Đức Phật trở lại Veḷuvanārāma khi trời đang còn tiết xuân trong lành và mát mẻ. Thoáng nhìn quang cảnh đó đây, ngài biết là có một vài
dấu hiệu sa sút về chất lượng, phẩm hạnh của một số đông tỳ-khưu - sau khi vắng ngài cũng như thiếu vắng những bậc thượng thủ
A-la-hán.
Tuy nhiên, công việc chấn chỉnh nội bộ cũng không có gì
cần được nhắc đến vì tôn giả Sāriputta và Ānanda đã lo việc ấy. Còn đức Phật thì hầu như phải thường xuyên thuyết pháp vào mỗi
buổi chiều vì hai hàng cư sĩ rất khát khao học hỏi. Kết quả
thật đáng ngạc nhiên là rất nhiều Nam cư sĩ, nữ cư
sĩ đắc quả Nhập Lưu.
Đặc biệt có một trưởng giả tên là Visākha đắc quả Bất Lai!
Cuối buổi giảng,
đức Phật nói với đại chúng:
- Hôm nay Như
Lai rất vui mừng vì khá nhiều người đã bước vào dòng bất tử; lại còn có người
đạt được quả vị bất thối... Từ đây, lộ trình của họ là lộ trình của an lạc và
hạnh phúc, không bao giờ còn rơi đọa vào bốn con đường đau khổ nữa!
Sau lời tuyên bố của đức Phật, số cư sĩ ấy chợt đứng dậy, đến đảnh lễ gần bên
chân đức Phật với niềm vui tươi mới, có kẻ sụt sùi nước mắt. Riêng trưởng giả Visākha thì muốn xin xuất gia.
- Chưa phải lúc,
này Visākha! Đức Phật nói -
Đúng thời, Như Lai sẽ để cho ông tròn sở nguyện. Hiện tại, ông có pháp học vững
chắc, tròn đủ tín, giới, văn, thí, tuệ -
nên trong hình tướng cư sĩ, ông còn đem đến lợi ích rất nhiều cho gia đình, bà con quyến thuộc cũng như bè bạn gần xa.
Về nhà, trưởng giả Visākha lặng lẽ bước lên lầu, tìm chỗ yên tĩnh tọa thiền.
Đến giờ cơm chiều, phu nhân xinh đẹp của ông là bà Dhammadinnā dịu dàng đến bên,
đặt tay lên vai, âu yếm nói:
- Đến giờ cơm
rồi, thưa phu quân! Đợi giấc tối, giấc khuya hãy tiếp tục công phu.
Xả thiền, trưởng
giả Visākha nhẹ nhàng nắm
tay bà đặt ra ngoài rồi ân cần nói:
- Bắt đầu từ hôm
nay, ta hoàn toàn không muốn nắm bàn tay xinh đẹp của nàng nữa; xin nàng hãy thông cảm cho ta.
- Chàng ghê sợ
bàn tay của thiếp sao?
- Không phải vậy!
Rồi ta sẽ nói chuyện với nàng sau.
Yên lặng một
lát, bà Dhammadinnā nói:
- Thôi, bây giờ
đi rửa mặt, rửa tay
rồi xuống dùng cơm; cả nhà đang đợi.
- Cũng không cần
thiết phải ăn nữa!
Ăn một bữa là đủ nuôi sống cái thân rồi.
Lại yên lặng.
- Hay thiếp đã
có làm việc gì sai trái, có lỗi với chàng?
- Không, không
có! Trưởng giả
Visākha lắc đầu - Nàng là người đàn bà tài sắc vẹn toàn; và còn hơn
thế nữa, còn cả giới hạnh và đức độ mà người ở gái xấu tính nhất cũng kính yêu
và cảm mến.
- Đừng nói lời
rào đón hoa hương ngọt mật như vậy nữa -
Bà Dhammadinnā giận dỗi - Hay là chàng chán thiếp rồi, chán cái thân
xác núc ních đã chảy tràn những thịt và mỡ và nơi nào cũng đầy dẫy những xú uế
và bất tịnh này?
