Một vị tăng hỏi Mã Tổ:
– Tổ Bồ-đề Đạt-ma từ Ấn Độ sang đây, có ý
chỉ gì? (如 何 是 祖 師 西 來 意?)
Mã Tổ đáp:
– Hiện giờ ý ông là gì?
Bàng cư sĩ (Bàng Uẩn), đệ tử kiệt xuất của Mã Tổ hỏi:
– Như nước không gân xương, sao
có thể chở được chiếc thuyền muôn hộc. Lý ấy như thế nào? (如 水 無 筋 骨 能 生 萬 斛 舟,
此 理 如 何?)
Mã Tổ đáp:
– Trong ấy nước cũng không,
thuyền cũng không, nói gì đến gân xương.
Bách Trượng (Hoài Hải) hỏi:
– Thế nào là chỉ thú của Phật
pháp? (如 何 是 佛 法 旨 趣?)
Mã Tổ đáp:
– Đó chính là nơi ông bỏ thân
mạng! (正 是 汝 放 身 命 處)
Mã Tổ hỏi Bách Trượng dùng pháp gì tiếp người. Bách Trượng liền đưa
cây phất tử (j: hossu) lên. Mã Tổ hỏi:
– Chỉ thế thôi à! Không còn gì
khác nữa ư? (祇 這 箇, 未 當 别 有?)
Một vị tăng hỏi Mã Tổ về ý chỉ của Tổ Đạt-ma từ
Ấn Độ sang Trung Hoa. Sư vừa đánh vị tăng vừa nói:
– Nếu tôi không đánh ông, về sau,
người trong thiên hạ sẽ cười tôi.
☸
Tổng Ấn ở Tam Giác Sơn. Một hôm giảng pháp:
– Nếu chúng ta phải luận đến
chuyện ấy, chỉ một cái nhướng mày cũng khiến chúng ta lệch hướng.
Ma Cốc liền hỏi:
– Không luận về nhướng mày
“chuyện ấy” nghĩa là gì?
Tổng Ấn đáp:
– Đó, ông đã lệch sang một bên
rồi
Ma Cốc lật ngược sàng tòa sư đang ngồi. Sư đánh Ma
Cốc. Không có gì để nói nữa.
☸
Một vị tăng hỏi Bảo Văn (c: pao-yun) ở Lục
Tổ sơn (c: lu-tsu-shan)
– Người ta có ý gì khi nói: “Nói
là không nói?”
Sư hỏi lại:
– Miệng ông ở chỗ nào?
Vị tăng đáp:
– Con chẳng có miệng.
Sư hỏi:
– Thế ông lấy gì để ăn cơm?
Vị tăng không đáp được. Về sau,
Động Sơn (Lương Giới) bình giải:
– Gã nầy không bao giờ đói, không
muốn ăn cơm.
☸
Khi Thường Hưng (c: chang-hsing) ở Lặc Đàm (c: le-tam)
ngồi quay mặt vào tường khoanh chân tọa thiền. Nam Tuyền chợt đến đánh vào lưng
sư. Sư hỏi:
– Ai đó?
Nam Tuyền đáp:
– Phổ Nguyện đây.
Thường Hưng hỏi:
– Ông ra sao rồi?
Nam Tuyền đáp:
– Vẫn thường.
Thường Hưng nói:
– Ông sống một đời bận rộn quá!
☸
Một vị tăng hỏi Bảo Tích ở Bàn Sơn.
– Đạo là gì?
Sư đáp:
– Vào đi!
Tăng thưa:
– Con không thể hiểu được.
Sư đáp:
– Ra đi!
☸
Thiền sư Bảo Triệt (c: pao-che) ở Ma
Cốc sơn (c: ma-ku-shan),
đến phiên làm thị giả cho Mã Tổ. Một hôm, thầy đang đi
dạo, sư hỏi:
– Thế nào là Đại niết-bàn? (如 何 是 大 涅 槃?)
Mã Tổ đáp:
– Nhanh lên nào! ( 急!)
Sư thưa:
– Gấp cái gì? (急 箇 甚 麽?)
Mã Tổ đáp:
– Xem suối kìa. (看 水!)
☸
Một học giả chuyên nghiên cứu
Phật học đến viếng Diêm Quan Tề An (c: yen-kuan ch'i-an).
Sư hỏi ông ta.
– Ông chuyên làm việc gì?
Học giả đáp:
– Con chuyên giảng Kinh Hoa
Nghiêm
Sư hỏi:
– Trong kinh dạy có bao nhiêu
pháp giới?
Học giả đáp:
– Theo cái nhìn tổng quát, có vô
số pháp giới liên hệ với nhau rất mật thiết. Nhưng nói tóm tắt, có bốn pháp
giới.
Khi ấy, sư đưa cây phất tử lên
rồi hỏi:
– Cái nầy thuộc về pháp giới nào
trong đó?
Học giả suy nghĩ một lúc, cố gắng
tìm câu trả lời. Sư không đợi được nữa, bèn nói:
– Cân nhắc suy luận và trí hiểu
biết lan man, rốt cuộc chẳng đáng gì cả, nó thuộc về kẻ giữ mồ cho quỷ, như ngọn
đèn giữa ban ngày, không chiếu sáng được vật gì cả.
