Dẫn nhập:
Từ buổi sơ khai của lịch sử Phật
giáo Thiền Trung Hoa, có hai nhân vật nổi bật. Một trong hai nhân vật ấy, hiển
nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người sáng lập Thiền
tông. Và nhân vật thứ hai là Huệ Năng (thổ ngữ phương Nam là Wei-lang, tiếng Nhật gọi là
Yeno; sinh năm 638, tịch năm 713), là người đã đóng vai trò quyết định trong
tiến trình tư tưởng Thiền đã được khai sáng bởi Bồ-đề Đạt-ma. Nếu không có Huệ
Năng và những môn đệ trực tiếp của Ngài, chắc hẳn Thiền đã không thể nào phát
triển được như thực tế ở giai đoạn
đầu nhà Đường trong lịch sử Trung Hoa.
Chính vì thế, vào thế kỷ thứ 8,
một tác phẩm của Huệ Năng, mệnh danh là “Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh”, đã chiếm một vị trí rất
quan trọng trong Thiền, và những thăng trầm lịch sử mà tác phẩm này đã hứng chịu
quả là to tát.
Chính qua tác phẩm nầy, vai trò
của Bồ-đề Đạt-ma mới được xác định một cách đúng đắn như là
người đầu tiên truyền bá tư tưởng
Thiền ở Trung Hoa. Cũng qua đây, những nguyên lý cơ bản của tư tưởng Thiền đã
được vạch ra cho hàng môn đệ của Ngài như là khuôn mẫu.
Nhờ có Huệ Năng mà các hành giả
Thiền ngày nay mới có được mối liên kết về trước với Bồ-đề Đạt-ma; và cũng kể từ Huệ Năng về sau mà chúng ta có thể ghi nhận sự
ra đời của Thiền Trung Hoa, khác biệt hẳn với sắc thái Thiền Ấn Độ là khởi
nguyên của nó. Chúng ta xem Đàn Kinh là một tác phẩm có hệ quả to lớn,
chính là do nơi ý nghĩa hai chiều này. Cội nguồn tư tưởng Thiền được trải dài
đến Bồ-đề Đạt-ma bắt nguồn từ sự chứng ngộ của chính Đức Phật; trong khi các chi
phái của Thiền lại lan truyền khắp vùng Viễn Đông, nơi Thiền đã mang lại nhiều
kết quả.
Đã qua hơn 1000 năm, từ khi lần
đầu tiên giáo pháp của Huệ Năng được hoằng truyền, và mặc dù từ đó đã trãi qua
nhiều thời kỳ phát triển biến hóa khác nhau, tinh túy của Thiền vẫn còn lưu nét
trong Đàn Kinh.
Bởi lý do này, nếu muốn xuôi theo
dòng lịch sử tư tưởng Thiền, chúng ta phải nghiên cứu tác phẩm của Huệ Năng, là
vị tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Hoa; trong mối quan hệ song trùng, một phía với
Bồ-đề Đạt-ma, và một phía với các đệ tử hậu duệ của Đạt-ma, đó là Huệ Khả (c: Hui-ke), Tăng Xán (c: Seng-tsan), Đạo Tín (c: Tao-hsin) và Hoằng Nhẫn (c: Hung-yen), và mặt kia là mối quan hệ
giữa Huệ Năng và những người đương thời.
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ
Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu
truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần, mà chỉ riêng người thừa kế
mới được xem là môn đệ chính tông của Thiền Huệ Năng, như được chứng minh qua
đoạn văn sau đây trong Đàn Kinh.
