Để giải thích bằng cách nào mà người ta nhận ra được trạng thái
vô niệm, hay
vô tâm, tôi sẽ trình bày về tự tính qua sự phân tích bằng lược đồ, như thuật ngữ
đã được dùng trong Đàn Kinh. Lược đồ ấy là cái mà ta có thể xem là cái
nhìn nhất thời, và nếu như nó không được giải thích bổ sung bằng ý niệm không
gian, thì ý tưởng này có thể bị hiểu nhầm.
Sự tỉnh thức của Bát-nhã trong thể của tự tính, nơi mà ý thức được phân
biệt với vô thức, có thể cho rằng sự kiện ấy diễn ra từ vùng quá khứ xa xăm nào
đó, và thế giới hiện tại với những tính đa tạp, hỗn độn, lo âu, thoát thai từ
thế giới ấy, do đó, người ta có thể cho rằng mục tiêu của việc tu tập là siêu
việt hẳn cuộc sống hiện tại và khước từ trạng thái uyên nguyên của sự hiện hữu.
Đây là sự nhầm lẫn và đi ngược lại thực tế của kinh nghiệm. Các triết gia Phật
giáo thường nói đến “khoảnh khắc không có sự khởi đầu vô thuỷ 無 始”
hoặc là “Cái trước tiên nhất tối sơ 最 初,”
ở đó, vạn pháp hiện hữu trong một trạng
thái không phân biệt. Điều này có thể gợi ra một tiến trình, và trong sự phối
hợp với sự phân tích bằng lược đồ của chúng ta, ý niệm thời gian có thể được
xem như là cốt yếu. Để tránh khỏi sự nhầm lẫn nên xin cống hiến thêm một lược
đồ không gian nữa, hy vọng sẽ trợ giúp thêm trong việc tin nhận đúng đắn giáo lý
của Huệ Năng.
Thực vậy, ý niệm về thời gian có quan hệ mật thiết với không
gian, và chẳng có kinh nghiệm nào tiết lộ bí mật của chính mình, trừ phi nó được
khảo sát đồng thời dựa trên quan điểm không gian và thời gian. Quan điểm thời
gian đương tại bao hàm quan điểm không gian; hai quan điểm ấy không thể tách
rời nhau. Luận lý học của Thiền chắc hẳn phải tồn tại đồng thời qua không gian
và thời gian khi chúng ta nói về sự thức tỉnh của Bát-nhã. Còn khi nói về sự
phân biệt giữa ý thức
và vô thức trong bản thể uyên nguyên của tự tính, có nghĩa là chúng ta đang ở trong đỉnh điểm kinh nghiệm thực
tế của sự phát khởi này. Sự phân biệt hay chính sự vận hành của bản thể vô thức
trong sinh hoạt thường ngày của chúng ta, tự nó sẽ băng qua đời sống một cách
nhất thời. Vì đời sống không chỉ tiến triển theo thời gian trên đường thẳng mà
còn theo vòng tròn, và vận hành trong không gian.
Lược đồ hình trụ (h-2), biểu tượng cho cấu trúc kinh nghiệm cuả
chúng ta. Mặc dù nó được cắt thành nhiều mặt bằng và bị giới hạn bởi các đường
thẳng, trên thực tế, hiển nhiên không có những phần như thế, cũng chẳng bị giới
hạn gì cả. Kinh nghiệm vốn không có tâm điểm, chẳng có chu vi, lược đồ hình trụ
ở đây chỉ giúp chúng ta tưởng tượng ra thôi. Xuyên suốt toàn thể lược đồ có một
đường phân chia ranh giới giữa ý thức và vô thức, nhưng chính trong tự tính vốn chẳng có sự phân chia
như thế, vì đó là sự phát khởi của Bát-nhã trong tự tính đã khởi
động toàn bộ sự vận hành của bộ máy. Do vậy, bình diện Bát-nhã cũng chia làm hai
phần: Ý thức Bát-nhã và Vô thức Bát-nhã.