☸
Một vị tăng hỏi Đại Mai (Pháp
Thường) về ý chỉ của Tổ Bồ-đề Đạt-ma từ Tây Trúc sang. Sư đáp:
– Chẳng có gì trong đó cả.
Sau nầy, Thiền sư Tề An (c: ch'i-an) nghe
được lời nầy. Sư nói:
– Trong một quan tài, có hai thây
ma. (一 箇 棺 材, 兩 箇 死 漢)
☸ Một vị tăng hỏi Linh Mặc (c: ling-mo) ở Ngũ
Tiết sơn:
– Việc ấy đầu đuôi như thế nào?
Sư đáp:
– Hãy nói cho tôi biết khoảnh
khắc hiện tiền tiếp diễn bao lâu?
Vị tăng đáp:
– Con chẳng theo thầy nỗi.
Linh Mặc nói:
– Chẳng tích sự gì khi để ý đến
câu hỏi của ông.
Vị tăng thưa:
– Nhưng thầy phải biết cách tiếp
xử với những người như thầy chứ?
Sư đáp:
– Khi họ đến, tôi sẽ đưa cho xem.
Vị tăng thưa:
– Thỉnh thầy chỉ cho điều ấy.
Linh Mặc đáp:
– Ông thiếu cái gì nào?
☸ Một vị tăng hỏi Thiền sư Duy
Khoan (c: wei-kuan) ở Hình Sơn tự.
– Đạo là gì?
Duy Khoan đáp:
– Núi đẹp quá chừng!
Tăng nói:
– Con hỏi thầy về đạo, sao thầy
lại nói về núi?
Sư đáp:
– Chừng nào ông chỉ biết có núi,
thì ông chẳng có dịp để nhập Đạo.
Một vị tăng khác hỏi Thiền sư Duy
Khoan:
– Đạo
ở đâu? (道 在 何 處?)
Sư đáp: – Ngay trước mặt. (只 在 目 前)
Tăng hỏi lại:
– Sao con không thấy? (我 何 不 見?)
Sư đáp: – Vì ông còn chấp ngã. (汝 有 我 故)
Tăng hỏi:
– Con không thấy vì con chấp ngã.
Hòa thượng thấy chăng? ( 我 有 我 故 即 不 見,
和 尚 還 見 否?)
Sư đáp:
– Còn “tôi và ông”, thì còn lăng
xăng, nên cũng chẳng thấy (有 汝 有 我 展 轉 不 見).
Tăng hỏi:
– Khi chẳng có “con” cũng chẳng
có “thầy” thì thấy Đạo chăng? (無 我 無 汝, 還 見 否?)
Sư
đáp:
– Khi chẳng còn “ông”, chẳng còn
“tôi”, ai cầu thấy nó làm gì? (無 汝 無 我, 何 誰 求 見?)
☸
Một hôm Trí Thường (c: chih-chang) ở chùa Qui Tông uống trà
với Nam Tuyền Phổ nguyện, Nam Tuyền nói:
– Chúng ta là huynh đệ tâm đắc,
đã nói chuyện với nhau rất nhiều, chúng ta đều biết mình đang ở đâu và biết mỗi
người sẽ đi mỗi đường khác nhau, nếu có ai hỏi huynh về thực tại tối thượng của
các pháp. Huynh sẽ nói sao?
Trí Thường đáp:
– Nơi ta đang ngồi có vị trí rất
đẹp để cất một cái am.
Nam Tuyền nói:
– Để mặc cái am của huynh ở đó,
thế nào là Thực tại tối thượng?
Trí Thường cầm lấy bộ tách trà đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.
Nam Tuyền thấy vậy, nói:
– Huynh đã uống trà xong, còn tôi
thì chưa.
Trí Thường đáp:
– Người nói như thế cũng chẳng
uống được giọt nào.
Một hôm Trí Thường vào thiền đường. Sư nói:
– Nay tôi sẽ nói Thiền. Đại chúng
đến gần đây.
Tăng chúng đến, sư nói:
– Khi các ông nghe được hạnh
nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm, các ông có thể ứng xử thích nghi mọi hoàn cảnh.
Có vị tăng hỏi:
– Hạnh nguyện của Bồ-tát
Quán Thế Âm là những gì?
Sư khảy móng tay, nói:
– Các ông nghe chăng?
Đại chúng đáp:
- Thưa, có nghe.
- Này, lũ vô tri vô giác,
các ông đến đây tìm cái gì?
Sư vừa nói vừa đánh đuổi tăng
chúng ra khỏi phòng, vừa cười ha hả, bước về phương trượng.
☸
Một vị tăng hỏi Lư Sơn:
– Tất cả các pháp đều trở về
không, thế không trở về đâu?
Lư Sơn đáp:
– Không thể đặt miệng vào chỗ ấy
được
Tăng hỏi:
– Sao lại không?
