Để thông hiểu hệ thống tư tưởng mà Huệ Năng và tông phái của
ngài đã nhận thức, những luận giải trong chương này có lẽ sẽ có ích cho những
độc giả vốn chưa quen với thế giới quan Đông phương.
Điều quan trọng trước nhất trong hệ thống triết lý của Huệ Năng
là ý niệm
tự tính. Nhưng tôi phải cảnh báo trước cho người đọc là không nên hiểu
tự tính ấy như là cái gì đó thuộc về bản chất. Nó không phải là thứ cặn còn
sót lại sau khi các sự vật hiện hữu có điều kiện trong mối tương quan với nhau
đã được lắng đọng, trích ra từ khái niệm hữu thể cá biệt. Nó không phải là cái
tôi, hay tâm linh, hay linh hồn như người ta thường nghĩ về nó theo cách thông
thường. Nó không phải là một vật gì đó thuộc về bất kỳ phạm trù tri thức nào đó.
Nó cũng không thuộc về thế giới tương đối này, cũng chẳng phải là Thực tại tối
thượng mà người ta thường gán cho Thượng đế hoặc Tiểu ngã (s: ātman) hay Đại ngã (s: brāhma). Không thể định
nghĩa nó hay mô tả nó theo bất cứ cách nào có thể được, nhưng không có nó thì
cái thế giới như chúng ta thấy và vận dụng trong sinh hoạt hàng ngày sẽ sụp đổ.
Nói rằng nó hiện hữu tức là khước từ nó. Đó là một chuyện kỳ cục, nhưng khi quý
vị cùng tôi theo dõi tiếp ý nghĩa của nó thì sẽ thấy được rõ ràng hơn.
Trong thuật ngữ Phật giáo truyền thống,
tự tính là Phật tính, nó
tạo nên quả vị Phật, đó là tính không tuyệt đối (sũnyatā), là
chân như tuyệt đối (tathatā). Có thể gọi
tự tính là tự thể thanh tịnh
(pure being)–một thuật ngữ trong triết học Tây phương chăng, trong khi nó chẳng
có liên hệ gì cả với thế giới nhị nguyên gồm chủ thể và khách thể? Để cho
tiện, tôi gọi nó là tâm, và cũng gọi là vô niệm.
Vì ngữ cú Phật học chứa đầy những thuật ngữ tâm lý học, và bởi vì tôn giáo chủ
yếu liên quan mật thiết đến triết lý về cuộc sống nên những thuật ngữ này:Tâm
(心),
vô niệm (無 念) - được dùng ở đây như
là đồng nghĩa với tự tính (自 性; e: self-nature). Nhưng phải thận trọng
hết sức để khỏi nhầm lẫn chúng với những thuật ngữ tâm lý học thực nghiệm, bởi
vì chúng không còn nhắm đến lĩnh vực này nữa. Chúng ta đang nói đến một thế giới
siêu việt, nơi không có những dấu tích còn có thể lưu hiện như thế nữa.
Trong tự tính này, có một sự vận hành, một sự tỉnh thức, là
vô thức trở nên ý thức về chính nó. Đây không phải là nơi dành cho các câu hỏi
“Tại sao?” hay “Thế nào?”. Sự tỉnh thức hay vận hành hay bất kỳ tên gọi nào đó
vẫn được xem như một thực tế vượt lên tất cả mọi phản luận. Chuông ngân, và tôi
nghe. Tôi nghe tiếng rung truyền qua không khí. Đây là một sự kiện đơn giản của
nhận thức. Cũng cách đó, sự chiếu phá của ý thức vào vô thức là một vấn đề của
kinh nghiệm, chẳng có sự huyền bí nào liên quan đến nó cả. Nhưng nói theo luận
lý học, có sự mâu thuẫn hiện ra, một khi nó đã sinh khởi rồi thì nó sẽ tự mâu
thuẫn với chính nó đến vô cùng. Bất luận cái này là gì, hiện giờ chúng ta vẫn có
một cái vô thức ý thức về chính nó, hay một cái tâm tự phản chiếu chính nó. Do
sự chuyển hóa như vậy, nên tự tính (self-nature) được gọi là Bát-nhã (prajñā).
Bát-nhã, sự tỉnh thức của ý thức trong vô niệm, vận hành theo
chiều hướng song trùng; một mặt hướng về vô niệm và mặt kia hướng về ý
thức. Bát-nhã hướng về vô niệm là Bát-nhã được nói riêng, còn Bát-nhã
hướng về ý thức bây giờ được gọi là tâm
(viết thường). Từ tâm này, một thế giới nhị nguyên sinh khởi: chủ thể và khách
thể, ngã bên trong và thế giới bên ngoài... Do vậy, người ta cũng có thể phân
biệt hai hình thái của Tâm: trí Bát-nhã vô phân biệt, không đối đãi; và tâm nhị
nguyên. Hình thái thứ nhất thuộc về cảnh giới
vô niệm, nhưng chừng nào nó còn gắn bó với Bát-nhã thì khi ấy nó còn giao
thiệp trực tiếp với vô thức, và đó là Tâm (chơn tâm). Trong khi ấy, tâm
của hình thái thứ hai lại hoàn toàn thuộc thế giới này, nó mẫn cảm và hòa lẫn
trọn vẹn với sự phờn tạp của thế giới.
Tâm trong hình thái thứ hai được Huệ Năng gọi là niệm (念-thought). Ở đây,
tâm là niệm và niệm (念) là tâm (心)
và niệm tưởng (念 想). Từ quan điểm tương
đối, Tâm thuộc hình thái thứ nhất có thể gọi là vô niệm, trái
ngược với tâm thuộc hình thái thứ hai – tâm ấy thuộc về phía bên này của kinh
nghiệm thường nhật của chúng ta. Cái trước (Tâm- vô niệm) thì siêu việt,
nói theo thuật ngữ Thiền, nó là không phải tâm, là vô tâm hoặc
vô niệm.
Xin nhắc lại, Bát-nhã là thanh kiếm hai lưỡi, một mặt chém vào
vô thức và mặt kia cắt đứt ý thức. Mặt thứ nhất gọi là Tâm, tương ứng với
vô tâm ( vô niệm). Vô tâm là biến tướng một cách không có chủ ý của tâm, đó
là khía cạnh tỉnh thức của Bát-nhã. Sơ đồ dưới đây sẽ giúp ta thấy rõ ràng hơn
cơ cấu của vô thức.
