Vọng Thái Sơn

vong thai son

Hạnh Phương

 

 

Thuở ấy,ở quê nhà, tôi nghe ông bác thường gọi cha bằng “eng” (anh), thằng Lợi bạn học lớp năm trường làng với tôi (lớp Một bây giờ)  , gọi cha bằng chú, con các chú tôi gọi bằng “ ba “,  chập chửng lớn lên, tôi gọi theo các anh chị, gọi cha bằng cậu, Và cũng thật là lạ, khi các ông cha sắp có cháu nội hoặc cháu ngoại, thì lập tức được đôn lên một chức. con họ gọi họ bằng ông, trong họ ngoài làng cũng từ đó, lấy tên người con đầu, con trưỡng của họ mà gọi ông nọ, ông kia,,,và từ đó cái tên thường gọi ông nọ ông kia trở thành tên húy kị, chỉ ẩn mật  tồn tại trong gia phổ.  Tính theo phổ hệ gia tộc tôi thuộc đời thứ mười lăm trong họ, ngược lên đời thứ mười bốn, tôi còn được nghe các chú, các bác gọi cha bằng “bọ”. Theo địa lý vùng miền, thì người miền Bắc gọi cha bằng “bố”, người miền Nam ảnh hưởng ngữ âm người Việt gốc Hoa, gọi cha bằng “tía”.

 

 

Thật kỳ lạ,với thái độ thật cẩn trọng, cố lắng mà nghe, tôi chưa bao giờ   được nghe thấy bất cứ ai gọi cha mình bằng tiếng gọi thân thương là “cha” cả.  Tiếng cha linh thiêng, tiếng gọi thuần Việt, hình như đã vắng bóng, đã lẫn khuất đâu đó trong tiếng nói đời thường.

 

Công cha như núi Thái Sơn

, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”,

                             

” Công cha nghĩa mẹ cao vời…”,

                            

“Con không cha như nhà không nóc”,

 (Ca dao,tục ngữ)

“An Di con ơi ! Mẹ con nói phải đấy, cha chưa bao giờ trông thấy con đi học với dáng điệu hiên ngang và quả quyết…”

(Tâm hồn cao thượng-Aidmon De Amicis-Bản dịch Thẩm Thệ Hà)

                             

 

 

 Rồi một hôm nếu về cha hỏi,

Mẹ ở đâu con biết nói sao,

Con lặng chỉ cây đào trước ngõ,

Bên cây tùng rồi đứng lặng yên…”  

( Thái Cang )

Tôi thoáng bâng khuâng nghĩ tưởng, không biết do duyên cớ nào, tại sao tiếng gọi cha thân thương  trong ngôn ngữ đời thường của chúng ta, chì còn tồn tại trong ca dao tục ngữ, trong văn học thành văn, nơi những câu văn, câu thơ mượt mà, bóng bẩy, nơi những dòng chữ biểu cảm lòng biết ơn, nhớ ơn, hiếu đạo, hiếu nghĩa, Xót xa thay, hình như nó đang sắp vắng hẵn trên khẩu hình biểu hiện tiếng nói đời thường của người Việt Nam!!!Tôi thèm được nghe những tiếng  nói tỉ tê, nủng nịu ‘Cha ơi ! Giải giúp cho con bài toán khó nầy; Cha ới Chiều nay cha có đi đâu không ? Hoặc có khi than thở với cha :’ “Cha ơi! Lăn xả vào đời con mới thấy cuộc sống đúng là vất vã quá cha nhỉ !

 

Thú thực, tôi đang bâng khuâng tiếc nuối…Nhưng rồì tôi tự an ủi mình : có lẽ, do âm hưởng tiếng gọi cha giữa đời thường trầm lắng xuống, ẩn khuất dần đi nên tính cách tiếng gọi ấy trở thành  mật ngữ, ẩn ngữ thiêng liêng  trong  tâm thức ngưới  Việt  mình đó chăng ? Nó đang dần trở thành tiếng Việt cổ, để mai kia các nhà ngữ học nghiên cứu. màng nghĩ suy về dòng chảy văn hóa chúng ta đang sống bây giờ để họ cũng bâng khuâng nuối tiếc…

 

Tu đâu cho bằng tu nhà,

 Thờ cha kính mẹ mới là chân tu, “

 “Ân cha  nặng lắm ai ơi,

“Công cha đức mẹ cao dày,,.

 Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ

 

Trong kho tàng văn chương Việt Nam từ ngàn xưa đến nay, đã có nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trên văn đàn viết  văn thơ, ca dao, ca tụng về người mẹ. Những hình ảnh cao quý, hiền hòa của người mẹ được diễn tả như “vầng trăng tròn huyền ảo, ngọt ngào như nguồn suối  trong lành…chứa đầy chất lượng yêu thương để nuôi con mau lớn, trí tuệ thông minh”. Có nhiều địa phương dân gian đã khéo vận dụng những hình ảnh sát sườn, chân thực để so sánh người mẹ như " chuối ba hương,xôi nếp một ". Có những bài nhạc, ca tụng người mẹ dịu hiền, có tình yêu thương con bao la như "biển Thái Bình dạt dào..."