Bát- nhã nhìn theo hai hướng đối nghịch, đó là một mâu thuẫn
lớn, và từ mâu thuẫn này phát sinh ra toàn cảnh đời sống chúng ta. Tại sao có
mâu thuẫn này? Mâu thuẫn xuất phát từ nghi vấn của chúng ta về chính cuộc sống
ấy.
Vô thức Bát-nhã nhắm đến tự
tính và chính là tự
tính. Vô niệm phát sinh ra từ đó và thông qua Bát-nhã nó liên lạc trực
tiếp với tự tính, vô thức Bát-nhã phát triển vào trong tâm ý thức, nơi mà
tự tính giao tiếp với thế giới ngoại tại, hoạt động nhờ vào tâm lý học, và
sau đó Bát-nhã lại chịu tác động của tâm lý học này. Tâm ý thức là nơi mà chúng
ta hình thành ý niệm về cái tôi, và khi ý niệm này quên mất sự thực là sự
hiện hữu của nó đều được hỗ trợ bởi vô niệm, thì cái tôi cá nhân lại được khẳng
định. Giáo lý Phật giáo về vô ngã
tương đồng với giáo lý vô niệm. Đó là không có ngã thể hoặc linh hồn bản
ngã, có nghĩa là ý niệm về một cái ngã chỉ khả hữu khi tự mâu thuẫn với chính
nó; nghĩa là chính tâm ý thức phải là vô niệm (vô tâm).
Vô thức còn mang nhiều tình trạng bất ổn trên bình diện giác
quan (thấy–draṣṭā, nghe–śruta) và sự suy nghĩ hiểu
biết (s: mata-jñāta), tương ứng với “vô thức”
trong tâm lý học phân tích hay Phân tâm học. Vô thức là điểm hẹn của
thần và quỷ. Nếu không được hướng dẫn đúng đắn bởi Bát-nhã và hiểu được ý nghĩa
và dụng của vô thức, thì người ta dễ bị rơi vào bàn tay đen tối của quỷ. Theo
phân tâm học, vô thức không đủ sức đi xa để bao quát hết những vấn đề của vô
niệm.
Lược đồ 3, nhìn từ quan điểm không gian, cố gắng giải thích cùng
một thực tế của kinh nghiệm như Lược đồ 2. Phía dưới đường phân hai, chúng ta
thấy hai phần của vô thức: tâm lý học và siêu tâm lý học. Trong phần dưới bao
gồm cả Vô thức Bát-nhã và vô niệm (vô tâm), để chứng tỏ rằng chúng có nội
dung giống nhau trong tất cả mọi điểm. Vô niệm (vô tâm) như vậy là do đối lập
với tâm thường nghiệm mà có tên gọi như thế, nhưng từ phương diện thực chứng
Bát-nhã thì nó chẳng có gì khác hơn là Bát-nhã.
THẾ GIỚI NGOẠI TẠI
Lược đồ 2
Tự tính Lược
đồ 3
Trên bình diện ý thức, Bát-nhã có thể được xem như tương quan
với tâm-ý-thức, nhưng đó là tâm nhận thức riêng trên khía cạnh (hiểu biết) của chính nó, trong khi
Bát-nhã là thể tính của vô niệm. Nếu chúng ta trích dẫn một vài triết gia và
khẳng định về một “nhận thức siêu việt” thì người ta có thể nói
rằng Bát-nhã bị chia sẻ phần nào với quan điểm này. Thông thường, tâm thức bị
choán đầy bởi những những dự tính hướng ngoại mà quên rằng ngay sau lưng chính
nó là một hố thẳm không đáy của vô thức Bát-nhã. Khi sự chú tâm của nó hướng ra
bên ngoài, thì nó dính mắc với một ý niệm về bản ngã. Chính khi nó quay ngược sự
chú ý vào bên trong thì nó nhận ra vô niệm
Vô niệm đây chính là Bát-nhã trên bình diện vô thức.Tuy nhiên,
nó cũng thường bị nhận lầm là rơi vào hư vô, một trạng thái hoàn toàn
trống không. Ở đây vẫn còn chút dấu tích của nhị nguyên; cái gọi là trống
không kia vẫn còn có biểu tượng đối nghịch với
hiện hữu, vì giáo lý vô ngã vẫn
còn khiến cho nhiều người băn khoăn. Họ cố gắng để hiểu được giáo lý ấy trên
bình diện luận lý học, nghĩa là, thông qua phản đề của ý niệm về ngã. Tuy nhiên,
giáo lý vô ngã là để thực chứng, như khi đức Phật nói lên bài kệ sau đây, giáo
lý vô ngã trở nên tự tại trong mọi phồn tạp của luận lý học, vằ chẳng còn hố
thẳm nào rộng mở trước ý niệm ấy nữa mà là một niềm khinh an tột cùng, một sự an
lạc vô bờ bến.