Trưởng giả quay
sang nhìn bà vợ yêu quý, thổ lộ, tâm sự:
- Nàng đừng nói
hơi quá như vậy - nó làm rơi mất nghĩa tình tốt đẹp bấy nay. Ta không có lỗi mà
nàng cũng không có lỗi. Ta nói thật cho nàng nghe. Số là sáng nay nghe được pháp
từ đức Đạo Sư - tâm trí ta đã chìm vào rất sâu với giáo pháp.
Nói rõ hơn - là ta hiện đang sống, hiện đang thở với giáo pháp ấy.
Trạng thái tinh thần của ta hiện nay chỉ khế hợp với cái gì thanh lương, cao
sáng, tĩnh lặng. Ở đấy, nó không còn có chỗ cho những tình cảm vợ chồng, nhu cầu
bản năng thân xác cũng như những cái gì thuộc dục lạc ngũ trần...
Bà Dhammadinnā yên tĩnh, chăm chú lắng nghe.
Trưởng giả
Visākha tiếp tục:
- Vậy, cái duyên
tơ tóc mặn nồng của chúng ta từ nay nên gác lại. Tài sản mấy
trăm triệu đồng tiền vàng - ta để lại cho nàng hầu hết, cứ tùy nghi sử dụng.
Ta chỉ cần một phần năm tài sản ấy để nuôi thân và bố thí, cúng dường cho đến
khi đủ duyên xuất gia mà thôi. Nàng có thể cai quản gia sản, tùy ý. Nàng có thể
lấy hết mang về nhà cha mẹ, cũng tùy ý. Nàng có thể lấy một tấm chồng khác, cũng
tùy ý luôn! Thú thật với nàng là nàng còn trẻ, còn đẹp; hơn thế nữa, cái nữ tính
đằm thắm, dịu dàng của nàng còn lôi cuốn, hấp dẫn biết bao nhiêu bậc vương tôn,
công tử trên đời này! Đừng vì tự ái vẩn vơ mà nói những lời làm trái tim của ta đau xót...
Bà Dhammadinnā
chợt cất giọng ráo hoảnh:
- Chàng nói đã
xong chưa?
- Xong rồi!
- Vậy thì cho
thiếp được phát biểu chính kiến, được chăng?
- Sẵn sàng!
- Vậy thì sau
khi liễu ngộ giáo pháp, sống từng hơi thở với giáo pháp - chàng cảm thấy người
vợ đầu gối tay ấp của mình, gia sản mấy trăm triệu đồng tiền vàng của mình, đều
là vật ngoại thân, là thứ không nên dính mắc, quyến niệm; nói rõ hơn là đáng
viễn ly, quăng bỏ - có phải thế chăng?
Trưởng giả
Visākha nhìn sâu vào mắt bà:
- Về gia sản thì
đúng vậy!
Bà Dhammadinnā
cất giọng cứng cỏi:
- Đáng quăng bỏ
có nghĩa là cái mà chàng đã bỏ đi, đã mửa ra - thì xin nói thẳng - thiếp cũng
cương quyết không nhận những vật mà chàng đã bỏ đi, không nuốt những vật mà
chàng đã mửa ra!
Trưởng giả
Visākha sững sờ:
- Ý nàng như thế
nào?
- Chàng hãy cho
thiếp được xuất gia!
Trưởng giả
Visākha tưởng tai mình nghe lầm:
- Nàng nói sao?
- Chàng quăng bỏ
được thì thiếp cũng quăng bỏ được! Hãy cho thiếp xuất gia.
Trưởng giả
Visākha lặng người vì hoan hỷ! Cái hoan hỷ nó chảy rần rần như mọc ốc cả người,
nghẹn ngào chưa nói được lời nào - thì bà Dhammadinnā có vẻ trầm tư, xa vắng rồi
cất giọng thủ thỉ:
- Đã lâu lắm
rồi, thưa phu quân! Kể từ khi gá nghĩa, se duyên cùng chàng,
thiếp sống rất hạnh phúc. Hạnh phúc vì có được người chồng tốt: tốt
tướng, tốt nết, tốt bởi tâm đại lượng, tốt trong thái độ khu xử và tốt cả những
ngôn lời nhã nhặn, lịch thiệp, dịu dàng... Chẳng có người đàn bà nào gặp được phúc duyên trọn hảo, tuyệt mỹ như
thế. Tuy nhiên, có một cái cảm giác, ồ không, là một cảm thức - lúc nào
nó cũng chờn vờn, mơ hồ như sương như khói; rằng là, đây là kiếp sống ăn gởi, ở
nhờ, tạm bợ và phù du. Có cái gì đó không chắc thật, không vững bền. Dường như
là phải có một thế giới khác, một cảnh giới khác - nó rất thân thuộc, lại nằm
sâu đâu đó trong ký ức xa xăm! Có một tiếng gọi. Có một
tiếng gọi đò từ bên kia
sông vẳng lại. Có một cánh tay
đưa vẫy đâu đó ở cuối con đường, bên kia dốc núi! Đã có nhiều đêm, nhiều đêm
thiếp đã thao thức, thao thức một cõi về vĩnh cửu nào đó, mà thiếp không dám thổ
lộ với ai, kể cả chàng, thưa phu quân!