“Đại sư trụ ở núi Tào Khê, ảnh
hưởng tinh thần của Ngài thấm nhuần suốt hơn 40 năm, lan tỏa đến hai
tỉnh lân cận là Thiều và Quảng. Đệ tử của Ngài gồm tăng sĩ lẫn cư sĩ, từ 3000 cho đến 5000
người, còn nhiều hơn số lượng mà người ta có thể tính đếm được. Về cốt tủy giáo
lý của ngài, Đàn Kinh được trao truyền cho môn đệ như một ấn chứng chân
xác, những ai không được thụ nhận pháp nầy xem như không phải là người trong
tông môn (nghĩa là không khế nhập trọn vẹn giáo pháp của Huệ Năng). Khi có sự ấn
chứng được diễn ra giữa Đại sư và môn đệ được trao truyền…, thì môn đệ phải nêu
ra được pháp danh mình và nơi chốn xảy ra việc trao truyền, khi không có sự ấn
chứng trao truyền nầy thì không thể được xem là môn đệ của Thiền phương nam những ai không được phân
phó cho nhiệm vụ hoằng truyền
Đàn kinh, có nghĩa họ không thâm nhập tinh túy pháp môn Thiền Đốn ngộ, mặc dù người ấy có
thuyết giảng được kinh nầy, vì chẳng sớm thì muộn họ cũng sẽ rơi vào sự tranh
luận (tri giải) trong khi những người đắc pháp chỉ biết hiến mình vào việc hành
trì tu tập. Sự tranh luận về giáo pháp được sinh khởi từ ham muốn nổi danh nên
không tương ứng với đạo.” (Thủ bản Đôn Hoàng của Suzuki và Koda, phần
38).
Những đoạn văn có ý nghĩa tương
tự, mặc dù mang ít tính chất xác quyết hơn, cũng được trình bày ngay trong đoạn
văn đầu tiên của Đàn Kinh, trong phần thứ 47và 57. Những lập lại này, đủ để
chứng minh cho bản kinh này đã chứa đựng ý nghĩa sâu sắc từ những bài pháp của
Huệ Năng, đã được các môn đệ trực tiếp của Ngài đánh giá rất cao.
Theo Thủ bản Đôn Hoàng (P.15) và ấn bản Quang
Thắng tự (P. 56), có ghi lại những đệ tử
được truyền thừa pháp này. Các ấn bản Đàn Kinh phổ thông khác, vốn thường
căn cứ vào bản Nguyên (c: yuan) từ thế kỷ 13, thì không có những đoạn
liên quan đến sự truyền thừa, lý do của việc bỏ sót sẽ được đề cập ở phần sau.
Chắc chắn các bài pháp của Huệ
Năng đã gây chấn động giới học Phật trong thời của ngài, có lẽ trước Ngài
không có vị tăng sĩ Phật giáo nào gây được sinh
khí lôi cuốn trực tiếp đến quần chúng như thế. Việc nghiên cứu Phật pháp mãi cho
đến thời bây giờ ít nhiều chỉ hạn cuộc trong tầng lớp có học, và bất kỳ kinh
luận nào do các pháp sư giảng nói đều căn cứ trên giáo điều chính thống. Đó là
những cuộc thảo luận có tính cách học thuật, trong bản chất của việc nghiên cứu,
đòi hỏi nhiều ở sự uyên bác và trí phân tích hơn. Những luận giải này không cần
thiết phải có sự phản chiếu từ thực tế của đời sống tôn giáo và kinh nghiệm tâm
linh của con người, mà mối liên quan chủ yếu là với những ý niệm và biểu tượng.
Trái lại, những bài pháp của Huệ
Năng biểu lộ trực giác tâm linh của chính Ngài, do vậy nên các pháp ấy vô cùng
sống động, ngôn ngữ rất trong sáng và đầy chất uyên nguyên.
Ít ra, đây cũng là một lý do mà
quần chúng cũng như các học giả chuyên nghiệp đón nhận (Huệ Năng) theo cách chưa
từng có. Đây cũng là lý do tại sao Huệ Năng mở đầu Đàn Kinh qua việc kể
lại khá dài cuộc đời của mình, do vì nếu Huệ Năng chỉ là một vị tăng học giả nằm
trong tăng đoàn, thì chẳng cần thiết cho chính Ngài, hay đúng hơn cho môn đệ
trực tiếp phải giải thích thật chi tiết về cuộc đời của chính Ngài. Việc các đệ
tử nhấn mạnh rất nhiều đến sự ít học của thầy mình chắc chắn có mối liên hệ rất
lớn với tính cách độc đáo và sự nghiệp của ngài.
Tiểu sử đời ngài, mở đầu trong
Đàn Kinh, được thuật lại theo dạng tự truyện, nhưng trông có vẻ thích hợp
với công việc biên soạn hơn là chính tác phẩm ấy do nhiều người biên soạn. Chắc
chắn đoạn văn mà Huệ Năng mô tả quá nổi bật, chói sáng, tương phản với Thần Tú (c: shen-hsiu), người được xem như đối
thủ của ngài, đoạn văn không thể nào phát xuất từ miệng của Huệ Năng. Sự mâu
thuẫn về khuynh hướng tu tập của hai đại sư nầy manh nha ngay sau khi thầy của
họ, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn viên tịch, nghĩa là chỉ xảy ra khi người truyền
pháp môn Thiền theo theo ánh sáng bừng chiếu từ sự chứng ngộ của riêng họ.