Lư Sơn đáp:
– Vì trong ngoài vốn nhất như
Lần khác, một vị tăng hỏi:
– Tổ Đạt-ma từ Tây Trúc sang. Có
ý gì?
Sư đáp:
– Chẳng có “cái gì” ở đây cả.
Tăng hỏi: – Sao vậy?
Sư đáp:
– Chỉ vì các pháp vốn
như.
Hai tuyên ngôn nầy của Lư Sơn có thể được xem như là
luận giải về một đề tài duy nhất, tính không và chân như.
☸ Một hôm, Ba Lăng (c: pai-ling) gặp
Bàng Cư Sĩ trên đường đi. Ba Lăng
nói:
– Ông có dịp nào nói cho ai về sự
thực mà ngày xưa ông đã kinh nghiệm được ở Nam Nhạc (c: nan-yueh), chăng?
Bàng Cư Sĩ đáp: – Có!
Ba Lăng hỏi: – Với ai?
Bàng Cư Sĩ tự chỉ vào vào mình đáp:
– Với lão già nầy.
Ba Lăng nói:
– Ngay cả sự tán thán của
Văn-thù-sư-lợi và Tu-bồ-đề cũng không đủ chứng minh điều ông nói.
Bàng Cư Sĩ hỏi lại:
– Thế có ai biết được chân lý mà
ông đã kinh nghiệm được không?
Ba Lăng đội nón rơm lên đầu rồi đi ra.
Bàng Cư Sĩ nói theo:
– Tạm biệt sư huynh, xin bảo
trọng.
Nhưng Ba Lăng vẫn hướng về phía trước bước đi, không hề
ngoảnh lại.
☸
Thiền sư Đơn Hà Thiên Nhiên (c: tan-hsia t'ien-jan),
đệ tử của Thạch Đầu. Một hôm sư viếng Quốc
Sư Huệ Trung, khi báo cho thị giả xin được gặp Quốc sư, thị giả đáp:
– Thầy ở đây nhưng không tiếp
khách ( 在 即 在, 不 見 客。)
Đơn Hà bảo:
– Thật sâu xa thay! 太 深 遠 生!
Thị giả đáp:
– Mắt Phật cũng chẳng dò thấu chỗ
sâu xa ấy (佛 眼 亦 不 歷 不 見。
Đơn Hà nói:
– Thực là rồng sinh rồng, phụng
sinh phụng 龍 生 龍 子, 鳳 生 鳳 兒!
Khi Huệ Trung Quốc sư qua giấc ngủ trưa, thị giả thuật lại về
người khách. Huệ Trung phạt thị giả 20 gậy rồi đuổi ra. Khi Đơn Hà nghe được
chuyện nầy, sư nói:
– Chẳng lầm là Nam Dương Quốc sư 不 謬 為 南 陽 國 師!
Ngày hôm sau, sư lại đến viếng
lần nữa, ngay khi đến trước Huệ Trung, Đơn Hà liền trải tọa cụ để đảnh lễ. Huệ Trung ngăn lại:
– Không cần làm vậy 不 用!不 用!
Đơn Hà bước lùi lại. Huệ Trung nói
Như thị! Như thị! 如 是!如 是!
Sư tiến tới trước.
Quốc sư bảo:
– Chẳng phải! Chẳng phải! 不 是!不 是!
Đơn Hà đi quanh Quốc sư một vòng
rồi lùi ra.
Quốc sư bảo:
– Thời của cổ đức đã xa rồi,
người thời nay lại lơ là việc bản phận. Ba mươi năm sau, khó gặp được người như
gã nầy.
☸
Thiền sư Huệ Lãng (Hui-lang) ở chùa
Chiêu Đề (c: chao-t'i), đến tham vấn Mã Tổ hỏi:
– Ông đến đây cầu việc gì? 汝 來 何 求?
Sư thưa:
– Cầu tri kiến Phật!
求 知 見 佛!
Mã Tổ đáp:
– Phật không tri kiến, như vậy,
tri kiến ấy thuộc về ma (佛 無 知 見,
知 見 乃 魔 耳!).
Ông nói ông từ Nam Nhạc đến,
nhưng dường như chưa biết tâm yếu của Tào Khê. Ông nên mau trở về nơi đó, không
nên dừng trụ nơi khác. Sư về đến, Thạch Đầu liền hỏi:
– Thế nào là Phật? (如 何 是 佛?)
Thạch Đầu đáp:
– Ông không có tính nầy (汝 無 佛 性。)
Huệ Lãng hỏi tiếp:
– Những loài xuẩn động hàm linh
(côn trùng) thì như thế nào? (蠢 動 含 靈 又 作 麽 生?)
Thạch
Đầu đáp:
– Xuẩn động hàm linh đếu có Phật
tính! (蠢 動 含 靈, 皆 有 佛 性!)
Huệ Lãng hỏi:
– Huệ Lãng này tại sao không có?
Thạch Đầu đáp:
– Vì ông không chịu nhận (為 汝 不 肯 乘 當!)
Câu nói đã mở mắt cho Huệ Lãng nhận ra tự tính nơi mình. Về sau sư về
trụ ở chùa Chiêu Đề, tất cả tăng nhân đến tham vấn sư đều đuổi đi và nói:
– Hãy đi đi! Các ông chẳng có
Phật tính. (去!