Còn những hình ảnh đẹp đẽ của người cha được các văn nhân, thi sĩ đã diễn tả như thế nào? Nhiều từ ngữ câu văn, bài thơ, ca dao trong dân gian diễn tả về người cha cũng tràn đầy lai láng về tình yêu thương sâu sắc và phong phú đối với các con trong gia đình thật ngọt ngào, trong sáng như vầng thái dương…Nhưng luôn ở một cấp độ khác.

Vâng, đúng như vậy, người cha là trụ cột vững chắc trong gia đình cũng chịu thương,  chịu khó nuôi con khôn lớn và thành đạt. Ngoài ra người cha còn tỏa ánh sáng rực rỡ, chăm sóc, lo cho mái ấm gia đình được hạnh phúc. Trước khi ca ngợi công ơn của mẹ, ca dao Việt Nam cũng ca ngợi  công ơn cha cao vời như núi Thái Sơn cao chất ngất giữa trời xanh, mây trắng.Tuy người cha cũng có trái tim yêu thương tuyệt vời như mẹ nhưng bao giờ cũng thâm trầm, sâu lắng.

 

Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẩn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, có trí tuệ khoa học, có đủ tài, vừa đủ đức toàn diện, mới trở thành người con ngoan trong gia đình và người học trò giỏi nơi nhà trường. Đối với đất nước là người công dân tốt để xây dựng tổ quốc được giàu mạnh, sánh vai với cường quốc trên thế giới. Vì thế bổn phận làm con phải hết lòng hiếu thảo, yêu thương kính trọng công ơn cao cả của cha,của mẹ: “ Một lòng thờ mẹ kính cha,cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

 

Các câu ca dao trên tuy ngắn gọn mà diễn tả được nhiều ý nghĩa sâu sắc về tình thương cao cả của người cha, ngang bằng với tình thương của mẹ đối với con cái trong gia đình. Câu ca dao đã so sánh công sinh thành dưỡng dục của cha lẫn mẹ đều có công lao như nhau” tất cả đều hy sinh cho con” để trở thành người hữu ích cho xã hội:"Công cha sinh thành dưỡng dục,Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang.

Trong gia đình cha là thành trì vững chắc, âm thầm che chắn phong ba bão tápbất thường ập đến, cha luôn là người đầu tiên sẵn sàng, quả quyết hi sinh cả tính mạng mình để bảo vệ hạnh phúc, cho mái ấm gia đình được yên vui.”Con không cha như  nhà không nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi, Còn cha gót đỏ như son… cha là người mở đường khai phóng cho con dấn thân hình thành sự nghiệp.

Rất nhiều câu ca dao, tục ngữ đã so sánh ý nghĩa rất quan trọng về trách nhiệm của người cha thật cần thiết trong gia đình để quyết định tương lai và sự nghiệp nuôi dạy con trở thành người tài giỏi, có sự nghiệp vẻ vang. Trên bình diện học đường, xã hội còn kết hợp công đức giảng dạy của người thầy rất cao cả, thật rông lớn.

Đa số trong gia đình, người con vẫn cảm thấy gần gũi người mẹ hơn cha, bởi vì người mẹ thường nâng niu, chìu chuộng, chăm sóc và hay lắng nghe lời tâm sự của các con. Đồng thời mẹ thường động viên, an ủi con khi gặp rắc rối, ưu tư đã vấp phải ở trường học.   ngoài xã hội. Còn ngưòi cha thì bẩm sinh trầm lặng, nghiêm khắc ít nói, luôn luôn suy tư nhiều công việc trong gia đình. Cho nên người con ít gần gũi với người     cha , ít khi bày tỏ ưu tư hay khó khăn của cuộc đời bị vướng mắc cho cha nghe để người cha góp ý giúp con vượt qua tất cả khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.

 

Hình tượng người cha qua phong dao, tục ngữ, qua lăng kính tri thức văn học  bác học  luôn là hình ành lý tưởng, mẫu mực, mô phạm. Ngay cả khi cha còn tồn tại giữa đời thường thì hình ảnh cùa cha cũng đã là hình ành để tôn thờ, ngưỡng vọng.  Nghe đến núi Thái Sơn, dù chưa biết thực tế nó ở nơi đâu, cương vức địa lý khu vực, quốc gia, lãnh thổ nào, nhưng trong tâm thức đứa trẻ thơ ngây nó tưởng tượng thấy đó là một ngọn núi cao vòi või, cao ngút tận trời  xanh…

 