Trong vòng sinh tử vô cùng tận
Luân hồi qua lại không manh mối
Ta đã qua vô số bào thai
Để tìm người tạo dựng ngôi nhà
Ta đã tìm ra kẻ tạo tác rồi
Ngươi không thể làm gì được nữa
Kèo cột đã gãy liệt
mái sườn đã sụp đổ
Tâm đã lìa xa mọi tạo tác
Mọi thứ đã chuyển hóa sạch rồi.
Chúng ta đã quá giỏi biện luận trên bình diện nghĩ và biết (giác-tri),
mãi suy tưởng trên tâm thức suốt ngày. Nhưng kinh nghiệm gạt bỏ mọi chất liệu
giả định từ tri thức vốn không bao giờ nhắm đến sự trống không nhưng lại quy
hướng về sự an lập và mãn nguyện.
Những ai không nắm bắt được giáo lý vô ngã thường thắc mắc: “Ở
đây ai là người mãn nguyện khi chẳng có linh hồn?” Khi điều này được trả lời một
cách hợp lý, như họ mong muốn, thì họ sẽ nghĩ rằng giáo lý vô ngã là phi lý.
Nhưng vô ngã chẳng phải là kết quả của lối suy luận hợp lý, mà nó là kinh nghiệm
thực tế. Nếu ở đây cần đến luận lý học, thì trước tiên phải nắm lấy sự kiện và
nỗ lực xây dựng một cấu trúc luận lý về nó, nhưng không được đảo nghịch. Nếu một
dạng luận lý học nào đó bị hỏng, hãy cố gắng thiết lập một cơ cấu khác cho đến
khi nào mình hài lòng. Các nhà luận lý học hãy nhớ sự kiện này. Và trong ý tưởng
sai lầm ấy, đời sống tôn giáo chính là kinh nghiệm.
Một vị tăng hỏi một Thiền sư:
– Thầy nói gì khi tâm cảnh đều quên?
Tâm cảnh là thế giới tương đối, nơi chủ và khách đối nghịch với nhau,
người biết khác với cái biết, một khác nhiều, linh hồn khác với Thượng đế, tôi
khác anh, v.v...Quên lãng ý niệm này có nghĩa là siêu việt hẳn thế giới nhị
nguyên và thể nhập vào tuyệt đối.
Rõ ràng là vị tăng đang bị trôi theo trình tự luận lý học như
hầu hết mọi chúng ta, như đa số đệ tử thời đức Phật còn tại thế đã làm, chẳng
hạn như Malunkyaputta đã đặt những vấn đề siêu hình với Đức Phật. Đức
Phật luôn kiên nhẫn với người hỏi đạo, và, cũng như kẻ tiên tri thấu thị Ấn Độ,
Đức Phật bình thản nói cho họ biết những cấu trúc của đời sống tôn giáo có sự
khác biệt rất xa với sự biện luận hợp lý về đời sống.
