy đủ thấy giá trị ngôi chùa bậc nhất kinh kỳ mà vẻ nguy nga của nó chắc hẳn
không ngôi chùa nào sánh kịp lúc bấy giờ.
Ngày nay bạn bè khắp năm châu khi nhắc đến Việt Nam
nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng người ta vẫn không quên hình ảnh chùa Một
Cột. Bởi đó chính là biểu tượng thanh cao, sức sống mãnh liệt phi thường của cả
một dân tộc, ví như hình ảnh hoa sen tuy ở trong bùn nhưng không nhiễm mùi hôi
tanh, vẫn vươn mình nở hoa, tỏa hương thơm thanh khiết hiến dâng cho cuộc đời.
Tự hào là thế, vinh quang một thời là thế! Nhưng
nếu không biết trân quý, tôn tạo và giữ gìn ngôi cổ tự thiêng liêng ấy thì không
bao lâu chúng ta sẽ đánh mất tâm hồn người Việt!
Trong bộn bề cuộc sống, chúng ta chắc ít có cơ hội
để suy tư về điều này! Đánh mất vài trăm ngàn, vài triệu đồng có người tiếc nuối
đến quên ăn mất ngủ, nhưng đánh mất cả nếp sống tổ tiên, hồn dân tộc
thì mấy ai ngậm ngùi hối tiếc! Có người cho rằng công việc này
là việc của những người rỗi hơi, lười biếng, cơm gạo lo ngày hai buổi cũng đã
vất vả lắm rồi, lấy đâu ra mà nghĩ ngợi đến việc bảo tồn văn hóa dân tộc.
Thật vậy, cơm áo gạo tiền khiến con người ta quay
lưng thờ ơ với những gì mà ông cha đã bỏ công gầy dựng. Không thể trách ai được!
Nhưng các bạn ơi! Nếu không giữ được tâm hồn người Việt thì dù chúng ta sống
trên xa hoa nhung lụa, đi xe hiệu bạc tỷ, thì chẳng
khác nào tượng sáp biết di động, chỉ bôi sơn tạo hình cho lớp vỏ bên ngoài mà
bên trong tâm hồn chỉ là khoảng không trống vắng. Nếu không giữ được nét đẹp của
hồn quê dân tộc, thì chỉ cần vài năm nữa thôi chúng ta sẽ bị ngoại bang đồng
hóa, con cháu chúng ta sẽ trở thành những đứa con hoang, với tóc vàng, tóc đỏ,
trang phục và cách sống tây chẳng ra tây, ta chẳng giống ta. Buồn lắm phải không
các bạn!
Trùng tu chùa Một Cột và những di sản văn hóa tâm
linh của dân tộc là việc làm thiết thực để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng
cao vị thế hình ảnh Việt Nam trên khắp
thế giới và tỏ lòng tri ân
công đức cao dày của các bậc tiền nhân. Đây là công việc đòi hỏi sự đoàn kết nhất quán của mọi tầng lớp
người dân, trong đó vai trò chủ đạo là của Phật giáo Việt Nam. Nếu không làm được việc
này, Phật giáo Việt Nam nói riêng và cả dân tộc Việt Nam sẽ là người con bất
hiếu với ông bà cha mẹ, bất nghĩa với các bậc tiền bối tổ tiên, bất trung với
quê cha đất tổ, bất nhân với con cháu tương lai.
Đi dạo một vòng quanh khu vực
chùa Một Cột ngày nay, chúng ta chỉ biết ngậm ngùi cho số phận bi thương của một
ngôi Quốc tự. Cổng chính vào chùa lúc nào cũng
then cài cửa đóng, vào trong điện Phật âm u, lạnh lẽo. Phía bên ngoài có
vẻ thoáng mát hơn nhưng cũng không lấy gì làm vui vì ngôi điện Phật giữa hồ đã
xuống cấp, tường rêu phủ bám, hồ nước quanh ngôi điện Phật chẳng khác gì ao tù
nước động hoàn toàn không xứng là một ngôi chùa của Thủ đô ngàn năm, nói chi là
biểu tượng quốc gia, là hồn dân tộc Việt. Thật đáng để chúng ta - những người
con Việt có tấm lòng trăn trở về một nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc phải suy tư.