去! 汝 無 佛 性!)
Để giúp cho quý vị hiểu trường
hợp của Huệ Lãng, tôi trích dẫn thêm hai
câu chuyện khác trong Truyền Đăng Lục.
☸
1. Một hôm có vị tăng đến tham
vấn Trường Khánh Huệ Vân. Tăng hỏi
– Trong thân tứ đại ngũ uẩn nầy
cái nào là Phật tính.
Sư gọi tên vị tăng, tăng đáp:
– Dạ!
Sư im lặng một hồi lâu rồi nói:
– Nơi ông chẳng có Phật tính!
☸
2. Khi Hoàng đế Thuận Tông (c: shun-tsung)
hỏi Nga Hồ Đại Nghĩa (e-hu ta-i,
735-818).
Thế nào là Phật tính?
Sư đáp:
– Cái ấy chẳng xa câu hỏi của bệ
hạ
Một hôm Động Sơn (c: tung-shan) đến
tham vấn Huệ Siêu
(hui-chao) ở Thụ Sơn. Huệ
Siêu nói:
– Ông đã là tăng có chỗ trụ rồi
(không còn đi hành cước nữa). Sao còn đến đây tham vấn?
Động Sơn đáp:
– Con còn chút hồ nghi trong tâm
mà đành bất lực. Nên đến đây tham vấn Hòa thượng.
Huệ Siêu gọi lớn:
– Này Lương Giới! (pháp danh của Động Sơn)
Động Sơn liền thưa:
– Dạ!
Huệ Siêu hỏi:
– Đó là cái gì?
Động Sơn không trả lời được. Huệ Siêu bèn phán:
– Một tượng Phật rất đẹp, tiếc
thay chẳng phóng được hào quang.
Một hôm, Bách Trượng giảng pháp xong, thấy tăng chúng sắp rời khỏi
giảng đường. Sư kêu lại:
– Nầy chư huynh đệ!
Tất cả đều quay lại, lúc ấy sư
hỏi:
– Cái gì thế?
Câu hỏi này được lưu truyền rất
lâu trong giới học Thiền thời ấy.
☸
Chấn Lãng (Chen-lang) đến tham vấn Thạch Đầu. Sư hỏi:
– Ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang là
gì?
Thạch Đầu đáp:
– Hãy hỏi cây cột này!
Chấn Lãng thưa:
– Con không hiểu.
Thạch Đầu nói:
– Ta cũng không hiểu.
Câu nói nầy khiến cho Chấn Lãng ngộ đạo. Về sau khi có
tăng đến xin chỉ thị, Chấn Lãng gọi:
– Này Đại đức!
Tăng đáp:
– Dạ!
Nhân đó, Chấn Lãng nói:
– Ông đã tự mình đi lạc hướng!
Vị tăng thưa:
– Nếu thế, sao thầy không chỉ con
phải hành xử như thế nào cho đúng?
Chấn Lãng không đáp lấy hai tay dụi mắt như để nhìn cho
rõ hơn. Vị tăng lặng thinh.
☸
Một hôm Thạch Đầu tuyên bố:
– Dù các ông nói như thế nào, dù
các ông hành xử như thế nào đi nữa, cái ấy chẳng gì dính dáng đến ông.
Dược Sơn Duy Nghiễm luận giải như sau:
– Ngay cả khi các ông không nói
gì, ngay khi các ông không hành xử gì hết, những điều như thế cũng chẳng dính
dáng gì đến ông.
Thạch Đầu nói:
– Ta trong ấy một mũi kim chẳng
lọt (我這裏針劄不入)
Duy Nghiễm nói:
– Con trong ấy như trồng
hoa trên đá (我這裏如石上栽 華)
Một hôm, Dược Sơn Duy Nghiễm im lặng tọa thiền. Có vị
tăng đến hỏi.
– Nơi chót vót bất động ấy, còn
suy nghĩ cái gì? (兀兀地思量甚麽)
Sư đáp:
– Suy nghĩ cái không suy nghĩ (思量箇不思量底)
Tăng hỏi:
– Cái không suy nghĩ làm sao thầy
suy nghĩ được? (不思量底如何思量?)
Sư đáp:
– Bằng cách chẳng suy nghĩ (非思量)
Một vị tăng đến tham vấn hỏi:
– Con có chỗ nghi, xin thầy giải
cho.
Dược Sơn hỏi:
– Đợi đến chiều thượng đường, ta
sẽ giải cho.
Khi đại chúng vân tập về giảng
đường. Dược Sơn gọi vị tăng ấy bước ra trước.Vị tăng theo lời sư bước ra. Sư rời
khỏi ghế, cầm tay vị tăng rồi nói.
– Này! đại chúng, vị tăng này có
mối nghi.
Nói xong, sư đẩy vị tăng ra khỏi
thiền đường rồi đi về phương trượng.