Nhưng các Thiền sư Trung Hoa thì không xử sự bằng lối kiên nhẫn
và từ hòa như vậy, dù ngay cả khi Thiền sư không đánh và trả lời hoàn toàn vô
lý. Trong trường hợp này, Sư Hung T'ung ở núi A-dục vương, người nhận được câu hỏi
trên, đã trả lời rằng:
– Một con cóc ba chân cõng một con voi khổng lồ trên lưng.
Lời phát biểu nghiêm túc ấy thực sự có ý nghĩa gì? Nếu đó không
phải là cực điểm phi lý, thì ít ra cũng có phần xúc phạm đối với người cần cầu
chân lý. Tuy nhiên, gạt hẳn tính chất xúc phạm này ra, câu trả lời có ý nhắm đến
sự phi lý, vô nghĩa và khiến chúng ta vượt ngoài tầm hiểu biết luận lý của mình,
để chúng ta có thể khám phá chân lý biểu hiện trực tiếp chính kinh nghiệm không
nhuốm màu tri thức. Ở đây ẩn chứa lòng từ bi chân thực của Thiền sư.
Tuy nhiên, trước khi cách đối trị những vấn nạn siêu hình này
xác lập được phương pháp riêng của của nó từ các Thiền sư Trung Hoa, có thể nói
nó đã được “có lý” hơn, theo một ý nghĩa thông thường. Một trong những thủ bản
Đôn Hoàng được tìm thấy gần đây,
ghi chép lịch sử thời sơ khai của Thiền, cho chúng ta biết mẫu chuyện sau:
Đây là lời nói của Thiền sư Vô Trụ đời Đường dạy cho đệ tử
của mình là Vô Hữu:
– Ta có một câu chuyện: Xưa có một người đứng trên đỉnh cao,
chợt có một đoàn lữ hành đi ngang qua, thấy có người trên đồi cao, họ bàn tán
với nhau về đoàn người kia. Một người trong bọn họ nói:
– Chắc hẳn ông ta bị mất con vật quý!
Người thứ hai nói:
– Không đâu, có lẽ ông ta đang tìm kiếm người bạn thân.
Người thứ ba nói:
– Anh ta chỉ thưởng thức không khí trong lành trên ấy đó thôi!
Ba người không đồng ý với nhau và bàn cãi mãi cho đến khi họ
cùng lên tới đỉnh đồi, nơi người kia đang đứng. Một trong ba kẻ lữ hành hỏi:
– Này anh bạn đang đứng kia, phải chăng bạn vừa mất con vật thân
yêu của mình?
– Không, tôi chẳng mất con vật nào cả.
Người thứ hai hỏi:
– Thế anh đang tìm người bạn thân của mình chứ?
– Thưa ông không, tôi chẳng tìm người bạn nào cả
Người thứ ba hỏi:
– Thế có phải bạn đang thưởng thức không khí trong lành không?
– Thưa ông, không.
– Thế thì tại sao bạn lại đứng đây, mà lại còn đáp “không” cho
tất cả các câu hỏi của chúng tôi?
Người đàn ông chỉ đáp:
– Tôi chỉ đứng đây thôi!
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta luôn tranh luận về những
chuyện từ một giả định về một kinh nghiệm bám quá sâu trong ý thức đến nỗi khó
trừ bỏ được nó, do vậy nên ta bị lệ thuộc vào nó. Khi chúng ta thức tỉnh thoát
khỏi sự lệ thuộc này, nghĩa là ta liền hòa nhập vào đời sống tôn giáo, và chính
trong đời sống tôn giáo này, kinh nghiệm là tất cả trong cái toàn thể mà chẳng
cần viện đến một thứ luận lý nào. Trong ý thức của một số người, họ đánh giá
Phật giáo có vẻ suy lý, vì giáo lý này liên quan đến Tứ diệu đế, Mười hai nhân
duyên, Bát chánh đạo... Nhưng chúng ta nên nhớ rằng tất cả các phương pháp có hệ
thống này, chỉ là phó sản của chính kinh nghiệm mà Đức Phật đã chứng nghiệm được
dưới cội cây bồ-đề.