- Đúng, rất
đúng! Chính ta trước đây, đôi lúc cũng có cảm giác như vậy, cảm thức mơ hồ như
vậy!
- Hay là nhiều
kiếp trước đây, đâu từ xa xăm, chúng ta đã từng sống đời xuất gia phạm hạnh? Và
những cảm thức kia
là những nhắc nhở để trở về, đừng có lang thang, phiêu dạt nữa?
- Cảm ân phu nhân! Và chợt
như mới phát hiện, trưởng giả Visākha nhận xét - Thật là kỳ lạ! Sống
đã lâu với nàng, mà cho đến hôm nay, ta mới phát giác là nàng nói hay quá. Hay ở
ngôn ngữ, hay ở cung bậc, nhịp độ và hay ở âm thanh truyền cảm nữa! Đúng là nàng
phải xuất gia mới tỏ lộ hết đạo hạnh, trí tuệ và tài năng!
Bà Dhammadinnā
vui mừng nói:
- Cảm ân phu quân!
Ngay ngày hôm sau thôi, trưởng giả Visākha hoan hỷ đưa vị phu nhân xinh đẹp của
mình - bà Dhammadinnā - đến Ni viện trên cái kiệu vàng. Đức vua Seniya Bimbisāra hay tin chuyện hy hữu
nên đã cùng bà chánh hậu Videhi và hoàng tử A-xà-thế cùng đến dự lễ.
Đức Thế Tôn đã
biết chuyện này nên đã cùng các vị trưởng lão - sang chứng minh và cho bà thọ cụ
túc giới trước khá đông đủ Tăng Ni hai viện. Trưởng giả
Visākha làm thí chủ buổi lễ; và sau đó, đặt bát cúng dường Tăng Ni lưỡng viện
suốt một tuần lễ. Cũng suốt một tuần lễ ấy, đức Phật và các vị trưởng lão
thay nhau thuyết pháp, đôi ngày lấn sang cả đêm vì nhu cầu nghe pháp quá đông.
Rải rác trong thời gian ấy, khá đông các công nương, các cô tiểu thư, các cô gái đủ mọi thành phần trong xã hội xin xuất gia
tỳ-khưu-ni. Trong số họ, sau này, có nhiều bậc trượng ni làm nơi y chỉ vững chắc cho ni chúng!
Chuyện bà phu
nhân xinh đẹp đột ngột quăng bỏ tài sản, không nuốt vật đã mửa ra - là mấy trăm
triệu đồng tiền vàng - để xin xuất gia, trong lúc ông chồng, trưởng giả Visākha,
được đức Phật ngầm xác chứng đắc quả Bất Lai - lại chưa được đức Phật cho phép
đi theo giáo hội, được Tăng Ni bàn tán thảo luận nơi này và nơi khác.
Hôm kia, có mặt
đầy đủ Tăng Ni hai viện, hai hàng cư sĩ áo trắng, cả đức vua Bimbisāra - đức
Phật thấy là phải thời, nên vén mở bức màn quá khứ:
“- Bà
Dhammadinnā từ thời Phật Padumuttara là một cô ở gái nghèo hèn, hôm ấy đi múc
nước, trông thấy tướng hảo thanh tịnh của trưởng lão Sujāta - đại đệ tử của đức
Phật - phát tâm hoan hỷ cúng dường một chiếc bánh ngọt. Thấy căn duyên sau này
của cô gái, trưởng lão đã ngồi xuống và thọ dụng chiếc bánh ngay tại chỗ. Cô vô cùng sung sướng, thỉnh ngài về nhà và đặt thêm vật thực cúng
dường nữa.