Sau đó, Huyền Giác bình giải:
“Có thực Dược Sơn đã giải được
mối nghi cho vị tăng ấy không? Nếu đó chính là vấn đề thì đâu là điểm then chốt?
Nếu không phải là vấn đề, tại sao Dược sơn hẹn đến chiều sẽ trả lời ở giảng
đường?
☸
Ngưỡng Sơn hỏi Qui Sơn về ý chỉ của Tổ Đạt-ma
sang từ Ấn Độ sang Trung Hoa. Qui Sơn đáp:
– Cái lồng đèn nầy đẹp ghê!
Ngưỡng Sơn hỏi:
– Cái này chẳng phải là nó hay
cái kia là chẳng phải?
Qui Sơn hỏi lại:
– “Cái này” nghĩa là gì?
Ngưỡng Sơn đáp:
– Cái lồng đèn nầy đẹp ghê!
Qui Sơn:
– Hẳn là ông chẳng thấy!
Nhân tiện, tôi cũng xin đề cập
đến những khó khăn đối với những người chưa được mật truyền yếu chỉ thiền, để
xác định được ý chỉ của thầy mình khi được trao truyền. Chẳng hạn như trong câu
nói của Qui Sơn vừa rồi: “Ông chẳng
thấy”, ta không nên hiểu theo nghĩa không “thấy biết”. Vì ở đây, Qui Sơn không
cho rằng Ngưỡng Sơn không biết Thiền, trái lại, Qui Sơn biết rất rõ Ngưỡng Sơn
đang đứng ở chỗ nào, và Ngưỡng Sơn cũng biết rõ Qui Sơn đang đứng ở nơi đâu. Do
vậy nên chúng ta không nên chỉ biết đến những gì họ đang nói với nhau, mà trước
hết, chúng ta phải đi sâu vào nội tại hoặc là bước vào chủ ý của ngôn ngữ họ
dùng.
Một vị tăng thỉnh cầu Dược Sơn
khai thị cho ông ta được sáng tỏ, vì ông ta vẫn còn mò mẫm trong tối tăm của đời
mình. Dược Sơn im lặng một hồi lâu. Cái im lặng mang đầy ý nghĩa, và nếu vị tăng
đã sẵn sàng, thì ông ta sẽ ngộ được nhờ cái im lặng ấy. Nhưng thực tế, vị tăng
đã đánh mất cơ may và Dược Sơn nói tiếp:
– Chẳng khó khăn gì khi trả lời
cho ông. Tuy nhiên, điều tốt cốt yếu là phải nắm bắt được ý nghĩa điều muốn nói
là gì ngay khi vừa nói ra, không chút lý luận. Khi điều nầy được xảy ra có nghĩa
là thể hội với đạo. Trái lại, nếu ông còn chần chừ, ông sẽ bắt đầu lý luận, và
sự lầm lẫn ấy rốt cục là tại ngay nơi cửa miệng của ta. Tốt hơn là nên giữ mồm
thật chặt để cả ông lẫn ta tránh khỏi những rắc rối về sau.
Lời dạy nầy của Dược Sơn hoàn
toàn chính xác. Lời nói gợi cho chúng ta những lý giải lan man và dẫn đến sự suy
lý, trong khi chiều hướng của thiền lại hoàn toàn khác, nhắm thẳng vào khoảnh
khắc trước khi lời nói được phát ra.
☸
Một vị tăng đến tham vấn Thiền sư
Thạch Lâu (c: shih-lou). Hỏi:
– Con hoàn toàn mờ mịt mặt mũi
của mình khi chưa sinh, xin thầy từ bi dùng phương tiện chỉ bày.
Thạch Lâu đáp:
– Ta không có tai!
Tăng thưa:
– Con biết mình có lỗi.
Thạch Lâu đáp:
– Ô, không, đó là lỗi của tôi.
Tăng hỏi:
– Lỗi của thầy ở chỗ nào?
Thạch Lâu đáp:
– Ở chỗ ông nói rằng ông có lỗi.
Vị tăng lễ bái. Sư liền đánh vị
tăng.
☸
Thạch Đầu hỏi Huệ Lâm, là đệ tử của mình
– Ông là thiền tăng hay là tăng
châu huyện? (汝 是 禪 僧, 是 州 縣 蹋 僧?)
Huệ Lâm đáp:
– Là tăng tham thiền (是 參 禪 僧)
Thạch Đầu hỏi tiếp:
– Thế nào là thiền? (何 者 是 禪?)
Huệ Lâm đáp:
– Nhướng mày, chớp mắt (揚 眉 瞬 目。)
Thạch Đầu bảo:
– Bỏ cái nhướng mày chớp mắt ấy
qua một bên, hãy đem mặt mũi khi chưa sinh ra đây xem! (除 卻 揚 眉 瞬 目, 外, 將 本 來 面 目 呈 看!)
Huệ
Lâm đáp:
– Bỏ cái nhướng mày chớp mắt ấy,
thỉnh Hòa Thượng xem (除 卻 揚 眉 瞬 目,
外, 請 和 尚 鑒)
Thạch Đầu đáp:
– Ta đã bỏ rồi! (我 除 竟!)