Trong phương diện này, Cơ-đốc giáo và Phật giáo có điểm
tương đồng. Cơ-đốc giáo có lẽ nghiêng về phần cảm tính của đời sống hơn, trong
khi Phật giáo chú ý đến phương diện tri thức hơn. Bởi lý do này, Phật giáo được
nhiều người xem là có tính khoa học hơn. Nhưng thực ra, Phật giáo dựa vào kinh
nghiệm cá nhân cũng như Cơ-đốc giáo. Điều này đặc biệt đúng với Thiền Phật giáo,
vốn lập cước dựa trên kinh nghiệm như là nguyên lý căn bản từ giáo pháp của
Thiền. Do vậy, tất cả mọi hành xử cũng như lời nói trong Thiền đều nhắm đến chỗ
lập cước này. Không có gì thoát khỏi điều ấy, chẳng chạy quanh tránh né, không
có lý do để xa rời mọi sự phi lý có thể đến trong sự biểu hiện căn bản kinh
nghiệm.
Một vị Tăng đang đứng bên Thiền Sư Tào Sơn, sư nói:
– Này, sư huynh, trời nóng ghê!
– Thưa vâng.
Sư hỏi:
– Khi trời quá nóng, ta sẽ đi đâu để tránh?
– Bằng cách ném mình vào chảo nước sôi hay trên một ngọn lửa
hồng.
– Nhưng trong chảo nước sôi hay trên ngọn lửa hồng thì làm sao
để người ta thoát khỏi cái nóng?
– Đau khổ chẳng chạm đến đó!
Đến đây, Sư im lặng.
Đây tất cả đều là biểu hiện của chính sự sống, và chẳng có sự
tranh luận tri thức về nó. Nếu có, thầy trò có thể trao đổi với nhau về một vấn
đề thực thực dụng khác, về một nơi chốn an lạc, một nơi nghĩ mát cho mùa hè,
hoặc về vô ngã. Họ lại không nói như thế mà lại dẫm chân trên mặt đất vững chãi
của kinh nghiệm thường ngày, đó là sự hùng biện nhất biểu hiện đặc tính của
Thiền. Đúng là chúng ta chẳng bỏ qua luận lý và tâm lý học vì nó cũng là những
biểu hiện của đời sống, lờ nó đi chẳng khác gì là điên rồ; nhưng ta hãy nhớ rằng
sự sống vốn có một mô dạng khác, nơi nó chỉ cho phép kẻ nào sống thực với nó mới
thể nhập được.
Một vị tăng hỏi Thiền sư Tính Tuyền ở Lô Sơn:
– Tại sao cửa đá Lô Sơn không mở ra cho tất cả mọi người?
Sư đáp:
– Ông thật điên rồ!
Tăng hỏi tiếp:
– Nếu Hòa Thượng bất thần gặp một kẻ thông minh lanh lợi, Hòa
Thượng có để cho y vào không?
Sư đáp:
– Uống trà đi!
Thể nhập vào cái mà nhiều người tưởng là huyền bí trong Thiền
đôi khi được xem như là điều khó nhất trên đời. Nhưng theo Thiền sư này, chẳng
có gì khó hơn dùng một tách trà. Ở mức độ nào đó, tất cả mọi bàn luận đều ở trên
lĩnh vực của “Hiểu biết–kiến văn giác tri”, như đã được trình bày trong
Lược đồ 3. Khi một người thể nhập vào cảnh giới vô niệm, thì kiến văn giác
tri vắng bóng dần, và vô thức Bát-nhã kiểm soát toàn bộ tình huống. Nói như
thế này có thể sẽ làm lệch hướng ra ngoài con đường chân chính của Thiền. Điều
chính yếu là nắm bắt được chìa khóa tâm điểm cuả toàn bộ vấn đề.