Cũng không chắc cả hai người đã
cùng thọ giáo với Hoằng Nhẫn cùng một thời gian, Thần Tú đã hơn 100 tuổi khi ông viên tịch vào năm 706,
lúc ấy Huệ Năng chỉ mới 69 tuổi. Như vậy giữa hai người có sự cách biệt ít nhất
30 năm, và theo cuốn Cuộc Đời Huệ Năng do Tối Trừng đem về Nhật từ năm 830,
thì Huệ Năng 34 tuổi khi đến thọ giáo với Hoằng Nhẫn, nếu Thần Tú vẫn còn thân
cận với Ngũ Tổ tuổi ông là giữa 64-70, và sách nói rằng Thần Tú vẫn còn thân cận
với thầy mình sáu năm, Hoằng Nhẫn viên tịch ngay sau khi Huệ Năng ra đi, rất có
thể là năm thứ 6 Thần Tú thân cận với Hoằng Nhẫn trùng hợp với sự xuất hiện của
Huệ Năng tại tu viện Hoằng Mai. Nhưng nếu Thần Tú (được đánh giá) quá thấp so
với nội chứng của Huệ Năng, thì ngay sau sáu năm tham cứu và tự thực hành công
phu, nếu Hoằng Nhẫn viên tịch ngay sau khi Huệ Năng rời khỏi tăng chúng thì Thần
Tú hoàn tất những chỉ thị Thiền của mình vào lúc nào?
Theo các tài liệu liên quan đến Thần Tú, rõ ràng đây là một trong những Thiền sư
hoàn chỉnh nhất sau Hoằng Nhẫn cũng như suốt trong thời kỳ nầy.
Tiểu sử của Thần Tú được ghi trong Đàn
Kinh tất phải như tiểu thuyết do người ta biên soạn lại sau khi Huệ năng
viên tịch và cái gọi là mâu thuẫn (giữa khuynh hướng) của hai bậc Đại sư, thật
ra chỉ là sự mâu thuẫn (về khuynh hướng) trong hàng đệ tử riêng của mỗi vị.
Trong lời mở đầu cho Đàn Kinh,
Huệ Năng tự kể về nơi ngài sinh ra và nói
về việc ngài hoàn toàn không hay biết gì về văn học cổ điển Trung Hoa. Rồi ngài
tiếp tục kể rằng mình thích thú Phật pháp như thế nào khi nghe người lạ tụng
kinh Kim Cương (s:vajracchedika-sūtra), trong khi chính ngài
lại không biết đọc. Khi đến núi Hoàng Mai để học Thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Huệ Năng vẫn chưa được
chính thức công nhận là một vị tăng xuất gia, mà chỉ xem là một cư sĩ làm công
quả, ngài được phân công theo chúng làm việc ở nhà trù theo quy chế người làm
công quả ở tu viện. Trong danh nghĩa đó, rõ ràng ngài không được phép sống chung
với tăng chúng đã xuất gia. Và ngài chẳng được hay biết gì về những sinh hoạt đang
diễn ra ở các nơi khác trong tu viện.
Tuy nhiên, có ít nhất một đoạn
trong Đàn Kinh và trong cuốn tiểu sử Huệ Năng, nói đến những dịp gặp gỡ
giữa Huệ Năng và thầy Hoằng Nhẫn. Khi Hoằng Nhẫn thông báo rộng rãi bất kỳ đệ tử nào có thể làm
được một bài kệ (s: gāthā) trình bày chỗ khế hợp
với lý Thiền sẽ được kế thừa làm tổ thứ 6 của Thiền tông. Huệ Năng không được
thông báo cho biết sự kiện nầy, vì rốt cùng, Huệ Năng chỉ là một cư sĩ quèn làm
công quả ở dưới bếp chùa. Nhưng Hoằng Nhẫn chắc hẳn đã nhận ra mức độ chứng
nghiệm tâm linh từ Huệ Năng, nên phải có những hy vọng rằng một ngày nào đó,
bằng cách này hay cách khác, điều ngài tiên đoán về Huệ Năng sẽ được hiển bày.