Lược đồ 1:
Trong sơ đồ này, Vô thức A, B, C thuộc về thực tại siêu việt và
là chính thể nhất như, trong khi Vô thức D là của tâm ý thức thường nghiệm, là
chủ đề nghiên cứu của tâm lý học.
Theo cách luận giải trên vê tư tưởng Thiền của Huệ Năng, thêm sự
phân tích qua sơ đồ này, xin đọc các định nghĩa dưới đây về vô niệm (e:
no-mind, no-thought) được trích dẫn từ Đàn Kinh. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ dễ
tiếp cận hơn tư tưởng của Huệ Năng, và nhờ đó mà chúng ta hiểu được các Thiền
sư khác qua các trích dẫn ở các chương trước.
Huệ Năng định nghĩa vô niệm
như sau “vô niệm là ngay nơi niệm nhưng xem như
không có chúng” (vô niệm giả, ư niệm nhi bất niệm 無 念 者 於 念 而 不 念, Pháp Bảo Đàn Kinh
- Định Huệ 4). Hay có thể dịch sát nghĩa hơn là “Vô niệm là có niệm tưởng,
nhưng không khởi ý phân biệt các niệm tưởng ấy”. Đây rõ ràng muốn nói đến ý thức
về vô thức hoặc “thấy được vô thức bằng ý thức,” cả ý thức lẫn vô thức ở
mức độ C đều ở bên trên tâm thức thường nghiệm. Ngài Huệ Năng
định nghĩa sau về vô niệm:
“Đối diện với tất cả các cảnh mà tâm không nhiễm trước gọi là vô
niệm (Ư nhất thiết cảnh thượng bất nhiễm danh vi vô niệm 於 一 切 鏡 上 不 染 名 為 無 念) Có nghĩa là, khi tiếp xúc
với các cảnh, không có một niệm tưởng nào sinh khởi trong tâm, “các cảnh” chỉ là
thế giới của ý thức, trạng thái không nhiễm trước là chỉ cho vô niệm, là
cảnh giới không có “niệm tưởng”, không có ý thức can thiệp đến sự vận hành của
tâm. Ở đây, chúng ta nhận ra Vô thức trong mức độ C. Những lời dạy sau đây của
ngài Huệ Năng qua rõ ràng, không cần giải thích:
“Ở trong thể vô niệm của tự tính, thường không dính mắc
tất cả cảnh, không duyên với các cảnh mà khởi tâm phân biệt” (Ư tự niệm
thượng ly cảnh, bất ư cảnh thượng sinh tâm 於 自 念 上 離 境,
不 於 境 上 生 心。)
“Người si mê sinh khởi niệm tưởng khi
gặp các cảnh, ngay đó liền phát sinh tà kiến, mọi thứ vọng tưởng trần lao cũng
từ đây mà phát sinh ra.” (Mê nhân ư cảnh thượng hữu
niệm, niệm thượng tiên khởi tà kiến, nhất thiết trần lao vọng tưởng, tòng thử
nhi sinh 迷 人 於 境 上 有 念, 念 上 先 起 邪 見,
一 切 塵 勞 妄 想 從 此 而 生).
“Thế nào là vô niệm? Nếu khi thấy tất cả hiện tượng mà
tâm không bị dính mắc và ô nhiễm gọi là vô niệm” (Hà danh vô niệm, nhược kiến
nhất thiết pháp, tâm bất nhiễm trước, thị danh vô niệm 何 名 無 念,
若 見 一 切 法, 心 不 染 著, 是 名 無 念).
“Người ngộ được pháp môn vô niệm là người thể nhập vào được
cảnh giới của chư Phật, là người đạt được quả vị Phật” (Đàn Kinh, Bát-nhã 2:
Ngộ vô niệm pháp giả, kiến Phật cảnh giới, ngộ vô niệm pháp giả, chí Phật địa vị 悟 無 念 法 者, 見 佛 境 界,
悟 無 念 法 者, 至 佛 地 位)
Chúng ta có thể tìm thấy ý́ tưởng vô niệm mà Huệ Năng
muốn diễn đạt qua những đoạn trích dẫn này, và được bổ sung̣ thêm bằng Lược
đồ 1. Nhưng hãy lưu ý trong đó, vô niệm (vô thức) được phát triển
theo từng mức độ từ cao xuống thấp cho đến tâm thức thường nghiệm, lại chẳng
dính dáng gì đến bất kỳ từng bực nào. Khi nó được phân tích và trình bày theo mô
thức như trên, chúng ta dễ hình dung ra rằng có những mức độ khác nhau trong vô
thức, và những dạng thức thấp hơn thì không chứa đựng cái cao hơn. Điều này
không đúng, vì tất cả các dạng vô thức đều dung nhiếp lẫn nhau, khi thông đạt
được một cái thì đều rõ được mọi dạng thức kia. Nhưng đồng thời, ta cũng có thể
nói rằng vô thức trở nên thanh tịnh. Nói thế có nghĩa là khi chúng ta phát khởi
vô thức trên bình diện tâm thường nghiệm, và rằng trước khi chúng ta đạt đến trí
Bát-nhã một cách vô thức, chúng ta phải hoàn toàn thanh tịnh hóa mọi nhiễm ô từ
ý thức. Tuy nhiên, đây là một quan điểm tu tập của Thiền; nói theo lý thuyết,
tất cả các dạng của vô thức (vô niệm) đều có chung một hương vị.
Về những ý nghĩa trực nhận Bát-nhã trong hệ thống tư tưởng của
Huệ Năng, tôi đã lặp lại nhiều lần để gây nên sự chú tâm. Nhưng để tránh bớt
những hiểu lầm, xin trích dẫn ra đây thêm một số đoạn kinh nữa:
“Khi phát khởi trí tụê chân chính Bát-nhã để quán chiếu, thì
ngay trong khoảnh khắc, các vọng niệm đều bị tiêu trừ. Nếu nhận ra tự tính, ngộ được bản tâm rồi, tức liền đến ngay quả vị Phật.” (Đàn
Kinh-Bát-nhã: Nhược khởi chính chân Bát-nhã quán chiếu, nhất sát na gian,
vọng niệm câu diệt, nhược thức tự tính, nhất ngộ tức chí Phật địa
若 起 正 眞 般 若 觀 照, 一 剎 那 間, 妄 念 俱 滅,
若 識 自 性, 一 悟 即 至 佛 地).
“Thiện tri thức, dùng trí tuệ để quán chiếu trong ngoài rõ
suốt, nên nhận ra được bản tâm của mình. Nhận rõ bản tâm mình rồi, đó là gốc
giải thoát. Được giải thoát gọi là Bát-nhã tam muội, tức là vô niệm.”