Ngay giữa cuộc sống đời thường, mẹ bao giờ cũng thân thương gần gủi với con, ngược lại cha bao giờ cũng nghiêm khắc ,đạo mạo ; người cha như một ông thầy  mô phạm cho con cái,  Tôi vẫn thường nghe nhiều người, nhất là phái nữ, nói về hình ảnh cha mình, hào hoa phong nhã ở ngoài xã hội, nhưng bước vế đến ngõ nhà, con cái nghe tiếng đằng hắng của cha là đả khép nép sợ hải,. Nhà tôi thường kể cho tôi nghe rằng,ông nhạc tôi làm sếp ga ở Phò Trạch, Thừa Thiên-Huế, thình thoảng mới về thăm nhà ở Quảng Ngãi, bất thình lình nghe ông về là anh Hai đang bắt cá ngoài ao ngoài hồ, hay đang leo cây bắt chim là lo vất bỏ hết, rửa ráy tay chân sạch sẻ,chạy vụt về nhà, lẽn cửa sau, vào vờ ngồi ở bàn học.Oai nghi của ông cha là như thế đấy.

 

Cha tôi vắng bóng giữa cuộc đới quá sớm, ông để lại cho chúng tôi duy nhất một tấm di ảnh vào khoảng độ tuổi chưa đầy bốn mươi, thời buổi chiến tranh tang thương đổ nát, nhà tôi bom Mỹ dội tan hoang, may sao trên đường chạy loạn tôi còn kịp mang theo tấm di ảnh duy nhất ấy Tôi vẫn thường nghe mẹ, nghe các chú thím, các o kể lại, cha tôi là người nghiêm khắc, mẫu mực…các o, các thím ở nhà dưới đang làm việc, hứng lên cười cợt bông lơn vui đùa tí chút, ở đầu nhà trên cha tôi nghe thấy ,dằng hắng một tiếng, là ở nhà dưới, mọi người đã im phăng phắc.

 

Tôi âm thầm mang triu trĩu một nỗi đau, là trọn đời mình chưa hề được tiếp xúc với cha, chưa bao giờ biết gì về cách thế ông ứng xử trước cuộc sống. Vì thế tôi luôn như một hành nhân thui thủi giữa đới thường đi tìm một ảnh tượng cao vời mà biết chắc rằng mình không bao giờ trông thấy được. Và từ đó thao thức lý giải hình ảnh những người cha của những người thân mình được tiếp xúc.

 

Kìa là một người cha kham nhẫn; ông có tới chín người con, vào giai đoạn sau bẩy lăm, cuộc sống bình nhật gia đình hoàn toàn bị đảo lộn, một mình ông trăm phương ngàn kế, vật vã cuộc sinh nhai, mua bán ve chai, đồ cổ, rồi viết báo, in sách… ít khi tôi thấy ông tỏ ra mệt mõi, hay càu nhàu con cái, ông luôn có nụ cười dí dõm,tủm tỉm trên môi. Tôi quý mến ông, nên hay mường tượng tự hỏi, cha tôi thường có những nụ cười dí dõm như vậy không ?

 

Gia đình tôi truyền thống thờ Phật, vừa độ tuồi học hiểu được đôi điều giáo lý nhà Phật, mẹ vâng lời ông bà nội dẫn tôi lên chùa ,xin thầy cho quy y. Từ đó, cứ mỗi đầu tháng, giữa tháng tôi theo mẹ lên chùa lễ bái, tụng kinh…Khuôn mặt thầy hiện rõ nét thuần từ, nhân ái. Tôi thấy hình như thầy có biệt nhãn với tôi, trong ánh mắt thơ ngây, tôi thấy, thầy có vẻ thương tôi hơn những đứa trẻ cùng trang lứa; Khi thì trái chuối, lúc trái cam, có khi là cái bánh, thầy thường cho tôi quà. Dần dần tôi càm thấy thầy gần gủi như một người cha. Thầy thường giảng giải cho tôi những bài học giáo lý căn bản, khuyên tôi vào sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử, Thầy cũng thường nhắc nhủ tôi chăm chỉ học tập bài vở ở nhà trường. Được thầy thương yêu che chở, tôi dần vơi bớt tự ti mặc cảm mồ côi cha, và cũng dần vơi bớt nỗi buồn túi trước những định kiến bất công, một chiều của tư tưởng dân gian như ‘Con không cha như nhà không nóc’.

 

Trước kia, nghĩ về cha, tôi thường mơ tường tới đĩnh núi Thái Sơn vòi või. Đĩnh núi cao ngất ấy tôi không bao giờ vươn tới được, bây giờ tôi đã lớn khôn hơn tí chút, lại được thầy bổn sư nâng đỡ tinh thần, được thầy dạy cho điều hơn lẽ thiệt tôi thấy mái chùa như mái ấm gia đình, vì vậy tôi cảm thấy mình vửng chải hơn trong những bước chân vào đời.

                                                              

Chia sẻ: facebooktwittergoogle