Huệ Năng cũng không thể viết được
bài kệ ngộ giải của mình, nên Ngài phải
nhờ người khác viết giùm, trong Đàn Kinh thường có nhiều đoạn nói đến Huệ
Năng không đọc được kinh mặc dù ngài hiểu rất rõ nghĩa khi có người đọc cho ngài nghe.
Sự đối chọi (khuynh hướng) giữa
Huệ Năng và Thần Tú, được nhấn mạnh một cách
thiên vị trong tất cả các tư liệu có giá trị thực tế đương thời (ngoại trừ trong
cuốn tiểu sử do Tối Trừng mang về như đã nói ở
trên, không đề cập đến Thần Tú), chắc chắn đều được phóng đại bởi các môn đệ
trực tiếp của Huệ Năng, cho dù hiển nhiên họ là những người thắng cuộc.
Lý do chính của việc nầy là vì
tinh thần Thiền Nam tông của Huệ Năng quá phù hợp với tinh thần Phật
giáo Đại thừa, với tâm lý của người Trung Hoa là Thiền Bắc tông của Thần Tú. Bác học luôn luôn có
khuynh hướng dẫn đến sự trừu tượng và duy trí chủ nghĩa, che mờ ánh sáng trực
giác, vốn là nhu cầu thiết yếu cho đời sống tôn giáo.
Thần Tú, cho dù những ghi chép
về cuộc đời của sư do môn đệ của Huệ Năng biên soạn lại, vẫn chắc chắn xứng đáng
được nhận lãnh y bát do thầy là Hoằng Nhẫn trao truyền, nhưng phong cách truyền bá Phật
pháp của sư hiển nhiên đòi hỏi phong cách tỉ mỉ và thông thái hơn phương pháp
của Huệ Năng nhiều. Tinh thần Thiền không ưa tất cả mọi hình thức duy trí. Cái
cớ không biết chữ của Huệ Năng được người ta nhấn mạnh để tạo thế nổi bật cho
chân lý và sức mạnh trực giác trong Phật pháp của ngài, đồng thời làm phơi bày
rõ nét giáo lý duy trí của Thần Tú. Một thực tế cố hữu là tâm hồn người Trung
Hoa ưa thích tiếp cận với thực tại sống động và kinh nghiệm trực tiếp hơn. Với
vai trò như là người bản xứ vĩ đại đầu tiên khoáng trương tư tưởng Thiền, Huệ
Năng đã thực sự đáp ứng đầy đủ sự khát ngưỡng.
Nhưng có phải ngài không biết chữ
hay sao? Thực vậy, ngài không phải là một học giả thông thái, nhưng tôi
(Suzuki) không nghĩ ngài hoàn toàn dốt đặc như đã được khẳng định trong
Đàn Kinh. Để nhấn mạnh sự tương phản (khuynh hướng) giữa Ngài và Thần Tú, người ta thích tạo ấn
tượng hơn khi khắc họa ngài
như một người không có khả năng hiểu biết
văn tự. Ngay như Giê-su Ki-tô, khi thảo luận với các vị thông thái, các học giả
đầu bạc cũng đã có những bài giảng thiếu thông tin đáng tin cậy. Thế nên đó là
thực tế chứng tỏ rằng thiên tài tôn giáo không cần thêm thắt phần tri thức hơn
là phần phong phú của đời sống nội tâm. Trong Đàn Kinh có ám chỉ đến khá
nhiều kinh điển, chứng tỏ tác giả bản kinh không phải là người hoàn toàn vô học.
Do vậy, là người Phật tử, tác giả hiển nhiên sử dụng một số thuật ngữ Phật học,
nhưng đã hoàn toàn thoát khỏi phong cách học giả thông thái rởm so với tăng sĩ
Phật giáo cùng thời, ngài nói trực tiếp và thẳng tắt đến trọng tâm giáo
lý của mình không hề quanh co. Phong cách đơn giản nầy chẳc hẳn đã gây nhiều ấn
tượng cho thính chúng, đặc biệt là những người có khuynh hướng đào luyện tâm
linh, dù họ đã được thừa hưởng một loại tri thức nào đó. Đó là những người nhận
ra yếu chỉ trong các bài pháp của ngài và lưu giữ lại như là của báu chứa đựng
trực giác tôn giáo sâu thẳm.