Một vị tăng hỏi Thiền sư Pháp Dị ở Thảo An:
– Người ta nói rằng tâm lệch hướng ngay khi được vận dụng, khi
một niệm khởi dậy thì nó liền bị sai trái, như thế đâu là chỗ hướng thượng?
Đoạn trích dẫn này là của cổ đức, có nghĩa tâm điểm huyền bí của
thiền, nếu như cách diễn đạt này có thể chấp nhận được, là không thể nêu được
bằng suy luận hay tri thức.Và do vậy, khi tâm dấy khởi và hành xử theo hướng ấy
thì sự huyền bí của thiền hoàn toàn lẫn tránh mọi nỗ lực của nó. Nếu như vậy, vị
tăng muốn biết làm cách nào ông ta có thể tiến bộ trong khi học thiền, vì học
thiền là sự dụng tâm và vấn đề đặt ra hoàn toàn tự nhiên. Vị Thiền sư trả lời:
– Có người thường dụng tâm theo cách này, thế mà chẳng có sự
lệch hướng nào cả.
Vị tăng hỏi tiếp:
– Lúc ấy sự vật biểu hiện như thế nào?
Sư đáp:
– Lại lệch hướng rồi!
Sự phát khởi của Bát-nhã là sự lệch hướng lớn lao đầu tiên, và
từ đó, chúng ta sống trong tâm điểm của sự lệch hướng. Chẳng có gì thoát khỏi
chúng ngoại trừ cứ sống với chúng y
như chúng hiện bày từ cảnh này đến cảnh khác. Nói “thoát ra
khỏi” đã là lệch hướng rồi, là một mâu thuẫn, là một phủ định. “Uống trà đi” là
làm theo lời của Triệu Châu.
Sau khi khảo sát về tự tính của Huệ Năng, từ quan niệm không gian cũng như
quan niệm thời gian, chúng ta đã biết được gì về tự tính? Chúng ta đã
viết nhiều trang giấy để giải thích về Thể, Tướng và Dụng của tự tính, đã
bàn luận khá nhiều về nó, nhưng cũng chỉ có thế mà thôi. Nói “về nó” không phải
là chính “nó”. Không có một khái niệm trừu tượng nào thích ứng hơn một lời nói
bật ra đúng vào lúc thuận lợi nhất. Một vị tăng hỏi Thiền sư Trí Phù (智 孚) ở Nga Hồ:
– Thế nào là nhất cú?
Sư không đáp mà hỏi lại:
– Ông hiểu chứ?
Vị tăng đáp:
– Như thế, chẳng phải là cái đó hay sao?
Sư trả lời:
– Trời, chả trông mong gì!
Lần khác, có vị tăng hỏi:
– Tối sơ nhất cú của Hòa thượng là gì?
Thiền sư đáp:
– Ông nói gì?
Vị tăng nghĩ rằng Sư chưa nghe rõ câu hỏi, nên lặp lại lần nữa:
– Nó có thể là gì?
Thiền sư lạnh lùng đáp:
– Làm ơn đừng quấy rầy giấc ngủ trưa của bần tăng.
Tất cả những cuộc vấn đáp Thiền này đối với những kẻ bàng quan
dường như là vô nghĩa hoặc là huyền bí một cách có chủ đích. Nhưng những sự kiện
kỳ diệu nhất trong lịch sử loài người chính là sự sùng bái cái “vô lý” hoặc sự
“huyền bí” này lại được thịnh hành trong một ngàn năm trăm năm nay, và đã thu
hút sự chú ý từ những tâm hồn trác việt của của vùng Viễn Đông. Hơn thế nữa, nó
vẫn còn được in đậm dấu ấn lớn lao trong sự đào luyện tâm linh và từ nhiều
phương diện khác của Nhật Bản. Chỉ một sự kiện này cũng khiến cho Thiền trở
thành một đề tài nghiên cứu quý giá không chỉ dành riêng cho giới học giả Phật
giáo mà còn cho tất cả những sinh viên nghiên cứu về tôn giáo và văn hóa nói
chung. Tuy nhiên, ở đây nó chỉ trình bày cho độc giả của chúng tôi rằng, trong
Thiền có cái gì đó nhằm chỉ đến sự kiện căn bản nhất cuả đời sống, mà sự kiện
ấy, một khi đã lĩnh hội được trọn vẹn, thì sẽ đem lại cho chúng ta một sự thấu
đạt lớn trong đời sống tôn giáo. Tất cả những vấn đáp ta đọc trong biên niên sử
của Thiền chẳng khác gì hơn là những cách diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ của các
Thiền sư.