Đối lập với ngôi chùa bé nhỏ, đang xuống cấp là hai
tòa nhà to lớn và hiện đại đó là viện bảo tàng và lăng cụ Hồ. Chúng ta không đề
cập đến việc xây dựng hai công trình này, bởi lẽ đó cũng là một trong những việc
làm thể hiện lòng tri ân đối với cụ Hồ - người đã lèo lái con thuyền dân tộc,
đưa Việt Nam thoát khỏi ách thống trị đô hộ của thực dân. Nhưng thử nghĩ mà xem,
nếu những hạng mục công trình liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Cụ được
nâng niu chăm sóc, vậy tại sao chùa Một Cột - công trình gắn liền với cơ nghiệp
của vương triều Lý - mốc son chói lọi trong trang sử hào hùng của dân tộc Việt
Nam - nơi hình thành nên kinh đô ngàn năm của một quốc gia độc lập, tự chủ cho
đến ngày nay lại nằm lọt thỏm giữa một khoảng không thinh lặng. Sinh thời cụ Hồ
vẫn không hề muốn xây dựng những thứ ấy để ca ngợi công lao
của người. Cụ giản dị đơn sơ với đầy đủ phẩm chất của
một người Việt Nam
thuần túy. Cụ cũng là một người có lòng yêu mến đạo Phật, và
luôn đề cao vai trò giá trị của Phật giáo trong công cuộc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
Chúng ta tri ân cụ Hồ đã
hy sinh cuộc đời cụ cho quê hương đất nước, nhưng chúng ta cũng không nên xem
nhẹ những giá trị quý báu mà các bậc tiền nhân trong các triều đại mà điển hình
là triều đại Lý đã để lại cho chúng ta.
Các bậc Quân chủ ngày xưa xây chùa là để nhắc nhở
chính bản thân phải noi theo lời dạy của chư Phật, là nơi tụ hội tâm linh, hun đúc
hồn thiêng của cả dân tộc và cũng là nơi cầu phúc cho vạn dân.
Thiết nghĩ ngày nay, các bậc lãnh đạo quốc gia cũng nên ghi nhận và noi gương
các bậc minh quân thuở ấy. Sẽ đẹp biết bao khi hình ảnh các nguyên thủ
quốc gia dâng hương lễ Phật, rồi sau đó vào lăng viếng
cụ Hồ trước khi tiến hành một công việc mang tầm vóc cả nước. Đó không phải là
hành động của một tín đồ ngoan đạo bởi lẽ Phật giáo không là một tôn giáo như
bao nhiêu tôn giáo khác trên thế giới, mà đạo Phật là con đường hướng đến lòng
từ bi, yêu chuộng hòa bình phù hợp với tinh thần và tâm hồn dân tộc Việt nam.
Chính vì thế nghĩa cử cao đẹp của các bậc lãnh đạo quốc gia thắp hương, chắp tay
búp sen, giành đôi ba phút trãi lòng yên tịnh trước dáng vẻ uy nghi của đức Thế
Tôn, đang ngự tọa trong ngôi cổ tự đã được dựng xây bởi các bậc tiền nhân lỗi
lạc của dân tộc sẽ được lưu truyền và có tác dụng giáo dục mãnh mẽ, nhắc nhở con
cháu mai sau không quên hồn Việt, không quên nguồn cội, huyết thống tổ tiên.
Nguyện cầu Tam bảo thường gia hộ, nguyện cầu gia
đình huyết thống tổ tiên ngàn đời của dân tộc Việt Nam thường gia hộ để trong
tương lai không xa chùa Một Cột sẽ được trả về với nguyên bản của một ngôi Quốc
tự trong lòng Phật giáo dân tộc Việt Nam.
Tâm Hòa