Quan niệm nguyên ủy của Huệ Năng
đương nhiên là khước từ tất cả văn chương và toàn bộ ngôn từ, vì tâm (e: mind) chỉ có thể được lãnh
hội bằng tâm một cách trực tiếp, không qua trung gian. Nhưng bản chất của con
người thì ở đâu cũng giống nhau, và ngay cả các môn đệ Thiền cũng có những điểm
yếu của riêng họ. Một trong những điểm ấy là quá xem trọng những tài liệu do
thầy mình truyền lại. Do vậy, Đàn Kinh được xem như là biểu tượng chân lý
mà Thiền được bảo chứng trong đó, và có thể nói rằng nơi đâu Đàn Kinh
được quí trọng thái quá thì nơi đó tinh thần Thiền bắt đầu xuống dốc. Có lẽ vì
lý do nầy mà Đàn Kinh không còn được trao truyền từ thầy xuống đệ tử như
là vật ấn chứng cho sự thành tựu tối hậu chân lý Thiền, có lẽ vì thế mà các đoạn
văn được trích dẫn liên quan đến việc truyền thừa, thường bị cắt bỏ trong các ấn
bản Đàn Kinh đang lưu hành hiện thời, để về sau Đàn Kinh đơn giản
được xem như một bản kinh truyền bá giáo lý Thiền như Huệ Năng đã giảng.
Bất kỳ với lý do nào, sự xuất
hiện của Huệ Năng trong buổi bình minh của lịch sử Phật giáo Thiền vẫn có một ý
nghĩa siêu tuyệt, và Đàn Kinh xứng đáng được xem là một tác phẩm bất hủ,
vì kinh đã quyết định tiến trình tư tưởng Phật học ở Trung Hoa trong suốt nhiều
thế kỷ cho đến nay.
Trước khi trình bày các quan điểm
của Huệ Năng về Phật giáo, chúng ta hãy nghiên cứu các quan niệm của Thần Tú, người luôn luôn được mô
tả tương phản với Huệ Năng. Vì sự khác biệt (khuynh hướng) giữa hai thượng thủ
nầy giúp cho chúng ta xác định rõ ràng bản chất của Thiền hơn trước đây. Hoằng
Nhẫn là một Thiền sư vĩ đại và
có nhiều đệ tử, nhiều năng lực. Có hơn mười hai người được lịch sử Thiền ghi
lại, nhưng Huệ Năng và Thần Tú vượt trội hẳn những người khác, và sau họ, Thiền
được chia thành hai tông: Thiền Nam tông và Thiền Bắc tông. Nhờ đó chúng ta được
hiểu rõ hơn pháp môn Thiền do Thần Tú, thượng thủ của Thiền Bắc tông giảng dạy
và cũng dễ dàng hơn khi tìm hiểu về Huệ Năng, chính là người chúng ta đang đề
cập đến.
Nhưng không may, chúng ta không
có được nhiều những giáo pháp của Thần Tú vì sự kiện suy yếu của
tông nầy trong khi song hành truyền bá cùng với Nam tông đã kéo theo sự mất mác
những ghi chép lịch sử của mình. Những gì chúng ta được biết đến tông nầy thông
qua hai nguồn: trước hết là những ghi chép của Thiền Nam tông, như Đàn Kinh
cùng những ghi chép của Thiền sư Tông Mật, thứ nhì là từ hai Thủ
bản Đôn Hoàng mà tôi (Suzuki) đã tìm
thấy ở Thư viện Quốc gia Paris. Một trong hai bản văn của Thiền Bắc tông thì không đầy đủ và bản thứ hai thì không hoàn
chỉnh về phần ý nghĩa. Chẳng có bản văn nào do chính Thần Tú viết hết thảy. Cũng
như Đàn Kinh, thủ bản ấy là một dạng ghi chép của hàng môn đệ về các các bài
pháp của Thần Tú.
Thủ bản có nhan đề là “Bắc
Tông Ngũ Đạo Pháp Môn”, và ở đây, chữ “Đạo” có
nghĩa là “phương tiện” hay là phương pháp. Tiếng Phạn là upaya, dường như ít dùng với
một ý nghĩa đặc thù nào khác và “ngũ đạo” có nghĩa là năm phương pháp qui kết
kinh tạng Đại thừa với giáo pháp Thiền Bắc tông. Đây là nội dung giáo pháp ấy.
1. Thành Phật có nghĩa là giác
ngộ, và giác ngộ cốt yếu là không còn khởi vọng tâm.