Tôi xin kết thúc thiên luận này bằng câu chuyện của một vị tăng
pháp danh là Phù (Fu) ở Thái Nguyên (Tai-yuan), sống vào thời Ngũ
đại (thế kỷ thứ 11). Sư đắc pháp với Thiền sư Tuyết Phong, và không bao giờ đảm nhận chức vụ trú trì tự viện nhưng lại
phát nguyện chùi dọn nhà tắm của chúng tăng. Có lần Sư làm công quả ở Chùa Kim
Sơn, một vị tăng hỏi Sư:
– Thầy đã từng đến Ngũ Đài Sơn chưa?
Ngũ Đài Sơn vốn được xem là trụ xứ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.
Người hành hương từ mọi quốc gia, kể cả Tây Tạng, Ấn Độ đều muốn đến đó, những tín đồ nhiệt thành được nghe nói
rằng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã thị hiện nơi đó. Núi Ngũ Đài toạ lạc tại tỉnh Sơn
Tây, đông bắc Trung Hoa, Thiền sư Phù trả lời:
– Có, tôi đã đến đó một lần rồi!
Vị tăng hỏi tiếp:
– Thế thầy có thấy Bồ-tát Văn-thù không?
Sư Phù đáp:
– Có!
Vị tăng lại hỏi:
– Thế thầy thấy Ngài ở đâu?
Sư Phù đáp ngay:
– Ngay trước điện Phật Chùa Kim Sơn.
Khi Sư Phù đến gặp Tuyết Phong, Tuyết Phong hỏi:
– Tôi biết Lâm Tế có tam huyền, đúng vậy chăng?
– Vâng, Hòa thượng nói đúng.
– Thế câu thứ nhất là gì?
Sư Phù nhướng mắt nhìn, Tuyết Phong nói:
– Đó là câu thứ hai, còn câu thứ nhất thì sao?
Sư Phù chắp hai tay ngang ngực và bước đi.
Một hôm, Huyền Sa đến thăm Tuyết Phong, Tuyết Phong nói:
– Nay trong huynh đệ của chúng tôi có một lão đang chùi rửa nhà
tắm.
Huyền Sa nói:
– Tốt, để tôi gặp lão ta và xem lão ta thuộc loại người như thế
nào.
Nói song, Huyền Sa đi ra và gặp thấy sư Phù đang kéo nước cho nhà
tắm. Huyền Sa nói:
– Này huynh, chúng ta hãy trò chuyện một lát.
– Cuộc chuyện trò đã qua rồi.
Huyền Sa hỏi:
– Từ kiếp nào vậy?
Sư Phù đáp:
– Này huynh, đừng có mơ mộng!
Cuộc hội ngộ kỳ lạ này kết thúc như vậy.
Huyền Sa trở lại Tuyết Phong và nói:
– Bạch Hòa thượng, con đã nhận ra y.
Tuyết Phong hỏi:
– Chuyện ấy ra sao?
Huyền Sa kể lại cuộc hội ngộ.
Tuyết Phong kết luận:
– Ông vừa bị mất trộm.
Thiền sư An ở Hổ Sơn hỏi sư Phù:
– Khi cha mẹ ông chưa sinh ra ông, lỗ mũi ông ở chỗ nào?