(Thiện tri thức, trí huệ quán chiếu, nội ngoại minh triệt,
thức tự bản tâm. Nhược thức tự bản tâm, tức tự bản giải thoát. Nhược đắc giải
thoát, tức thị Bát-nhã tam muội. Bát-nhã tam muội, tức thị vô niệm 善 知 識, 智 慧 觀 照, 內 外 明 徹, 識 自 本 心, 若 識 自 本 心, 即 本 解 脫, 若 得 解 脫, 即 是 般 若 三 昧, 是 般 若 三 昧, 即 是 無 念.)
“... Dụng của vô niệm trùm khắp mọi nơi mà không dính mắc ở một
nơi nào. Đó chỉ là sự thể nhập cảnh giới thanh tịnh của bản tâm không khởi phân
biệt khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, thoát khỏi mọi ô nhiễm, mọi phiền tạp,
đi đến tự do thông suớt không ngăn ngại. Tức là Bát-nhã tam muội, giải thoát, tự
tại, gọi là hạnh vô niệm–Dụng tức biến nhất thiết xứ, diệc bất trước nhất
thiết xứ, đãn định bản tâm, sử lục thức xuất lục môn, ư lục trần trung vô nhiễm
vô tạp, lai khứ tự do, thông dụng vô trệ Tức thị Bát-nhã tam muội, tự tại giải
thoát, tức vô niệm hạnh 用 即 徧 一 切 處,
亦 不 著 一 切 處, 但 定 本 心, 史 六 識 出 六 門,
於 六 塵 中 無 染 無 雜, 來 去 自 由, 通 用 無滯, 即 是 般 若 三 昧, 自 在 解 脫, 即 無 念 行。 Đàn Kinh, Bát-nhã 2).
Bát-nhã tam muội còn được gọi là vô niệm. Khi
Bát-nhã hoàn toàn hướng thẳng đến
bản tính, hoàn toàn không biết đến hướng nghịch lại, tức chính nó tự giải
thoát. Và nếu như chúng ta cũng có thể nói rằng giải thoát được là nhờ bản chất
mâu thuẫn của nó cũng như chính tự thân nó, thì đây là một biện chứng mâu thuẫn
vốn có trong kinh nghiệm của chúng ta, và không có cách nào để thoát khỏi nó
cả. Thực ra, toàn thể kinh nghiệm của ta, có nghĩa chính đời sống của chúng ta,
là khả hữu do mâu thuẫn tối thượng này. Lẫn tránh nó là dấu hiệu của một tinh
thần hỗn trược. Do đó Huệ Năng nói:
“Bằng như trăm việc chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm tưởng vắng
bặt, tức là bị ràng buộc bởi các pháp, cũng gọi là biên kiến.” (Nhược bá vật
bất tư, đương linh niệm tuyệt, tức thị pháp phược, thị danh biên kiến 若 百 物 不 思,
當 令 念 絕, 即 是 法 縛, 是 名 邊 見)
Đoạn trích dẫn này có thể không được rõ ràng lắm, nhưng nó có
một ý nghĩa lịch sử: Vào thời Huệ Năng, ngay trước hoặc sau thời Ngài , có một
số người nỗ lực vượt thoát khỏi tính chất mâu thuẫn căn bản vốn có sẵn trong
ngay đời sống bằng cách hủy diệt mọi tâm hành (thought-activities) đến một trạng thái
tuyệt đối, hoàn toàn phủ định, hoàn toàn trống rỗng, được miêu tả như là trạng
thái hoàn hảo nhất, như giết chết sự sống, tự huyễn dụ mình rằng cách đó sẽ đạt
được chân tướng. Họ tự trói buộc mình bằng những ý tưởng sai lầm, xem pháp như
là hư vô. Tuy nhiên, theo quan niệm thực tế, dù dưới dạng nào, cũng không thể
xem như là hư vô được, điều người ta nghĩ như thế chỉ là một dạng khác của sự
khẳng định. Tuy vậy, người ta có thể phản ứng một cách kịch liệt và dữ dội, lúc
ấy, một con tép nhỏ cũng khó lọt qua cái giỏ lưới.
Ý tưởng vô niệm của Huệ Năng, vốn tạo thành tư tưởng
trung tâm của giáo lý Thiền, được phát triển một cách tự nhiên qua Pháp Ngữ
Thần Hội, lần nầy được giải thích
một cách rõ ràng nhất, như chúng tôi đã trình bày. Bây giờ, xin trích dẫn lời
của Đức Sơn và Hoàng Bá. Một trong các bài pháp của Đức Sơn như sau:
“Khi ông chẳng bị điều gì phiền nhiễu trong chính ông cả thì hãy
đừng hướng ngoại tìm cầu. Cho dù ông có tìm được cái mà ông cần, đó cũng là cái
chẳng thật. Hãy nhìn kỹ vào đó để thấy chẳng có gì phiền nhiễu ông cả, và hãy
vô tâm trên mọi cảnh. Lúc ấy, sẽ chỉ có tính
không mà sự vận hành rất mầu nhiệm, trống không nhưng tạo ra nhiều phép lạ.
Khi ông bắt đầu nói về chỗ khởi đầu và kết thúc (của sự mầu nhiệm này), nghĩa là
ông tự lừa dối mình. Chỉ khởi một niệm nhỏ nhặt, điều ấy cũng khiến cho ông tạo
nghiệp đi vào con đường ma. Dù ông chỉ để cho một niệm tưởng lóe lên trong tâm
ông, thì ông sẽ đặt mình trong luân hồi bằng vạn kiếp (kalpa). Những từ thánh,
phàm chẳng có ý nghĩa khác hơn là thứ khờ khạo;
tốt, xấu đều là giả danh. Nếu các ông thèm khát các thứ ấy, làm sao các
ông thoát khỏi phiền trược? Nhưng cố gắng xa lánh nó cũng sẽ chuốc lấy những tai
họa lớn vô cùng. Dù cách nào đi nữa, mọi kết luận đều là vô nghĩa.”
Hoàng Bá Hy Vận, trong phần mở đầu
của tập sách của Sư mà chúng tôi đã
giới thiệu ở chương trước, sư nói Tâm chính là Phật, và ngoài Tâm
ra, chẳng có cách nào để diễn đạt được giác ngộ cả. Tâm ở đây chính là vô
niệm, là đạt được cứu cánh trong đời sống đạo Phật. Hãy đọc đoạn trích dẫn
sau trong sự soi sáng của Lược đồ 1 và trong sự liên quan đến tư tưởng của Huệ
Năng về sự thành Phật, lúc ấy giáo lý trung tâm của Thiền sẽ trở thành dễ hiểu
hơn.