2. Khi tâm an trú tịch tĩnh, các
thức đã chuyển hóa thanh tịnh. Trong trạng thái nầy, cánh cửa tuệ giác tối
thượng được khai mở.
3. Cánh cửa tuệ giác tối thượng
nầy dẫn đến sự chuyển hóa vi diệu của thân và tâm. Tuy nhiên, đây không phải là
cảnh giới niết-bàn tịch diệt của Tiểu thừa, vì tuệ giác tối thượng mà chư bồ-tát
thể chứng là siêu việt hẳn sự phân biệt
của các thức.
4. Sự siêu việt hẳn tính phân
biệt của các thức có nghĩa là tự tại đối với quan niệm nhị nguyên về thân tâm,
trong đó chân tướng các pháp vẫn được duy trì.
5. Cuối cùng là con đường nhất
như dẫn đến pháp giới chân như, không ngăn ngại, không sai biệt. Đây chính là giác ngộ.
Rất thú vị khi so sánh 5 điểm nầy
với luận giải về Thiền Nam tông của Tông Mật. Như trong Thiền Tông
Tự Pháp Đồ (giản đồ về sự truyền
thừa của chư Tổ trong Thiền tông):
“Bắc tông dạy rằng tất cả chúng
sinh đều có sẵn tính bồ-đề, như bản tính của gương là chiếu soi, khi phiền não
dấy lên thì gương không còn phản chiếu được, giống như gương bị bụi phủ. Nếu như
theo lời sư dạy, khi vọng tưởng được hàng phục và trừ diệt, thì nó không còn
sinh khởi. Thế nên tâm được sáng suốt như bản tính riêng của nó, không có gì là
không thông suốt. Đó cũng như lau gương khi không có bụi dính thì gương chiếu
soi, không có gì ngoài sự chiếu sáng”.
Nên Đại sư Thần Tú, thượng thủ tông nầy viết trong bài kệ trình Ngũ Tổ:
Thân thị Bồ-đề thụ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
身 是 菩 提 樹
心 如 明 鏡 臺
時 時 勤 拂 拭
勿 史 惹 塵 埃
Thân là cây Bồ-đề
Tâm như đài gương trong
Luôn siêng năng lau phủi
Chớ để nhuốm bụi trần
Hơn nữa Tông Mật minh họa sự xác quyết của Thần Tú bằng cách dùng quả cầu
thủy tinh. Tâm, theo sư, giống như một quả cầu thủy tinh vốn không có màu sắc
riêng của chính nó. Nó hoàn toàn trong suốt và hoàn hảo. Nhưng ngay khi nó tiếp
xúc với ngoại cảnh, nó liền tiếp nhận tất cả màu sắc và hình dáng khác biệt. Sự
khác biệt là do ở ngoại cảnh, còn tâm vẫn như chính nó, không hề biến dạng chút
nào.
Bây giờ chúng ta giả sử quả cầu
thủy tinh được đặt trước một vật hoàn toàn khác nó, nó biến thành màu đen. Dù
trước đây quả cầu trong suốt, nhưng nay nó đã thành đen và người ta cứ cho rằng
màu đen nầy là thuộc về bản tính tiên thiên của nó. Khi đưa quả cầu thủy tinh
cho kẻ sơ cơ xem, họ sẽ kết luận ngay quả cầu thủy tinh bị nhuốm bẩn và họ khó
tin thể chất trong suốt mà nó từng vốn có. Cũng những người đó khi họ thấy quả
cầu thủy tinh trong suốt, họ sẽ tuyên bố quả cầu bẩn vì họ thấy nó như thế và tự
nguyện lau chùi quả cầu để có thể lấy lại sức chiếu sáng đã mất. Những người
chùi bụi trên gương nầy, theo Tông Mật, là môn đệ của Thiền Bắc
tông, họ tưởng rằng quả cầu thủy tinh, với thể tính trong suốt, chỉ
có được khám phá ở bên dưới trạng thái tối tăm khi họ phát hiện ra nó.
Cách quét bụi của Thần Tú và hàng môn đệ tất nhiên
dẫn đến phương pháp Thiền tịch tĩnh, và đó chính là phương pháp mà họ khuyên
dạy. Họ hướng dẫn nhập định qua sự tập trung, thanh tịnh tâm ý bằng cách an trú
tâm trên một niệm duy nhất. Họ còn dạy rằng khi khởi một niệm, ngoại cảnh liền
chiếu diệu rõ ràng; nên khi làm vắng bặt niệm tưởng ấy đi, thì sẽ được nhận biết
thế giới nội tâm.
