Vĩnh Hảo
(Kính tặng
Ba Me nhân mùa Vu Lan năm 2011)
hình ảnh minh
họa: Vu Lan Đồng Vọng
Mỗi khuya thức
dậy, nghe mõ nhịp nhàng, nghe chuông nhẹ điểm, hòa trong tiếng tụng kinh nho nhỏ
mà tha thiết chân thành của mẹ; gần đó, hồng chung
chùa sư nữ Vạn Thạnh ngân vang, xa xa vẳng tiếng chuông Hải Đức dội về. Tất cả
những thanh âm thiền vị, sâu lắng và đẹp đẽ nhất đã nuôi dưỡng tâm hồn nhạy cảm
của tôi từ lúc bé thơ.
Tôi lớn
lên từ chiếc nôi đó. Chiếc nôi đặt giữa thành
phố Nha Trang bé nhỏ, hiền hòa. Trở mình, chợp mắt, có thể nhìn thấy dáng mẹ
trang nghiêm trong chiếc áo tràng lam, một mình trì tụng kinh Pháp Hoa cùng lúc
với thời công phu khuya của các chùa lớn nhỏ chung quanh. Những hình ảnh và âm
thanh ấy có lẽ được ghi lại rõ rệt vào tuổi lên năm, lên bảy; và đi ngược thời
gian xa hơn nữa, tôi đoán chừng có cậu bé chưa thôi nôi, nằm im, mở mắt thao láo,
dõng tai lắng nghe tiếng chuông mõ và giọng tụng kinh trầm ấm của mẹ hiền mỗi
khuya.
Thế rồi
lớn khôn lên một chút, tôi đã biết đi chùa sư nữ để tụng kinh Pháp Hoa vào mỗi
tối. Tụng đọc lại những lời kinh mà mẹ tụng hàng ngày
trước đó.
Mỗi tối, mỗi tối, và mỗi tối tụng đọc, lời kinh lan
thấm trong máu huyết tôi, để rồi một ngày nọ, tôi xin đi tu. Chuyện đi tu không
đơn giản. Nhà đông người, người ý này, người ý nọ. Nhưng ba mẹ cũng đã
chiều theo ý tôi. Nha Trang nhiều
chùa, nhiều thầy, mẹ phân tích và so sánh cho con từng nơi, cho phép con chọn
lựa. Con đã chọn vị thầy khó nhất, và ngôi chùa ở trên đồi cao nhất: chùa
Hải Đức! Tập luyện và học kinh từ chùa sư nữ gần nhà, rồi xuất gia nơi ngôi chùa
có tiếng chuông linh thiêng điểm vào tâm con mỗi sớm. Con trở thành chú tiểu từ
đó.
Lần đầu
về thăm nhà, bỡ ngỡ như một người khách. Đi tu khó không, khổ nhọc không?
Ánh mắt ba nhìn tôi như trào ra những câu hỏi ấy. Không, ba ơi, con vui
lắm, con không thấy khổ. Ở chùa, thức dậy lúc ba giờ rưỡi sáng ngồi nghe chuông,
niệm Phật, đọc các kệ chú, rồi bốn giờ tụng thời công phu khuya, giống như thuở
bé con thức giấc nghe me tụng đọc kinh Pháp Hoa, không khó đâu.
Ba không bật ra câu hỏi, tôi cũng không buông ra câu trả lời. Cha con
nhìn nhau, thương yêu, đầm ấm.
Một lần
khác thăm nhà, chỉ có ba mẹ ngồi bên con, chú tiểu ngơ ngác. Ba ôm vai con, nói:
“Chị con du học bên Mỹ đã
lấy bằng tiến sĩ văn chương, dạy đại học bên đó, ba mẹ rất vui, rất hãnh diện.
Nhưng ba có thể nói rằng có một đứa con xuất gia, ba me cảm thấy phước báo vô
cùng, không niềm vui nào to lớn hơn.”
Mẹ gật gù tán đồng, đôi mắt
tràn thương yêu nhìn chú tiểu:
“Đúng
vậy, đúng vậy đó con.”
Ba mẹ đâu
nói chi nhiều. Chỉ ngần ấy thôi.