“Sư (Hoàng Bá Hy Vận) nói với Bùi Hưu
(c: p'ei-hsiu): “Chư Phật và tất cả
chúng sinh đều chỉ là nhất tâm, ngoài ra chẳng có pháp nào khác. Tâm
này chẳng có khởi đầu, chẳng từng sinh, chẳng từng diệt, chẳng phải xanh, trắng,
vàng, chẳng có hình, có sắc, chẳng có, chẳng không, chẳng thể gọi nó là mới hay
cũ, chẳng ngắn chẳng dài, chẳng lớn chẳng nhỏ; tâm ấy siêu việt hẳn mọi suy
lường, mọi ngôn thuyết, chăng phải đồng nhất, chẳng phải đa thù. Nó là
“cái này” tuyệt đối; chỉ cần gợi lên niệm tưởng là ông liền mất. Nó như hư
không, không có giới hạn, hoàn toàn vượt ngoài mọi sự suy lường.”
Chỉ có nhất tâm hiện hữu, tâm ấy khiến cho thành Phật. Chư Phật
và chúng sinh đều có trong đó, chẳng hề phân biệt, chỉ có chúng sinh hướng ra
ngoài tâm của chính mình để tìm cầu Phật. Thế nên, họ càng tìm càng thấy xa.
Hãy để cho Phật tự tìm Phật bên ngoài chính mình. Hãy để tâm tự tìm tâm bên
ngoài chính mình, rồi thấy rốt ráo chẳng có gì để tìm cả. Ông hãy dừng mọi niệm
tưởng, quên mọi mong muốn, thì Phật sẽ tự hiển bày trước mắt ông.
Tâm này chẳng có gì khác hơn là Phật, và Phật chẳng gì khác hơn
là chúng sinh. Khi nó là chúng sinh Tâm này chẳng bớt, dù ở nơi Phật tâm này chẳng tăng. Trong tâm có đủ lục độ vạn
hạnh và vô lượng công đức nhiều như cát sông Hằng, không cần gì thêm ở bên
ngoài. Khi hội đủ nhân duyên thì tâm hiện tiền, chiếu soi tự tại; khi nhân duyên
hết, tâm trở về tịch lặng. Ai không tin chắc vào Tâm nầy chính là Phật, họ sẽ
tìm cầu phước đức bằng cách dính mắc nơi hình tướng theo nhiều pháp môn tu tập
khác nhau, giữ lấy tà kiến, không khế hợp với Đạo.
Tâm này là Phật, chẳng có Phật ngoài tâm này, cũng chẳng có tâm
nào khác (là Phật). Bản tâm thanh tịnh ví như bầu trời không một mảy may sắc
tướng gì trong đó. Khi tâm khởi niệm, khi tưởng bị xao động, là ông lạc hướng
với pháp, tức là ông dính mắc vào tướng. Vì từ vô thủy đến nay, chư Phật không
hề chấp tướng. Nếu các ông muốn thành Phật bằng cách tu lục độ vạn hạnh, đó là
ông tự vạch ra một phương tiện nhất định, và bởi vì từ vô thủy đến nay chẳng có
Phật nào để đạt đến dần dần qua một tiến trình vạch sẵn. Chỉ có phóng cái nhìn
vào nhất tâm và trực nhận ra rằng chẳng có một cái gì để ông có thể gọi
là của ông. Chính điều nầy là thực sự thành Phật.
Đức Phật và chúng sinh đều lưu xuất từ nhất tâm, chẳng có
sự phân biệt nào cả. Cũng như hư không chẳng có gì hòa lẫn, chẳng có gì hủy hoại
nó được. Cũng như mặt trời sáng rỡ chiếu khắp bốn châu. Khi mặt trời mọc, ánh
sáng trùm khắp các cõi giới, khi mặt trời lặn, bóng tối trùm phủ thế
gian, nhưng hư không tự nó chẳng hề tối. Sáng, tối chỉ là các duyên thay đổi
cho nhau. Nhưng với đặc tính
mênh mông rỗng lặng của hư không, thì hoàn toàn không thay đổi. Tâm lưu
xuất chư Phật và chúng sinh cũng y như vậy. Nếu ông xem Phật như là một trạng
thái thanh tịnh, sáng suốt, giải thoát tự tại, còn chúng sinh là trạng thái hỗn
trược, mờ ám, nhiễm ô, là đối tượng của sinh tử; thì chừng nào ông còn có ý
tưởng này, chắc chắn ông không thể nào giác ngộ, cho dù trải qua nhiều kiếp (s:
kalpa) như số cát sông Hằng,
vì ông đã dính mắc vào sắc tướng. Ông nên biết rằng, chỉ có nhất tâm,
ngoài ra, chẳng có cơ may nào khác để tìm cầu.
Tâm chẳng gì khác hơn chính là Phật. Người học đạo ngày nay
không hiểu được Tâm
này là gì, nên khởi lập Tâm suy tìm trên tâm ấy, rồi hướng ra ngoài để
tìm Phật, để rơi vào lối tu chấp tướng. Đây là ngoại đạo, chẳng thể nào đưa
đến giải thoát được.
Khế kinh nói rằng nên cúng dường cho một vị Tăng đã chứng được
vô niệm cũng như cúng dường cho chư Phật trong mười phương. Sao vậy? Vô
niệm nghĩa là không, là vắng bặt tất cả các niệm (tâm). Bên
trong, Thể của chân như cũng giống như gỗ và đá: như như bất động; bên
ngoài, nó như hư không, không hề ngăn ngại,́ siêu việt cả chủ và khách, không
cần một tiêu điểm định hướng, không có hình tướng, chẳng thêm chẳng bớt. Những
ai (hướng bên ngoài tìm cầu) thì không dám dũng mãnh thể nhập vào pháp này, họ
sợ sẽ rơi vào trạng thái trống rỗng; họ sợ ở đó mình không biết phải làm gì. Do
vậy, họ chỉ biết nhìn thoáng qua pháp ấy rồi vội vã rút lui. Thế nên họ thường
truy cầu học rộng. Thực vậy, những kẻ này như lông (nghĩa là nhiều),
trong khi những kẻ ngộ đạo thì như sừng
(nghĩa là rất ít).”