Thần Tú, cũng như những Thiền sư
khác, thừa nhận tâm hiện hữu và công nhận rằng tâm nầy phải được tìm thấy từ bên
trong bản tâm mỗi chúng ta. Tâm ấy được thừa hưởng đầy đủ mọi đức tính của chư
Phật. Thực tế chúng ta không nhận ra được tâm nầy vì tập khí
của chúng ta quen đuổi theo ngoại cảnh, khiến cho ánh sáng chân tâm bị mờ đi.
Thần Tú khuyên rằng thay vì bỏ rơi người cha của chúng ta, mọi người nên quán
chiếu bên trong bằng cách tĩnh tu. Điều này hoàn toàn tốt theo một chừng mực nào
đó, nhưng Thần Tú vốn không có sự thể nhập siêu hình, nên phương pháp trên phải
nhận chịu sự thiếu sót nầy.
Giáo pháp ấy bao gồm những điều
mà người ta thường gọi là “hữu vi” hay “hữu sự” mà chẳng phải là “vô sự” hay là “tự tại”.
Đoạn văn dưới đây trích từ Đàn
Kinh sẽ làm minh bạch khi chúng ta đọc kinh trong ánh sáng của vấn đề được
nêu ở trên:
Thần Tú khi nghe nhiều người quan tâm đến phương pháp
nhập đạo thẳng tắt, nhanh chóng của Huệ Năng, bèn gọi một đệ tử tên Chí Thành đến dặn:
“Ông vốn thông minh, lanh lợi hãy
vì ta đến núi Tào Khê, và khi đến gặp Huệ Năng hãy đảnh lễ và cung kính lắng
nghe. Đừng để cho Ngài biết ông từ nơi nầy đến. Ngay khi hiểu được
trọn ý nghĩa mà ông được nghe, hãy ghi nhớ nằm lòng và trở về đây nói cho ta
nghe về Ngài . Lúc ấy ta mới rõ kiến giải của ta hay của Huệ Năng là thẳng tắt
nhanh chóng.”
Lòng hoan hỷ vâng lời thầy, Chí
Thành đến núi Tào Khê sau mười
lăm ngày đường, ông đến cung kính đảnh lễ Huệ Năng và lắng nghe chỉ dạy, không
tiết lộ mình từ đâu đến. Khi nghe pháp, tâm trí Chí Thành nắm bắt ngay được yếu
chỉ giáo pháp của Huệ Năng. Chí Thành nhận ra ngay bản tâm của mình, liền đứng
dậy đãnh lễ, thưa: “Con vốn từ chùa Ngọc Tuyền (c: yu-chuan) đến đây. Nhưng tu tập dưới
sự chỉ dạy của thầy con là Thần Tú, con chưa được khế ngộ. Bây giờ, nghe được pháp yếu của Hòa
thượng, con đã nhận ra ngay bản tâm mình. Ngưỡng mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy
thêm cho”.
Đại sư Huệ Năng bảo:
“Nếu ông từ chùa Ngọc Tuyền đến, ắt ông là kẻ do
thám”.
Chí Thành đáp:
“Khi con chưa tiết lộ thì đúng là
con là do thám, nhưng khi con đã thưa thật với Hòa thượng rồi thì con chẳng còn
là kẻ do thám nữa”.
Lục Tổ bảo:
“Trường hợp đó cũng là ý nghĩa
phiền não (s: klésa) tức bồ-đề (bodhi).
Đại sư bảo Chí Thành: “Tôi nghe thầy ông chỉ dùng tam vô lậu học. Gồm giới (s:
śīla), định (s: dhyāna), huệ (s:
prajñā) để dạy người. Hãy cho
tôi biết thầy ông đã dạy như thế nào?”
Chí Thành thưa: “Thần Tú thầy con dạy giới, định, huệ như sau: Không làm
các việc ác là giới, vâng làm các việc lành là huệ, tự thanh tịnh
tâm trí mình là định. Đây là quan niệm về tam vô lậu học của thầy con.
Giáo lý của thầy hoàn toàn tương ứng với quan niệm nầy. Thỉnh ý của Hòa thượng
như thế nào, xin chỉ dạy”.