Tiễn con về với chùa, theo thầy bạn. Một năm, hai năm, ba năm… Con mỗi lúc một xa,
không thường về thăm nhà. Sinh nhật chú tiểu, mẹ lên chùa thăm con, âm thầm tặng
một bài thơ, gói theo
hộp bánh dẻo.
Chiều thu thăm con ở chùa
“Đồi mùa thu trải lá
Non tây hút mặt trời
Sương lành thâu nắng ngã
Chuông chùa ngân chơi vơi…
Dưới thấp bước lên cao
Me để thành phố lại
Bỏ sắc đời hư hao
Quên chuyện đời khôn dại…
Bằng hai bàn tay không
Me ôm đầy tâm niệm
Khuyên con luyện chí đồng
Me quỳ dâng mật nguyện…
Trở về cao xuống thấp
Sương mớm lá
thu vàng
Trên đồi như nai nhỏ
Áo nhật-bình màu lam…”
Mật
nguyện của mẹ là gì, chưa bao giờ mẹ nói ra. Con cũng chưa bao giờ hỏi.
Mẹ con lẳng lặng giao cảm tâm với tâm.
Mười năm,
mười lăm năm, con trôi giạt những phương trời. Ba mẹ âm thầm dõi theo
bóng con, học ở đâu, tu ở đâu, hành đạo ở đâu… Thoảng khi
tương ngộ, chỉ im lặng nhìn con, chú tiểu năm xưa đã trưởng thành. Bao
năm học đạo, phước duyên thọ giáo các bậc đạo hạnh chân tu, biết tâm chí hạnh
nguyện bây giờ đặt ở cảnh giới nào!
Mười bảy
năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn.
Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm
Kinh Bát Nhã như ba vẫn thường tụng mỗi ngày. Ba không thuộc
nhiều kinh, ba chỉ biết tụng duy nhất bài kinh ngắn Bát Nhã.
Giọng ba tụng lí nhí, nho nhỏ, không chuông không mõ. Giờ con cũng tụng
cho ba, không mõ không chuông và không cả lời.
Hai mươi
năm, giũ áo ca-sa, thôi không làm tiểu nữa. Mẹ vui con có bạn đời tốt, nhưng mẹ cứ khóc. Mẹ
ơi, mẹ đừng khóc nữa. Dù thế nào, con vẫn còn là chú tiểu năm xưa đây mà!
Con biết và con tin như vậy.
Mẹ thấy
không? Hai mươi hai năm sau kể từ ngày xa mẹ, khi chân
con hãy còn chập chững trong dòng đời, bỗng một phút quay nhìn, thấy mình chưa
hề rời xa chốn ấy. Vẫn là cảnh giới cao đẹp, trong sáng, tĩnh lặng của
năm nào. Từ đó, con đã viết tặng các chú tiểu, mà cũng là tặng ba mẹ: Thiên
Thần Quét Lá.
Tác phẩm ấy không nói gì cao siêu, chỉ nói cái chí nguyện ban
đầu của người học đạo. Chí nguyện ấy, một khi đã phát
khởi, làm sao có thể mất đi được?
Dù không còn để chỏm, không còn mặc áo nâu, nhưng việc quét lá, là trách nhiệm
của con kia
mà! Con biết chí nguyện của con không kiên cường như mẹ mong đợi. Nhưng con
đường, vâng, thưa mẹ, con đường ấy, con đã thấy.
Bốn mươi
năm, nhìn lại. Tóc đã ngã hai màu trên
đầu, mà lòng vẫn như con trẻ, thiết tha nhớ giọng đọc Bát Nhã của ba; nhớ lời
kinh Pháp Hoa mẹ tụng; nhớ tiếng chuông chùa nuôi dưỡng tâm con từ ấu thời.
Chính những âm thanh, ngôn từ, cảm xúc, ý chí, tâm tư ấy, đẩy con xa khỏi vòng
tay yêu thương của ba mẹ đến mấy mươi năm. Và trên bước viễn hành, con
đường càng lúc càng mở rộng theo sự dìu dắt bởi các bậc
thầy của con. Nhưng con không bao giờ quên rằng, ba mẹ chính là những vị thầy
dẫn đạo ban đầu, đưa con vào lộ trình thênh thang của một thiên thần quét lá.
California, ngày
19 tháng 7 năm 2011.