Những thành ngữ Trung Hoa, nhất là những khi được dùng trong mối
tương quan với tư tưởng Thiền, vốn có ý nghĩa rất phong phú, mà khi chuyển ngữ
sang tiếng Anh thường bị mất khá nhiều những gợi ý bản nguyên của ngôn ngữ. Đặc
tính biểu tượng cao độ trong dạng chữ viết của văn tự Trung Hoa chính là điểm
thực sự trọng yếu. Chỉ cần đưa ra những điểm quy chiếu và cách ghép những bộ
thủ là có được ý nghĩa, còn yếu tố quyết định là thuộc về trí năng và cảm nhận
của người đọc.
Thiền không có chỗ khoa trương dài dòng cho người ta tin, khi
muốn sử dụng nó, phải dùng ít từ ngữ nhất trong khả năng có thể được, không
những chỉ trong những nghi thức vấn đáp thông thường, mà trong
tất cả những bài pháp được diễn bày hàng ngày, trong đó, tư tưởng Thiền được
giảng giải rõ. Trong bài pháp của Hoàng Bá cũng như của Đức Sơn trích dẫn ở trên, chúng
ta gặp những thành ngữ có ý nghĩa rất cao, chẳng hạn như lời của Đức Sơn: “Đãn
vô sự hữu tâm, vô tâm hữu sự 但 無 事 有 心, 無 心 有 事”
và câu nói của Hoàng Bá: “Trực hạ vô tâm 直 下 無 心.”
Đây là điểm chính yếu của giáo lý Thiền. Câu nói của Đức Sơn có nghĩa nôm na
là: “Phải rỗng rang không khởi niệm trong tâm, và vô tâm khi tiếp xúc với cảnh
vật, “ trong khi Hoàng Bá nói: “liền ngay chỗ đó mà thể nhập vô niệm (Đương
hạ nhất niệm 當 下 一 念).
Đối với cả Hoàng Bá và Đức Sơn, giáo lý Thiền được giảng dạy như cách tiếp xúc trực tiếp với
đời sống hàng ngày của chúng ta. Không suy đoán viễn vông trên trời, không quá
trừu tượng khiến người ta phải rối rắm trong đầu, không tình cảm dịu ngọt biến
tôn giáo thành bi kịch tình cảm. Thực tế kinh nghiệm hằng ngày được ta nắm bắt y như
chúng hiện bày, từ đó, trạng thái vô niệm được “trình hiện” như Hoàng Bá đã nói
qua đoạn trích dẫn trên.
Bản tâm được nhận ra cùng sự vận hành đồng thời của ý và thức.
Bản tâm không thuộc về ý thức, cũng không lệ thuộc vào ý thức.
Vô thức, mà khi nhận ra nó được gọi là vô tâm (無 心), vạch ra mọi kinh nghiệm trải
qua ý thức suy nghĩ. Khi chúng ta có một kinh nghiệm, chẳng hạn, khi thấy một
cội cây, tất cả xảy ra trong khoảnh khắc đó là sự nhận thức về sự vật nào đó.
Chúng ta không hay biết nhận thức này có thuộc về chúng ta hay không, cũng như
không nhận ra được vật thể được tiếp nhận từ bên ngoài chúng ta. Sự nhận thức
về một vật thể bên ngoài đã được phân biệt giả định là bên ngoài hay bên trong,
chủ thể hay khách thể, năng tri và sở tri. Khi sự phân biệt này xảy ra, nếu nó
được nhận thức như vậy, và nếu chúng ta bị dính vào đó, thì bản chất tiên thiên
của kinh nghiệm bị lãng quên, và từ đây, một loạt những rối rắm bất tiện của tri
thức và cảm tính liền hiện khởi.
Cảnh giới vô niệm tương ứng với khoảnh khắc trước khi có sự phân
ra tâm và
pháp giới. Khi ấy, không có cái tâm đứng đối lập ngoại giới và nhận
biết những cảm giác thông qua các giác quan khác nhau. Không chỉ tâm mà các pháp
giới đều không còn hiện hữu nữa. Chúng ta có thể xem đây là trạng thái hoàn hảo
của không, nhưng hễ chúng ta dừng trụ ở đó thì chẳng có gì tiến bộ, chẳng
có được sự chứng nghiệm nào cả, cũng có thể nói đó chỉ là trạng thái vô vi, tự
khai tử chính mình mà thôi! Có một niệm sinh khởi từ trong lòng của tính
không; đây là sự tỉnh thức của Bát-nhã, là sự tách biệt giữa ý thức và vô
thức. Hay nói theo thuật ngữ luận lý học, là sự xuất hiện phản đề căn bản
của phép biện chứng. Đến đây, vô tâm (無 心-vô niệm) đại diện cho
bình diện vô thức của Bát-nhã tỉnh giác, trong khi bình diện ý thức của nó thì
vẫn còn tự phong kín trong nhận thức chủ quan về thế giới ngoại tại. Đây chính
là điều khi Hoàng Bá nói: “Bản tâm chẳng tùy
thuộc, cũng chẳng không tuỳ thuộc vào thấy (kiến 見, s: dṛṣṭa), nghe (văn 聞,
s: śruta), hiểu (giác 覺,
s: mata), biết (tri 知,
s: jñāta). Vô niệm và thế giới ý
thức hoàn toàn ngược chiều nhau, tuy chúng quay lưng với nhau nhưng làm điều
kiện cho nhau: cái này phủ nhận cái kia nhưng sự phủ định này thực ra là sự
khẳng định cho nhau.
Bất luận như thế nào, Thiền vẫn rất gần với kinh nghiệm sống của
chúng ta hằng ngày, đó là ý nghĩa của Nam Tuyền và Mã Tổ nói: “bình thường tâm là đạo” (平常心是道); “Đói ăn, khát uống,
mệt ngủ.” Trong sự trực tiếp của việc hành xử này, không có những môi giới của
trung gian như suy lường về đối tượng, chọn lựa thời gian hay tính toán giá trị.
Vô niệm
tự khẳng định mình bằng cách tự phủ định chính nó. Trong những đoạn sau, chúng tôi sẽ trình bày
sự vận hành thực tiễn của vô niệm, như kinh nghiệm mà các Thiền sư đã
thân chứng và nỗ lực trao truyền cho môn đệ.
Có người hỏi Thiền sư Tỉnh Niệm (925-992) ở Thủ Sơn:
– Con nghe rằng tất cả chư Phật đều từ Kinh nầy lưu xuất. Thế
nào là Kinh
nầy?
– Nói nhỏ thôi! Nói nhỏ thôi! Sư đáp.