Đại sư Huệ Năng đáp: “Ấy là một
quan điểm rất hay, nhưng tinh thần của tôi thì khác”.
Chí Thành hỏi:
“Thưa Bạch Hoà thượng, khác chỗ
nào?”
Đại sư đáp:
“Một bên chậm, một bên nhanh và
thẳng tắt.”
Chí Thành cầu thỉnh được chỉ bày cái thấy của Ngài
về giới, định, huệ. Đại sư đáp:
“Vậy thì hãy lắng nghe pháp của
tôi, theo cái thấy của tôi, bản tâm tự nó vốn không bệnh, đó là tự tính giới, tâm tự nó vốn không loạn, đó là
tự tính định, tâm tự nó không si mê đó là tự tính huệ”.
Đại sư nói tiếp:
“Tam vô lậu học mà thầy của ông
giảng dạy là dành cho người có căn cơ bậc thấp, còn giáo pháp tam học của tôi là
dành cho hàng có căn trí siêu tuyệt. Khi ngộ được tự tính, chẳng cần dựng lập tam học nữa”.
Chí Thành thưa:
“Thỉnh Hòa thượng chỉ dạy rõ cho
con ý nghĩa ‹chẳng cần dựng lập›”.
Đại sư nói: “Tự tính vốn không
bệnh, không loạn, không si mê, mỗi niệm đều là trí tuệ siêu việt (Bát-nhã), mỗi
niệm trong ánh sáng trí tuệ quán chiếu nầy thường vượt khỏi mọi sắc tướng. Do
vậy, nên chẳng dựng lập tất cả các pháp. Đốn ngộ là nhận ra ngay liền tự tính nầy, chẳng phải nhận thức theo từng thứ lớp mà
được. Đây là lý do của việc không dựng lập”.
Chí Thành đảnh lễ và không bao giờ rời Tào Khê, trở thành
đệ tử của Đại sư.
Từ điểm tương phản giữa Thần Tú và Huệ Năng, chúng ta có thể hiểu được lý do
tại sao Thần Hội, một đệ tử lớn của Huệ
Năng, đánh giá về quan niệm tam học của Thần Tú là thuộc loại “hữu sự” trong khi
quan niệm tam học của Huệ Năng lại qui thúc về “tự tính”, tính chất là không
tịch và chiếu. Thần Hội đưa ra một dạng thứ ba gọi là “vô sự” , theo quan điểm
nầy, tam học được hiểu như sau:
Khi vọng niệm không sinh khởi tức
đó là giới.
Khi vọng niệm không khởi, tức đó
là định.
Khi vọng niệm không khởi, tức đó
là huệ
Dạng “vô sự” và dạng “tự tính” đều giống nhau, một phía (Thần Hội) diễn đạt một cách phủ
định những gì phía bên kia (Thần Tú) đã xác quyết.
Ngoài ra, Thần Tú còn trình bày quan điểm của mình về năm chủ đề,
xuất phát từ Đại Thừa Khởi Tín luận, kinh Pháp Hoa, kinh Duy-ma-cật, kinh Tư Ích và kinh Hoa Nghiêm.
Năm đề tài ấy là:
1. Phật thân có nghĩa giác ngộ
viên mãn, tự biểu hiện qua Như Lai pháp thân.
2. Tuệ giác, tri kiến Phật hoàn
toàn cần phải được phòng hộ đối với sự nhiễm ô từ sáu giác quan (lục căn).
3. Tu tập theo công hạnh của hàng
Bồ-tát là để siêu việt khỏi kế chấp từ tâm thức.
4. Chân tính của vạn pháp vốn
thường tịch nhiên bất động.
5. Đạo (pháp môn) vi diệu, tuyệt
đối tự tại, vô ngại. Khi hướng đến tiến trình giải thoát giác ngộ, chỉ được
chứng đạt một khi thể nhập hoàn toàn vào chân lý vô phân biệt.
Những quan điểm nầy đã được Thần
Tú xiển dương, tự nó đã có đầy đủ sự chú ý của
quần chúng, nhưng vì những quan điểm ấy không liên quan đến nội dung khảo sát ở
đây nên chúng ta không định phân tích chi tiết. Bây giờ chúng ta sẽ dành trọn
phần luận giải nầy cho Huệ Năng.
Thích Nhuận Châu dịch