Lỗ mũi chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt ở đây; câu hỏi có nghĩa như
là: “Trước khi hiện hữu trên thế gian này, ông ở đâu?”
Thiền thích tránh xa những thuật ngữ trừu tượng, những câu có
tính khái quát cao vì chúng có khuynh hướng tri thức. Đối với câu trả lời của An
Thiền sư, sư Phù đáp:
– Này, sư huynh nói trước đi.
Thiền sư An đáp:
– Nay sinh rồi. Hãy nói tôi nghe nó ở đâu?
Sư Phù biểu lộ sự bất đồng, nhân đó, Thiền sư An hỏi tiếp:
– Này, huynh đang nói gì thế?
Sư Phù không trả lời theo lối đặc biệt như chúng ta mong đợi, sư
bảo Thiền sư An đưa cây quạt đang cầm
trong tay, Thiền sư An liền đưa cây quạt và lập lại câu hỏi trên. Sư Phù vẫn giữ
im lặng và để cây quạt xuống đất. Thiền sư An chẳng biết làm gì khi sư Phù thổi
một hơi vào lỗ tai của Thiền sư An.
Một hôm Sư Phù đứng trước nhà kho, một vị sư huynh đến hỏi:
– Người ta nói rằng bất kỳ mắt ông xoay theo hướng nào là nơi ấy
có bồ-đề. Nghĩa ấy thế nào?
Sư Phù liền đá vào con chó bất chợt chạy ngang qua, con chó kêu
ăng ẳng rồi lũi chạy. Vị tăng không biết nói lời nào.
Ngay đó, Sư Phù nói:
– Con chó thật đáng thương, mày đã nhận một cái đá vô ích.
Theo quan điểm tương đối, tất cả chúng ta đều ở trong một mối
tương quan vô vọng, những câu hỏi của các vị tăng này dường như có đầy đủ ý
nghĩa, nhưng ngay lúc được các sư thừa đương, thì nó lại được biến thành những
câu chuyện tầm phào hay những hành vi điên rồ hoàn toàn khác hẳn với luận lý học
và ý nghĩa thông thường. Nhưng khi một người đạt đến năng lực tâm linh, nếu có
thể diễn đạt như vậy, lại làm cho bậc thầy xúc động, y thấy được những điều phi
lý này chính là cách biểu hiện quý báu nhất. Điểm này không phải là: “cogito,
ergo sum” mà là “agito, ergo
sum.”
Nếu không hiểu rõ điều đó thì chúng ta mãi mãi lún sâu vào suy
luận và phán xét mỗi một kinh nghiệm của mình qua góc độ tư duy. Chúng ta không
đi thẳng vào cuộc sống mà chúng ta giữ mình xa cách với nó. Thế giới chúng ta,
do vậy, luôn luôn có tính chất phản đề, chủ thể đối lập với khách thể. Sự thức
tỉnh của ý thức trong chính nó là điều rất tuyệt diệu khi nó vận hành, nhưng
ngay hiện giờ, chúng ta đã có quá nhiều nhưng không biết cách sử dụng đúng mức.
Các Thiền sư muốn chúng ta nhìn theo hướng nghịch
lại: nếu chúng ta đã nhìn ra ngoài, bây giờ các vị muốn chúng ta hãy nhìn vào
trong; nếu trước đây chúng ta đã nhìn vào trong, thì bây giờ họ bảo chúng ta hãy
nhìn ra ngoài. Đối với các Thiền sư, chẳng cần phải có một sự phân tích bằng
lược đồ, theo thời gian hoặc không gian nào cả, họ hành xử một cách “trực tiếp”,
“nhiệt tâm.” Đó là một trong những cách diễn đạt ưa thích của các Thiền sư. Hành
xử cao nhất của của ý thức chúng ta, thực ra là thâm nhập vào tất cả các địa
tằng của khái niệm và đọc được vào tận lớp đá nền móng của vô thức Bát-nhã.
Thích Nhuận Châu dịch