Tăng hỏi tiếp:
– Con nên giữ gìn như thế nào?
Sư đáp:
– Đừng để ô nhiễm.
Để cho độc giả có thể hiểu rõ hơn mẫu vấn đáp (mondō)
này, chúng tôi xin nói thêm: “kinh nầy” không nhất thiết nhằm nói đến
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa (s: prajñāparāmitā), mà có thể nhằm đến
tự tính của Huệ Năng, bình thường tâm
của Hoàng Bá, hoặc thực tế là bất kỳ thuật ngữ nào đó có ý nghĩa chung là
Thực tại tối thượng, nơi mà vạn vật lưu xuất. Đương thời, vị tăng hỏi về cái
căn-để-rốt-ráo của vạn pháp. Như tôi đã nói từ trước, ý nghĩa căn-để-rốt-ráo
của vạn pháp này, khi hiện hữu riêng biệt một nơi nào đó, chính là cái sai lầm
căn bản mà chúng ta nỗ lực một cách tri thức để giải thích kinh nghiệm của
chúng ta. Đó là bản chất của tri thức, dựng lập một loạt các phản đề trong mê
cung rồi tự đánh mất mình trong ấy. Không nghi ngờ gì nữa, vị tăng kia là nạn
nhân của sự mâu thuẫn tiền định này, và hoàn toàn thích đáng khi vị tăng ấy hỏi:
“Thế nào là kinh nầy” với ngữ âm cao vút ngạc nhiên. Do đó, Thiền sư Tỉnh
Niệm khuyên: “Nói nhỏ thôi.!”.
Trong kinh văn không nói rõ lời cảnh báo này có được lưu xuất từ mạch nguồn của
chư Phật hay không, nhưng câu hỏi tiếp theo của vị tăng làm sao giữ gìn nó,
biểu hiện vị tăng có được sự lĩnh hội vấn đề.
“Cái gì?”, “tại sao?”, “ở đâu?”, “thế nào?” – tất cả các câu hỏi
nầy đều không thích hợp với tri thức căn bản về cuộc sống, nhưng tâm thức ta
tràn ngập bởi những thứ ấy, và đây là điều tai hại cho tất cả chúng ta. Thiền sư
Tỉnh Niệm hoàn toàn nhận ra điều nầy nên không muốn có
một tri giải nào nữa cả. Câu trả lời của Sư là: “Nói nhỏ thôi, nói nhỏ thôi!” là
thực tế nhất, đủ thổi bay ngay một vấn đề nặng ký nhất.
Một vị tăng hỏi sư Tỉnh Niệm: Thể của hư không là
gì?
Hư không ở đây có thể được dịch là bầu trời hay cái trống rỗng.
Cổ đức thường xem đây như là một dạng thực tại khách quan, và vị tăng đặt vấn đề
làm sao thiết lập mới mối tương quan với thực tại ấy. Cái gì là thể bao trùm mà
qua đó cái hư không này được treo lơ lững trong đó. Tuy vậy, nghĩa chân thực lại
không dính dáng gì đến cái hư không ấy. Nhưng trạng thái tâm của vị tăng sau một
thời gian dài tu tập theo lối quy ước, nghĩa là quét sạch mọi suy nghĩ và cảm
giác ra khỏi ý thức của mình, đã tưởng tượng một cách tự nhiên, cũng như các cư
sĩ khác, rằng mình có một thực thể hiện hữu, mặc dù thực thể ấy không thể
định danh được, nhưng vẫn có thể nắm bắt như là sự chống đỡ trong tình thế
không thể chống đỡ được. Câu trả lời cuả Thiền sư là: “Lão sư của ông đang ở
ngay dưới chân ông đấy.”
Vị tăng hỏi lại:
– Bạch Hòa thượng, sao Ngài lại ở dưới chân đệ tử?
Sư nói ngay:
– Gã này mù!
Câu hỏi của vị tăng nghe có vẻ quá trừu tượng. Nếu Tỉnh Niệm là một triết gia, sư sẽ giảng giải rất dài
dòng. Trái lại, Sư là một Thiền sư thực thụ, thường trải qua những kinh nghiệm
sống hàng ngày, Sư chỉ đề cập đến không gian liên hệ giữa Sư và môn đệ của mình.
Và khi điều Sư muốn nói không được đệ tử tiếp thu, lại có thêm một câu hỏi khác
nữa mà Sư không muốn nên Sư ném lại cho vị tăng một lời quở trách nặng nề.
Lần khác, có vị tăng đến với câu hỏi sau:
– Con, một đệ tử khiêm tốn của thầy, lâu nay gặp một vấn đề nan
giải. Xin thầy rủ lòng từ bi giúp con hóa giải.
Sư Tỉnh Niệm trả lời ngay:
– Ta không rảnh để bàn luận vô ích.
Vị tăng hiển nhiên không thỏa mãn với lời đáp ấy, vì ông chẳng
biết xoay xở làm sao.
– Bạch Hòa thượng, còn đối với Ngài
thì sao?
Sư đáp:
– Khi muốn đi, tôi đi; khi muốn ngồi, tôi ngồi.
Thực là đơn giản, hoàn toàn tự tại với chính mình; Sư chẳng cần
lý giải mông lung. Giữa việc làm và ý muốn của Sư không có khoảng cách trung
gian giữa đạo đức và tri thức. Không có “cái tâm” xen vào, do đó không có
vấn đề đe dọa sự bình an tâm thức của Sư. Câu trả lời của Sư có thể chẳng có ý
nghĩa gì cả nhưng rất thực tiễn và hợp lý.
Một vị tăng hỏi Tỉnh Niệm:
– Mắt thầy là gì mà không nhận nhầm vật khác?
Đây là lới dịch thoáng; câu hỏi nầy muốn nhắm đến phong thái
chân thực của vị thầy, tâm không nhầm lẫn khi kiểm soát mọi kinh nghiệm trải
qua của sư. Mắt chúng ta thường bị vây phủ bởi vô số lớp bụi, nên sự khúc xạ ánh
sáng khiến cho chúng ta không nhìn được chính xác về sự vật. Sư Tỉnh Niệm trả lời ngay:
– Nhìn kìa, mùa Đông đã đến.
Có lẽ cuộc tham vấn này diễn ra nơi thiền viện trên núi với rừng
cây bao phủ, gặp mùa lá rụng, cây rừng trơ trụi trong gió, và thầy trò đang nhìn
thấy những đám mây đầy tuyết, chắc chắn mùa đông đã cận kề, chẳng có chút gì
nhầm lẫn. Nhưng vị tăng còn muốn hỏi ngoài điều ấy ra còn điều gì khác nữa
không, nên hỏi:
– Ý nghĩa rốt ráo là gì?