Huệ Lâm đáp:
– Con đã trình rồi (我 呈 了 者!)
☸
Một hôm Thúy Vi Vô Học (c: ts'ui-wei wu-hsiao) đi dạo trong
pháp đường. Đầu Tử (c: t'ou - tzu) đến gần, cung kính lễ
bái, thưa:
– Hòa thượng dạy người như thế
nào về mật ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Thúy Vi dừng bước môt hồi lâu, Đầu Tử lại thưa:
– Xin thầy chỉ dạy.
Sư bảo:
– Lại thích đẫm trong vũng nước
dơ một lần thứ hai hay sao?
Đầu Tử lễ tạ rồi lui ra. Sư nói theo:
– Chớ vùi gốc.
Đầu Tử thưa:
– Khi thời tiết đến, gốc mầm tự
sanh.
Khi Thúy Vi đặt lễ vật cúng dường các vị A-la -hán, có vị
tăng hỏi:
– Đan Hà (tan-hsia, thầy
của Thúy Vi) thiêu tượng Phật gỗ. Sao thầy còn cúng A-la-hán?
Thúy Vi bảo:
– (Tượng Phật) dù có thiêu trong
lửa cũng chẳng cháy, còn cúng dường A-la-hán, cứ để mặc tôi.
Lần khác, có vị tăng hỏi:
– Khi cúng dường, các vị A-la-hán
có đến chăng?
Sư hỏi lại:
– Hằng ngày ông có ăn cơm chăng?
Vị tăng không đáp được. Sư kết
luận:
– Ít có kẻ lanh lợi.
☸
Khi Đạo Ngô Viên Trí (tao-wu yuan-chih) và Vân Nham (yun-yen),
đứng hầu thầy là Dược Sơn. Dược Sơn nói:
– Chỗ mà tri thức chẳng chạm đến
được, tối kỵ khi nói đến. Nếu nói đến, tức đầu mọc sừng. Này Trí Đầu đà (Viên
Trí), ông nghĩ sao?
Đạo Ngô liền bỏ đi ra.
Vân Nham Đàm Thạnh hỏi Dược Sơn.
– Tại sao sư huynh Trí không đáp
lời Hòa thượng?
Dược Sơn trả lời:
– Hôm nay ta đau lưng. Viên Trí đã hội, tìm y mà hỏi.
Vân Nham đi ra, khi gặp Viên Trí, liền hỏi:
– Vì sao mà lúc nãy sư huynh
không đáp lời Hòa thượng?
Viên Trí bảo:
– Ông hãy đến hỏi Hòa thượng đi!
☸
Đức Thành ở Hoa Đình, thường được biết đến như một người
thường sống lênh đênh trên một chiếc thuyền nhỏ trên sông Ngô. Một hôm có một vị
tăng tên Thiện Hội (c: chan-hui),
được một vị thiện tri thức khuyên nên đến tham vấn thuyền tử nầy.
Thuyền Tử hỏi :
– Đại đức trụ ở chùa nào?
Thiện Hội thưa:
– Tôi chẳng trụ ở chùa nào cả, mà
trụ nơi chẳng ai biết.
hỏi:
– Nơi chẳng ai biết ấy chẳng
giống cái gì?
Thiện Hội đáp:
– Chẳng phải là cái mắt có thể
nhìn thấy được.
Thuyền Tử hỏi:
– Ông học ở đâu mà biết như vậy.
Thiện Hội đáp:
– Cái đó chẳng phaỉ chỗ lãnh hội
của tai mắt.
Sư cười lớn, nói:
– Cho dù ông nói hay cỡ nào, nó
cũng chẳng giúp gì cho ông hơn là cái cọc cột lừa, khi người ta thả sợi dây ngàn
thước xuống đầm là có ý muốn dò độ sâu. Chớ ngậm lấy mồi câu mà hãy nói mau! Nói
mau!
Thiện Hội vừa mở miệng, sư liền đánh cho một chèo rơi
xuống nước. Thiện Hội mới leo lên thuyền, sư lại dục:
– Nói, nói!
Thiện Hội vừa mở miệng, liền bị sư đánh, Thiện Hội hoát
nhiên đại ngộ. Về phần Thuyền Tử, sau đó sư bỏ thuyền đi ngay và không ai biết
sư sống những ngày còn lại ở đâu.
☸
Vào một ngày trời mưa, Sa-di Cao đến thăm Dược Sơn, Sư
hỏi:
– Ông mới đến?
Sa-di Cao thưa:
– Con mới đến.
Dược Sơn nói:
– Ướt hết rồi phải không?
Sa-di Cao:
– Không đánh điệu trống ấy.
Lúc ấy Vân Nham và Đạo Ngô đang ở
Dược Sơn, Vân Nham nói:
– Ở đây da còn chẳng có, trống
đâu mà đánh?
Đạo Ngô nói:
– Đây trống chẳng có, da đâu mà
đánh?
Cuối cùng Dược Sơn kết luận.
– Hôm nay chúng ta hòa nhạc khá
hay.