Ông bà chủ thấy tính hạnh của cô gái, rất vừa lòng nên đã chọn nhận cô làm con
dâu trong gia đình. Sau đó, cô thường cùng với cả gia đình đi nghe đức Phật
Padumuttara thuyết pháp. Trong một lần cúng dường lớn đến đức Phật và chư tăng,
lúc ngài đang tuyên dương một vị tỳ-khưu-ni tối thắng đệ nhất về hạnh thuyết
Pháp, hoan hỷ quá, cô thầm nguyện sau này mình cũng sẽ được như vậy. Biết tâm tư
của cô gái, đức Phật Padumuttara đã thọ ký cho cô sẽ thành đạt nguyện vọng ấy
vào thời đức Phật Sākya Gotama, chính là Như Lai hiện nay. Vào thời đức Phật
Kassapa, cô gái sinh vào gia đình hoàng tộc, tại Bāraṇāsī, công chúa con vua Kikī, tên là Sudhamma.
Họ có bảy chị em. Cô trưởng công chúa thuở trước, bây giờ là
tỳ-khưu-ni Khemā. Cô công chúa út, chính là cô bé Visākhā, tại Bhaddiya, mới 7
tuổi đã đắc quả Nhập Lưu. Còn cô công chúa thứ sáu, chính là tỳ-khưu-ni
Dhammadinnā - mà sau này, theo với ước nguyện cũ đã được đức Phật Padumuttara
thọ ký, sẽ trở thành một vị tỳ-khưu-ni tối thắng đệ nhất về hạnh thuyết pháp
trong hàng ni chúng”.
Thuyết đến ngang
đây, đức Phật mỉm cười:
- Này, tỳ-khưu
Dhammadinnā! Cô có nhớ ước nguyện cũ khi quỳ bên chân đức Phật
Padumuttara không?
Vị tân
tỳ-khưu-ni cúi đầu, đáp lí nhí:
- Dạ, đệ tử do
quá khứ che ám nên không nhớ gì, không biết gì cả, bạch đức Tôn Sư!
- Là hạnh
đệ nhất về thuyết pháp đấy!
Vậy hãy cố gắng mà nghe pháp, suy tư pháp, chiêm nghiệm pháp - kết hợp với công
phu nghiêm túc hành trì, tu tập - rồi đến lúc cô sẽ thỏa được ước nguyện.
- Tâu vâng, bạch
đức Thế Tôn!
Chợt đức Phật
hỏi giữa hội trường:
- Tỳ-khưu-ni
Khemā, con gái của Như Lai đâu rồi!
Đại chúng hoảng kinh, vì khi đức Phật gọi con trai hay con gái - là ngài đã xác
chứng vị ấy đã đắc quả A-la-hán rồi. Nên khi tỳ-khưu-ni Khemā bước
ra, ai cũng chăm chú nhìn. Trước đây, bà nổi tiếng về sắc đẹp; bây giờ, dẫu mặc y hoại sắc, phá
tướng - nhưng nét kiều diễm, duyên dáng xưa vẫn không phai mờ. Trong mắt
một số người, thì bây giờ, cái đẹp ấy được phủ bên ngoài một lớp đức hạnh và trí
tuệ nữa, nên đã vượt xa phàm sắc thế tình, thiêng liêng và mỹ toàn hơn!
Riêng đức vua
Bimbisāra thì cảm giác một hạnh phúc tràn đầy, chất ngất!
Đức Phật hỏi:
- Vào thời đức
Phật Kassapa, cô là trưởng công chúa, con của đức vua Kikī, cô đã nhớ chưa?
- Bạch, đệ tử
nhớ rồi!
- Vị tân
tỳ-khưu-ni Dhammadinnā, cũng là công chúa, em gái thứ 6 của cô, cô vẫn còn nhớ
chứ?
- Bạch, đệ tử
nhớ. Đệ tử còn nhớ cô em gái út - mà bây giờ là cô bé Visākhā nữa. Ngoài ra, đệ tử còn biết rằng, 4 cô em còn lại, trước sau cũng tao
ngộ chánh pháp.