Tỉnh Niệm hoàn toàn thản nhiên trả lời:
– Rồi gió Xuân êm đềm sẽ đến.
Trong đó không ám chỉ ý niệm siêu hình ẩn mật nào cả, chỉ là sự
quan sát đơn thuần được diễn tả qua ngơn ngữ thông thường. Câu hỏi của vị tăng
nếu rơi vào tay một nhà triết học hay thần học thì sẽ có được câu trả lời khác
hẳn. Nhưng cái nhìn của Thiền sư luôn luôn nhắm đến sự kiện thực nghiệm mà mọi
người đều cảm nhận được, và có thể xác minh được bất kỳ khi nào họ muốn. Bất kỳ
sự ẩn mật nào cũng chẳng phải từ phía các Thiền sư, mà từ cái nhìn trong sự mờ
mịt của riêng họ.
Những mẫu đối thoại này đủ để chứng tỏ thái độ của các Thiền sư
về cái gọi là siêu hình hay thần học, vốn vẫn thường dằn vặt các tâm hồn tôn
giáo mẫn cảm, và đó cũng là phương pháp mà Thiền sư dùng câu hỏi như là một thủ
thuật để khơi mở trí tuệ cho đệ tử mình. Các sư không bao giờ thích bàn luận về
bản tính trừu tượng cao siêu, nhưng lại tôn trọng kinh nghiệm sống hàng ngày,
vốn thường hợp thành qua cái “thấy, nghe, hay biết”. Ý tưởng của họ là vô
niệm
phải được lĩnh hội qua “bình thường tâm”, nếu cái đó là tất cả;
bởi vì không có khoảng trung gian giữa
vô niệm và các thuật ngữ “thấy, nghe, hay, biết”. Mọi hành xử thuộc loại
sau đều được liên kết với vô niệm. Nhưng để độc giả có ấn tượng
mạnh mẽ cho đến khi chán ngấy, tôi sẽ trích dẫn thêm vài mẫu đối thoại nữa.
Một vị tăng hỏi Thiền sư Đại Đồng ở Đầu Tử Sơn:
– Khi Thái tử Na-tra (nāta) róc hết xương trả cha, róc
thịt trả mẹ, còn lại cái gì là của bản thể?
Sư Đại Đồng không trả lời, ném cây gậy đang cầm trên tay
xuống đất.
Câu hỏi thực sự là vấn đề rất nghiêm trang, nhất là khi đặt nặng
vấn đề khái niệm, vì nó liên quan đến cái gọi là giáo lý vô ngã. Khi ngũ uẩn tan
rã, người ta sẽ đi về đâu, nếu giả sử còn có sự hiện hữu phía sau hợp thể này?
Nói năm uẩn vốn là không
và sự giả hợp của nó là chưa đủ sức thuyết phục cho những ai chưa thực sự chứng
nghiệm ̣ việc này. Họ muốn hiểu (thấy) vấn đề được lý giải theo trình tự luận
lý mà họ đã nhận ra từ sự thức tỉnh về mặt ý thức của họ. Họ quên rằng chính cái
luận lý học của riêng họ đang nhốt họ vào trong ngõ cụt của tri thức. Từ đó, họ
lạc mất lối về .
Giáo lý vô ngã là diễn trình một kinh nghiệm chứ chẳng phải là
một suy kết luận lý. Tuy nhiên, đa phần họ nỗ lực vươn tới bằng lý luận tinh vi
mà họ đã thất bại, hoặc lý luận của họ thiếu sức mạnh của sự minh bạch tột cùng.
Từ thời đức Phật, có nhiều luận sư A-tì-đàm đã tận dụng năng lực suy
lý của mình để đặt định một cách hợp lý giáo thuyết vô ngã, nhưng có
được mấy cư sĩ Phật tử thật sự tin nhận lý thuyết này? Khi niềm tin của họ xuất
phát từ kinh nghiệm sống hàng ngày chứ không phải từ lý thuyết. Đối với đức
Phật, điều cảm nhận trước tiên là niềm tin chân thực về nhân cách, rồi mới đến
cấu trúc luận lý hỗ trợ cho niềm tin. Thực ra, những cấu trúc này chẳng có vấn
đề gì quan trọng khi nó có thỏa mãn hoàn toàn hay không? Vì đối với niềm tin, đó
là kinh nghiệm của chính nó, là một sự kiện đã hoàn tất rồi.
Lĩnh vực mà các Thiền sư thừa nhận là ở đây, họ nhường khía cạnh
luận lý học thường ngày cho các triết gia, và các sư bằng lòng qua những đúc kết
rút ra từ chính kinh nghiệm nợi tại của mình. Các sư sẽ phản đối nếu như các nhà
luận lý học cố tình từ chối giá trị chân thực kinh nghiệm của Thiền, dù đến mức
các nhà luận lý học chứng minh bằng những phương tiện cho phép. Nếu họ bị thất
bại trong khi tiến hành công việc một cách hài hòa - nghĩa là minh xác kinh
nghiệm ấy một cách hợp lý - thì sự thất bại thuộc về phía các nhà luận lý học,
là người lúc ấy phải nghĩ ra một phương pháp sử dụng hiệu quả hơn các công cụ
của mình. Sai lầm lớn nhất của hết thảy chúng ta là áp đặt luận lý học vào trong
các sự kiện, trong khi chính các sự kiện tạo ra luận lý học.
Một vị tăng hỏi Phật Tích (c: fu-ch'i):
– Khi các duyên (như tứ đại, ngũ uẩn) tan rã, chúng trở về
không. Nhưng rồi cái không
ấy trở về đâu?
Đây là một câu hỏi có nội dung gần như mẫu đối thoại đã được
trích dẫn về bản thể của Thái tử Na-tra. Chúng ta luôn luôn thích tìm một cái
gì đó đằng sau hoặc bên kia kinh nghiệm của chính mình, mà quên rằng chính việc
tìm kiếm này là sự thối lui vô tận trong mọi tình huống, tới hoặc lui, trong và
ngoài. Các Thiền sư đã biết rất tường tận việc này và tránh được những phiền
toái.
Sư Phật Tích gọi lớn:
– Này huynh!
Vị tăng đáp:
– Dạ!
Sư hỏi:
– Cái không ở đâu?