Khi đến giờ thọ trai, Dược Sơn
đánh trống và Sa-di Cao cầm bát vừa đi vừa múa đến trai đường. Thấy
vậy, Dược Sơn bỏ dùi trống, hỏi:
– Múa điệu số mấy.
– Sa-di Cao đáp:
– Điệu số 2.
Dược Sơn hỏi:
– Thế nào là điệu thứ nhất.
Sa-di Cao bới đầy bát cơm rồi đi ra.
☸
Từ những “vấn đáp” được trao đổi
với nhau giữa những người học thiền trong suốt 150 năm sau Huệ Năng thị tịch,
người đọc có thể hình dung tầm mức phát triển của tư tưởng thiền. Bối cảnh hầu
như hoàn toàn thay đổi kể từ thời của Lục Tổ, trước kia, người ta chỉ dùng kinh
giáo để diễn đạt Thiền, không ai nghĩ rằng những cái đập, cú đá và những phương
pháp thô bạo có thể được trao cho đệ tử. “Cái thấy thuần túy” đã nhường bước cho
các hành động theo một cách nào đó. Có chăng một sự thay đổi chủ yếu của tinh
thần Thiền trong sự truyền thừa từ Đạt-ma đến Huệ Năng? Bên ngoài thì có nhưng
về mặt tinh thần thì không. Vì có một dòng mạch ngầm tư tưởng chảy liên tục bên
dưới nội dung những cuộc “vấn đáp” ấy. Cái thay đổi chỉ là phương pháp sử dụng.
Tinh thần chính vẫn là Huệ Năng
trong khẳng ngôn: “pháp môn của ta đây, từ trước đến nay, đầu tiên lấy vô niệm
làm nền tảng (tông), lấy vô tướng làm thể, lấy vô trụ làm gốc (我 此 法 門, 從 尚 以 來,
先 立 無 念 為 宗, 無 相 為 体, 無 住 為 本。)
Tuyên ngôn nầy là nền tảng của
giáo lý thiền, và có thể tìm thấy điều ấy trong những câu trả lời đa dạng
của các thiền sư cũng như trong
lời nói, cử chỉ mà các sư biểu thị.
Vô niệm mang tính chất tâm lý
học (e: psychlogical), vô tướng
có tính chất bản thể học (ontological) và vô trụ
có tính chất luận lý học. Vô niệm và vô trụ
có ý nghĩa chủ quan, trong khi vô tướng mang ý nghĩa khách quan. Tất cả
đều có nghĩa ý thực tiễn và tột cùng nhất như, nhưng Thiền chú ý nhiều đến tâm
lý học, về sự trực nhận ra vô niệm trong chiều hướng siêu việt chính nó. Vì một
khi có được chỗ trụ có nghĩa là có một chỗ vô trụ được nhận ra, nghĩa là tâm
hoàn toàn xả ly các sắc tướng (form), cũng có nghĩa là không còn chấp
trước vào tâm mình nữa, và đây gọi là trạng thái vô niệm, vắng bặt tất cả
mọi niệm tưởng. Cho đến nay, điều nầy đã được khảo sát trong mối liên quan với
Bát-nhã, vì Huệ Năng chú tâm rất mạnh đến vấn đề Trí huệ và thiền định, như được
phản ảnh rõ quan thời đại của Ngài. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét từ ánh sáng
chớp lóe nào mà “cái không niệm tưởng hay vô niệm
này được nhận ra trong mối tương quan với đời sống, đạo đức của chúng ta.
Bây giờ chúng ta sẽ đi đến sự
biện luận mang ý nghĩa phong phú nhất về giáo pháp thiền. Chừng nào mà cái thấy
bên trong tự tính còn được xem là tự tính,
thì vấn đề vẫn còn nhấn mạnh ít nhiều trên bình diện nhận thức luận, và dường
như không ảnh hưởng mấy với đời sống thực tiễn của chúng ta theo quan điểm đạo
đức học. Nhưng khi Bát-nhã không chỉ được nhìn từ quan điểm tri giác, mà còn từ
quan điểm thực hành thì nó tiếp cận thẳng với trọng tâm đời sống. Phần lớn những
mẫu “vấn đáp, được trích dẫn ở trên đã được trích từ biên niên sử Thiền tông vào
thời sơ khai để chứng minh phương pháp khai thị của riêng từng Thiền sư, nhằm
đánh thức Trí huệ Bát-nhã trong môn đệ mình, khi tâm thức họ bị đông cứng hoặc
chênh vênh bởi những kiến giải nhị nguyên về sự sống và thế giới tự nhiên. Qua
những điển hình sau đây, chúng ta sẽ cố gắng thâm nhập được vào sự vận hành của
Bát-nhã trong tiếp xử hằng ngày.
☸
1. Một vị tăng hỏi Thiền sư Cảnh
Sầm ở Trường Sa.
– Thế nào là “Bình thường tâm là
đạo
Cảnh Sầm đáp:
– Khi tôi muốn ngủ, tôi ngủ, khi
tôi muốn ngồi, tôi ngồi.
Tăng thưa:
– Con không hiểu được ý thầy.