- Như Lai xác
nhận như vậy - và như để tuyên dương
công hạnh của tỳ-khưu-ni Khemā, đức Phật hỏi tiếp - Mấy năm nay, con
gái tu tập ra sao?
- Bạch Thế Tôn!
Có lẽ do duyên phúc cổ xưa dày dặn nên sau khi xuất gia xong, đệ tử tìm cách
thích ứng ngay với hoàn cảnh mới, đời sống mới. Hãy thôi đi thượng vị loại cứng loại mềm. Hãy thôi đi xiêm
lụa mịn màng, thơm tho với chất liệu và đo may tuyệt hảo. Hãy thôi đi
giường nệm, gối kê, gối đỡ êm ái, cao sang. Hãy thôi đi tới lui xe ngựa kẻ hầu người đón, kẻ quạt, người nâng! Hãy thôi đi
vào ra kiểu cách, quý phái tự khoe, tự hào về sắc đẹp của mình! Từ rày, ăn, mặc,
ngủ - gì cũng được, gì cũng xong! Tuy ban đầu thật là khó khăn, vất vả; nhưng cứ
cố gắng, cố gắng, cứ tâm niệm mãi, riết rồi cũng quen, cũng vô
vi, vô sự như ai! Khi đã thích ứng được rồi thì có được niềm vui tinh
thần vô cùng lớn lao! Niềm vui này nó rất nhẹ nhàng, rất thanh khiết, nó lâng
lâng hỷ lạc cả ngày! Hôm
kia, vào khoảng tháng thứ bảy sau khi xuất gia, đệ tử
nhìn ngọn đèn dầu lạc với tim và bấc, nó cháy sáng như thế nào rồi dần dần lụi
tắt như thế nào. Dựa trên nền tảng có điều kiện, sinh diệt ấy; đệ tử quán tưởng
cái thân được kết hợp hữu vi
này. Từ đó, đệ tử đi sâu vào cảm thọ, tâm hành... thì thấy
chúng cũng rỗng không, sinh diệt, vô tự tính. Khi thấy
rõ danh sắc sinh diệt quá nhanh đệ tử bắt đầu nhàm chán các dục, các ái - chứng
nghiệm sâu xa các trạng thái vắng lặng, tịch tịnh, thanh bình của tâm trí.
Ôi! Quả thật là hạnh phúc! Rồi cũng từ đấy, đệ tử dễ dàng đi sâu vào định, vào
tuệ, vào tuệ phân tích cùng các thắng trí! Thế là việc lớn, đệ tử đã làm xong,
gánh nặng tử sinh đệ tử đã đặt xuống, bạch đức Thế Tôn!
Chợt đức Phật
nói với tôn giả Sāriputta:
- Con gái của
Như Lai đã nói lên sự tu tập của mình, định, tuệ, tuệ phân tích và các thắng trí
- vậy ông có cách gì để cho đại chúng được thấy, được biết là con gái của Như
Lai đã thuần thục trong các định, tuệ, đắc Tứ vô ngại giải và tự mình thành
thục, thông suốt cả Abhidhamma (A-tỳ-đàm)?
- Thưa vâng,
bạch đức Thế Tôn!
Thế rồi, bậc
Tướng quân chánh pháp bước ra, mỉm cười, nhẹ nhàng đặt ba câu hỏi về sắc, ba câu hỏi về danh, ba câu hỏi
về uẩn, ba câu hỏi về xứ, ba câu hỏi về giới, ba câu hỏi về tâm, ba câu hỏi về
tâm sở, ba câu hỏi về sắc pháp, ba câu hỏi về Niết-bàn. Câu hỏi nào
cũng ngắn gọn nhưng trọng lượng cả ngàn cân. Câu hỏi nào cũng
hàm tàng kiến thức về giáo pháp nhưng nghiêng trọng ở kinh nghiệm, thực nghiệm
tu chứng nội tâm. Cả pháp đường yên lặng phăng phắc.