Vị tăng đáng thương mãi còn theo đuổi những hình tượng có tính
chất khái niệm và hoàn toàn thất vọng để nhận ra cái không ở một nơi nào
đó, nên cầu thỉnh:
– Xin Hòa thượng hoan hỷ chỉ cho con.
Đây là lời thỉnh cầu thứ hai. Thiền sư vẫn không nói thêm điều
gì cả, lại còn giễu cợt thêm:
– Như thể lão già Ba Tư cắn hạt tiêu.
Vào thời của Sư Phật Tích nhằm đời Đường, kinh đô của Trung Hoa
chắc hẳn là nơi trú ngụ của nhiều người từ các quớc gia xa lạ ở phía Tây, và như chúng ta thấy, có
những ám chỉ đến người Ba-tư trong văn học Thiền như trong trường hợp này. Ngay
cả Bồ-đề Đạt-ma, người sáng lập Thiền Phật giáo ở Trung Hoa, cũng được xem như
là người Ba-tư, có lẽ từ này muốn nói đến một người nào đó từ một nơi xa lạ đến.
Rõ ràng một số sử gia đời Đường không phân biệt được rõ Ba-tư và Ấn Độ. Qua câu
trả lời của Sư Phật Tích: “Lão già Ba-tư cắn hạt tiêuý của sư muốn nói đến tính
bất khả đắc trong sự biểu đạt kinh nghiệm qua ngôn ngữ Trung Hoa, bằng hình
tượng một người nước ngoài xa lạ khi đến đất nước này.
Một vị tăng đến Đầu Tử (Đại Đồng) và hỏi:
– Con từ xa đến cốt để gặp thầy. Xin thầy thương xót cho con
chỉ thị.
Đây có phải là lời chỉ thị về Thiền? Vị tăng trải qua cuộc hành
hương từ một nơi xa xơi nhất đến để xin sư một câu chỉ thị về Thiền. “Tôi đau
lưng” – nghe như gáo nước lạnh dội xuống người, hoàn toàn thờ ơ lạnh nhạt. Nhưng
tất cả đều tùy thuộc vào cách nhìn vấn đề vì Thiền liên quan đến đời sống của
chúng ta hàng ngày, nên vị sư già này nói đến cái lưng đau phải chăng là muốn
chỉ ngay cho ta chính cảnh giới vô niệm. Nếu vị tăng đã có nhiều thao
thức về việc này đã lâu nay, chắc chắn ông ta sẽ nhận ra ngay tức khắc điều mà
Sư Đầu Tử muốn chỉ dạy cho ông.
Nhưng ở đây có một điểm cần xem kỹ có liên quan đến khái niệm
về vô thức. Mặc dù tôi đã cảnh báo nhiều lần về điều này–nhưng ở đây tôi cũng
xin được trích dẫn thêm về Đầu Tử:
Một vị tăng hỏi Sư:
– Khi một niệm sinh khởi thì sao?
Vị tăng muốn nói đến trạng thái ý thức, trong mọi niệm tưởng đã
được quét sạch và cái không đã được hiển lộ rồi; và vị tăng muốn biết đây có
phải là kinh nghiệm Thiền hay không? Có lẽ ông tăng nghĩ răng mình đã chứng ngộ
rồi, nhưng câu trả lời của Đầu Tử là:
– Thực là vô tri vô giác.
Có vị tăng khác cũng đến hỏi sư như vậy. Câu trả lời của sư là:
– Cái ấy được tích sự gì?
Hiển nhiên là sư chẳng đoái hoài gì đến trạng thái vô thức mà
đa số Phật tử đã tin nhận.
Cũng một lần khác, có người hỏi sư: – Khi con gà vàng chưa
gáy thì sao?
Câu hỏi này hàm ý cùng một quan điểm dính mắc như của hai vị
tăng trước đây đã vấp phải. Đầu Tử trả lời: – Chẳng có tiếng nào cả.
Vị tăng hỏi:
– Sau khi nó gáy thì sao?
Sư đáp:
– Mọi người đều biết giờ.
Cả hai đều là những câu trả lời qua thực tế, và chúng ta có thể
tự hỏi ở đâu là tính chất mầu nhiệm, ẩn mật, không thể nghĩ bàn của Thiền.
Tưởng tượng rằng Thiền huyền bí là sai lầm trầm trọng trước nhất
mà nhiều người mắc phải. Chỉ vì sai lầm này mà vô thức không hành xử được
theo lối hành xử của chính vô thức, và thực chất của vấn đề lại bị đánh
lạc mất trong cái bẫy của khái niệm. Tâm bị phân chia thành hai ý niệm đối
nghịch nhau, và kết cục là sự phiền toái đáng tiếc. Đoạn văn dưới đây sẽ minh
họa phương pháp thoát khỏi sự mâu thuẫn, hay đúng hơn là cách ứng xử. Vì cuộc
sống thực tế là chuỗi dài những mâu thuẫn.
Một vị tăng hỏi Đầu Tử:
– Năm cũ đã qua và năm mới đã đến. Có khoảnh khắc nào chẳng dính
dáng đến hai thời điểm ấy chăng?
Như chúng ta đã thấy, Thiền luôn luôn thực tiễn và sống động
trong mỗi sự kiện xảy ra hàng ngày. Quá khứ đã qua rồi và hiện tại đang hiện
hữu, nhưng hiện tại ấy rồi cũng sẽ qua đi, thực sự là nó đang đi qua, thời gian
là sự tương tục của hai ý niệm mâu thuẫn này, và toàn thể mọi chuyện xảy ra
trong đời sống của chúng ta đều đang cỡi lên trên qua khứ và hiện tại. Không
thể coi những diễn biến ấy là thuộc về một trong hai thời điểm trên vì nó
không thể bị cắt ra từng mảnh. Thế thì, làm sao mà một sự kiện đi từ quá khứ
đến hiện tại để chúng ta có được một khái niệm hoàn chỉnh về tính hoàn bị của
sự kiện ấy? Khi ý tưởng bị phân chia manh mún như vậy, chúng ta sẽ đi đến chỗ bế
tắc. Vậy nên, đây là y chỉ Thiền, để đặt lại vấn đề một cách cô đọng nhất, và
thực tiễn nhất, nên sư Đầu Tử trả lời vị tăng: – Có!
Vị tăng lặp lại câu hỏi. Sư trả lời:
– Là cái gì?
Sư đáp:
– Năm mới, vạn vật đều như trẻ lại và cùng hòa tấu khúc “Chúc
mừng năm mới.”
Thích Nhuận Châu dịch