Cảnh Sầm nói tiếp:
– Mùa hạ tìm chỗ mát, mùa lạnh
ngồi bên lò sưởi.
☸
2. Nguyên Luật sư đến tham vấn
Đại Châu Huệ Hải. Luật sư hỏi:
– Để tiến vào đạo, có con đường
đặc biệt nào chăng?
Huệ Hải đáp:
– Có!
Luật sư hỏi:
– Đó là gì?
Huệ Hải trả lời:
– Khi đói thì ăn, khi mệt thì
ngủ.
Luật sư Nguyên:
– Mọi người cũng đều như thế, có
cùng chỗ dụng công của thầy chăng?
Huệ Hải đáp:
– Không đồng.
Luật sư Nguyên hỏi:
– Sao chẳng đồng?
Huệ Hải đáp:
– Khi ăn, họ chẳng chịu ăn, mà
còn dấy lên bao thứ tưởng tượng. Khi ngủ, họ không chịu ngủ, mà còn thả mình vào
muôn thứ suy tưởng điên rồ. Do đó chẳng đồng.
Luật sư không hỏi nữa.
☸
3. Khi toàn thể tăng chúng của
Bách Trượng đang cuốc đất, một vị tăng nghe tiếng trống báo
hiệu giờ ăn cơm, sư liền buông cuốc rồi cười ha hả bước đi. Thiền sư Hoài Hải
(Bách Trượng) nhận xét.
– Gã ấy thật lanh lợi. Đó là lối
nhập đạo theo pháp môn của Quán Thế Âm.
Khi sư trở về tu viện, sư cho gọi
vị tăng hồi nãy rồi hỏi:
– Hồi nãy, khi nghe tiếng trống,
ông nhận ra đạo lý gì?
Vị tăng đáp:
– Chẳng có gì, nghe tiếng trống
báo giờ ăn cơm, con trở về ăn cơm thôi.
Lần nầy, câu trả lời khiến sư
cười vang.
☸
4. Khi Qui Sơn Linh Hựu ngồi trong giảng đường, vị tăng phạn đầu đánh
bảng gỗ báo hiệu giờ ăn cơm.
Nghe vậy, vị tăng đang chụm lửa vội buông chiếc đũa cời rồi vỗ tay cười ha hả.
Qui Sơn nói:
– Trong tăng chúng đây có người
thật linh lợi.
Lát sau, sư cho mời vị tăng ấy
đến rồi hỏi:
– Có chuyện gì mà ông cười?
Vị tăng đáp:
– Sáng nay con không dùng điểm
tâm, con đói quá nên khi nghe tiếng mõ, con quá sung sướng nên cười.
Sư gật đầu.
☸
5. Vân Nham hỏi Bách Trượng Hoài Hải.
– Bạch thầy, dường như thầy bận
rộn suốt ngày, thầy làm vì ai vậy?
Hoài Hải đáp:
– Có người muốn vậy.
Vân Nham hỏi tiếp:
– Sao thầy không để y tự làm lấy?
Hoài Hải đáp :
– Y chẳng có nhà.
☸
6. Hoàng Bá Hi Vận từ giã Nam Tuyền. Sư tiễn Hoàng Bá ra đến cổng
chùa. Nam Tuyền cầm chiếc nón du phương của Hi Vận đưa lên rồi hỏi.
– Thân Trưởng lão to lớn, sao cái
nón lại quá nhỏ (長 老 身 材 沒 量 大, 笠 子 太 小 生?)
Hi Vận đáp:
– Có lẽ vậy, nhưng toàn vũ trụ
rộng lớn nầy đều được chứa trọn trong ấy cả. (雖 然,
如 此 大 千 世 界 總 在 裏 許.)
Nam Tuyền nói:
– Thế còn tôi thì sao?
Hi Vận không đáp, đội nón, bước đi.
☸
7. Thiền sư Vân Tế (c: yun-chi) ở núi Chung Nam, ban đầu
đến tham vấn Nam Tuyền. Sư hỏi:
– Người đời không biết ngọc ma-ni
ở đâu. Con nghe nói mình có thể nhận được nó từ trong Như Lai tạng. Thế
nào là tạng? (磨 尼 珠 人 不 識, 如 何 如 來 藏 裏 親 收 得 。如 何 是藏?)
Nam
Tuyền đáp:
– Cái
cùng ông qua lại đó! (與 汝 往 來 者 是!)
Vân Tế hỏi tiếp:
– Thế còn cái không qua lại vì
con thì sao? (不 往 來 者 如 何?)
Nam Tuyền đáp:
– Đó cũng là Tạng ấy.
亦 是!
Vấn Tế hỏi tiếp:
– Thế châu ma-ni là gì? (如 何 是珠?)
Nam Tuyền liền gọi:
– Này Sư Tổ! (hiệu của Thiền sư
Vân Tế)
Vân Tế liền đáp:
– Dạ!
Nam Tuyền bảo:
– Hãy đi đi! Ông chẳng hiểu lời
ta ( 去! 汝 不 會 我 語).
Tuy vậy, Vân Tế nhờ đó mà nhận được lý Thiền.
Thích
Nhuận Châu dịch