Một con ruồi bay cũng nghe được tiếng vo ve. Rồi tuần
tự, trầm tĩnh và chín chắn, tỳ-khưu-ni Khemā lần lượt trả lời, giải minh; không
bập bẹ, không phều phào, không ấp úng, không gián đoạn - mà nó lưu loát, gãy
gọn, sáng sủa, liền lạc. Nó trôi chảy như lượng nước của trăm con sông dài. Cũng không chỉ có vậy, nó như nước chảy ra tự nguồn, cái nguồn suối
trong vắt được tích lũy đâu tự ngàn xưa.
Như sợi dây đàn căng đúng độ, chỉ cần một va động nhẹ
là phát ra âm thanh... Tỳ-khưu-ni Khemā đã trả lời xong tất
thảy mọi câu hỏi.
Tôn giả
Sāriputta sau khi khảo nghiệm, đưa ra kết quả:
- Bạch đức Thế
Tôn! Đệ tử không hỏi về thắng trí vì biết vị tỳ-khưu-ni ưu
hạng này đã có đủ 6 thông. Còn về Tứ vô ngại giải và thông suốt
Abhidhamma - đệ tử dám tuyên bố là trong hàng ni chúng
chưa có người thứ hai!
Đức Phật tán
thán:
- Đúng là vậy!
Quả là hy hữu thay! Này con gái! Lời nguyện xưa, khi quỳ bên
chân đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara, cô đã thành tựu rồi đấy. Trước hội
chúng Tăng Ni và cư sĩ hai hàng, hôm nay, Như Lai tuyên bố, tỳ-khưu-ni Khemā là bậc đệ nhất, tối thắng về trí
tuệ trong hàng ni chúng!
Không có vinh
hạnh nào hơn, vinh quang nào hơn - khi lời tuyên bố ấy được nói ra từ đức Chánh
Đẳng Giác!
Đức vua Seniya
Bimbisāra chợt thực hiện một hành động rất đẹp - là sau lời tuyên bố của đức
Phật, ông đã bước ra từ chỗ ngồi danh dự, đến đảnh lễ đức Phật với năm vóc sát
đất. Rồi ông cũng làm như thế trước tỳ-khưu-ni Khemā với thái độ vô cùng tôn
kính, chậm rãi nói rằng:
- Trước đây,
nàng là bà hoàng, là bậc quý phi vô cùng trân quý của trẫm, nhưng nay thì khác
rồi! Nay thì nàng đã là bậc xuất gia phạm hạnh, còn là bậc đệ nhất về trí tuệ
qua xác chứng của đức Tôn Sư và bậc Tướng quân chánh pháp! Vậy, từ rày về sau,
trẫm với tâm phục, khẩu phục xin làm bổn phận của một đệ tử, một thiện
Nam
ngoan ngoãn và thuần thành nhất!
Cả giảng đường
lớn rộng rộ lên lời tán thán, ca ngợi không ngớt, lâu sau mới yên lặng được.
Đức Phật nói lời
cuối cùng, khép lại buổi giảng:
- Vậy là đã rõ,
ở đây cũng là duyên xưa lối cũ
nữa! Nhân, duyên và quả ấy thật là sâu thẳm, thật là nhiệm mầu.
Hãy ngẫm mà xem! Thế ra, đôi khi chỉ một cành hoa, một tí bột hương, một miếng
cơm, một muỗng canh, một cái bánh ngọt, một cây kim, một sợi chỉ, một ngọn đèn,
một hình bóng y vàng thoáng qua, một khung cảnh thanh tịnh của am môn, một lời
kinh, một câu pháp, một tình, một nghĩa... đã gieo ươm ở đâu đó, trong chợt
thoáng nào đó, trong một kiếp phù du trôi nổi bọt bèo nào đó - mà chúng có mất
đi đâu! Tất thảy, tất thảy hằng sa vạn tượng, khi một nhân đã gieo, một duyên hỗ
trợ, đã gặp gỡ, đã gắn kết... thì nó sẽ trùng trùng duyên khởi, duyên sở duyên...
để trước sau, sớm muộn cũng tao ngộ chánh pháp, đặt được bàn chân bất tử trong
giáo pháp của chư Chánh Đẳng Giác! Các người hãy ghi tâm, khắc cốt lời của Như Lai hôm nay.
Cả pháp đường
vang lên “ Sādhu,
lành thay!”.
·
Trích từ sách: Một Cuộc Đời - Một Vầng Nhật Nguyệt 3
·
Tác giả:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh