·
Hoang Phong
Đã có rất nhiều sách vở,
bài viết đề cập đến về vấn đề ăn chay. Mở lại chủ đề này có vẻ như đẩy một cánh
cửa đã mở rộng, vì vậy bài viết ngắn này chỉ ước mong được đóng góp thêm vài ý
kiến về ý nghĩa của việc ăn chay, giới hạn trong một vài quan điểm Phật giáo mà
thôi.
Ăn chay thực sự không phải là một điểm đặc thù
của đạo Phật vì nhiều tôn giáo khác cũng chủ trương ăn chay, thí dụ như trường
hợp đạo Ja-in của Ấn độ. Nhiều người không theo Phật giáo hoặc bất cứ một tôn
giáo nào cả nhưng họ vẫn ăn chay rất nghiêm túc, trong số này có nhiều người Tây
phương. Trái lại một số người Phật giáo thì lại ăn thịt cá. Như vậy ý nghĩa thực
sự của việc ăn chay theo tinh thần Phật giáo là gì?
Phần thứ nhất của bài sẽ điểm qua vấn đề ăn chay
dưới khía cạnh hiểu biết khoa học. Phần thứ hai nêu lên vài quan điểm đại cương
về việc ăn chay theo kinh sách Phật giáo và các học phái Phật giáo khác nhau.
Phần thứ ba sẽ lạm bàn về vấn đề ăn chay một cách cởi mở hơn.
1. Ăn chay dưới khía cạnh khoa học
Con người là một sinh vật ăn chay hay ăn thịt?
Khoa học cho biết một cách minh bạch rằng từ nguyên thủy con người là một sinh
vật ăn hoa quả, rễ, lá, củ và thân thực vật. Bộ răng của con người không phải là
răng dùng để ăn thịt, nghĩa là không có nanh nhọn và dài. So với kích thước của
thân thể thì bộ ruột của con người quá dài, trung bình 18m. Đó là đặc tính của
loài sinh vật ăn cỏ, vì ruột dài giúp hấp thụ các chất dinh dưỡng thấp trong
thực vật hiệu quả hơn.
Tổ tiên loài người sống trên cây, sau đó thích
ứng với đời sống dưới đất, và từ đó bắt đầu ăn thêm côn trùng bắt được dưới
những tảng đá, trong cỏ hay hốc cây… Khoa học gọi lối ăn này là lối ăn tạp, có
nghĩa là ăn bất kể thứ gì. Thích ứng với đời sống dưới đất thì phải canh chừng
thú dữ chung quanh, vì thế mà tổ tiên con người phải tập đứng nhón trên hai chân
để nhìn thấy xa hơn, và nếu muốn thoát thân thì phải chạy bằng hai chân, vì chạy
bằng hai chân sẽ nhanh hơn bốn chân. Đó là một vài trong số rất nhiều lý do khác
thúc đẩy sự tiến hoá của giống người.
Khi tổ tiên con người dần dần biết đứng trên hai
chân thì vị trí của đầu đối với xương sống cũng thay đổi, giúp cho sọ phát triển
dễ dàng hơn về phía sau, tạo cho con người có bộ óc lớn hơn. Nhờ vào bộ óc phát
triển lớn và hai tay được tự do nên con người biết sáng chế ra dụng cụ như đá
đẽo, cung tên…dùng vào việc săn bắt những con thú lớn và khôn lanh hơn những
loại côn trùng hay sinh vật nhỏ bé nấp dưới các tảng đá hay hốc cây. Từ đó lối
ăn tạp cũng biến đổi đi và con người bắt đầu ăn thịt nhiều hơn.
Theo dòng tiến hoá, con người biết tạo ra những
dụng cụ ngày càng tinh xảo, giết được các con thú to lớn và hung dữ. Trong số
những dụng cụ tinh xảo đó phải kể đến súng đạn và bom hạt nhân ngày nay. Tiếc
thay những khí cụ nguy hiểm này không còn dùng để săn bắn nữa, vì thú vật ngày
càng trở nên quá ngây ngô và khờ khạo so với con người. Những vũ khí ấy lại được
con người mang ra dùng để giết hại lẫn nhau với mục đích tranh giành và bảo vệ
miếng ăn, mặc dù các nước hùng mạnh sản xuất được các khí giới ấy cũng đã có dư
thừa thực phẩm.
Cũng nhờ vào bộ óc mà con người sáng chế ra ngôn
ngữ. Ngôn ngữ gồm nhiều loại khác nhau và ngày càng trở nên phức tạp hơn. Con
người biết suy nghĩ về những vấn đề rắc rối và trừu tượng hơn, biết dùng những
hình ảnh và biểu tượng để diễn đạt suy tư của mình để rồi sáng tạo ra văn
chương, thi phú, và cả…triết học. Con người biết tìm ra mọi thứ thức ăn và ăn
không chừa một thứ gì, lại còn sáng chế ra thật nhiều món ăn thật cầu kỳ bằng da
thịt của những sinh vật đủ loại.
Tuy nhiên thì những công trình nghiên cứu khoa
học và thống kê y khoa, một sản phẩm khác của con người, đồng thời lại khẳng
định là những người ăn chay có sức khoẻ tốt hơn, ít bịnh tật hơn, nhất là các
bịnh về tim mạch và ung thư, và họ sống lâu hơn những người ăn thịt. Nhờ vào
những hiểu biết khoa học, rất nhiều người Tây phương cũng đã ăn chay để tránh
bớt ô nhiễm cho thân xác và hạn chế bớt sự tàn phá môi sinh, bớt đưa vào cơ thể
những độc tố và lượng dinh dưỡng quá cao từ thịt và mỡ thú vật. Những bài viết
về ăn chay theo chiều hướng này rất nhiều, lại được kèm thêm những chứng minh
bằng thống kê, bằng những giải thích về y khoa, phân tích về sinh hoá, sinh lý
học v.v…
2. Ăn chay theo Kinh sách nhà Phật và các Học
phái Phật giáo
Tại sao phần lớn những người Phật giáo lại ăn
chay? Đức Phật có bảo thẳng ta phải ăn chay hay không ? Những lời khuyên dạy đó
được ghi chép trong kinh sách nào? Những kinh sách đó có đích thực hay không? Và
thắc mắc cuối cùng mà một vài bài viết đã nêu lên là Đức Phật có…ăn chay hay
không? Bất cứ một quan điểm khẳng định nào cũng đều có thể đưa đến những cuộc
tranh luận bất tận, do đó phần trình bày dưới đây không có chủ đích trả lời trực
tiếp các câu hỏi trên mà chỉ nêu lên và khai triển một vài khía cạnh của vấn đề
mà thôi. Người đọc sẽ tự tìm lấy những câu giải đáp thích nghi cho mình, dù rằng
câu giải đáp đó theo chiều hướng này hay chiều hướng khác.
Thật sự ra thì việc ăn chay do đạo Ja-in chủ
trương đã có từ thế kỷ thứ VI trước Tây lịch tức là trước hoặc cùng một thời kỳ
với Đức Phật. Ngoài ra khi Phật giáo Bắc tông được tái lập và bành trướng vững
chắc vào thế kỷ thứ II sau Tây lịch và chủ trương một cách khẳng định việc ăn
chay thì tập tục này cũng đã được phổ biến rộng rãi trong dân gian rất lâu trước
đó ngay từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch, bằng cớ là hoàng đế A-Dục (Asoka,
304-232 trước TL) cũng đã ăn chay, cấm giết hại thú vật và khuyên dân chúng nên
ăn chay.
Kinh sách nhà Phật thật phong phú, nhưng vấn đề
khuyến cáo trực tiếp và chi tiết về việc ăn chay thì không hề thấy đề cập đến
nhiều, có thể vì việc này là một điều quá đương nhiên đối với người tu Phật hay
chăng? Kinh sách chỉ thường xuyên nhắc đến việc cấm sát sinh. Tuy nhiên nếu nhìn
trên một bình diện khác, ta cũng không nên chờ đợi và căn cứ một cách đơn giản
và duy nhất vào kinh sách để chọn một cách xử thế thích hợp cho ta và môi sinh
chung quanh ta. Ta không thể và cũng không nên tự ghép mình theo kinh sách một
cách từ chương. Kinh bảo thế nào thì làm thế ấy, còn nếu không bảo thì tự do làm
gì thì làm. Chúng ta cũng đã thấy cái tai hại của một vài truyền thống mà các
tín đồ tự buộc chặt vào những giáo điều bất di dịch.
Theo thống kê thì có tất cả là 58 000 bộ kinh ghi
chép những lời giảng huấn của Đức Phật. Con số khá lớn, dù cho Đức Phật đã
thuyết giảng trong bốn mươi lăm năm liền đi nữa. Đó là chưa kể đến số kinh sách
bị mất mát, chẳng hạn như hàng triệu quyển kinh đã bị người Hồi giáo đốt sạch,
thí dụ như trường hợp của thư viện Phật giáo tại Vườn Lộc Uyển (Sarnath) mà ngày
nay chỉ còn sót lại một nền gạch mà thôi.
Có tất cả ba lần kết tập kinh điển chính, lần thứ
nhất xảy ra tại thành Vương Xá (Rajagrha) một năm sau khi Đức Phật tịch diệt.
Lần thứ hai được tổ chức tại Vệ-xá-li (Vesali), 110 năm sau khi Đức Phật tịch
diệt. Trong lần kết tập thứ hai đã thấy có nhiều bất đồng chính kiến giữa các
tăng đoàn, nói chung thì có hai hệ phái khác nhau đã được nêu lên trong dịp này.
Lần kết tập thứ ba lại còn rắc rối hơn nữa. Theo kinh điển tiếng Pa-li (Nam
tông) thì lần kết tập này diễn ra tại Hoa-thị-thành (Pataliputra) vào năm 137
sau khi Đức Phật tịch diệt. Theo kinh sách Bắc tông thì lần kết tập thứ ba được
tổ chức chậm hơn, tức là vào năm 160 sau khi Đức Phật tịch diệt, và theo các tài
liệu này thì địa điểm kết tập cũng không phải ở Vệ-sá-li mà ở Ja-lan-đa-ra
(Jalandhara, thuộc vùng Cachemire ngày nay). Trong lần kết tập thứ ba, đã thấy
xuất hiện 18 hệ phái và có bốn ngôn ngữ khác nhau được sử dụng để ghi nhớ những
lời giảng huấn của Đức Phật. Vì tính cách phức tạp và phong phú của kinh sách và
giáo lý cho nên trong lần kết tập thứ ba này có thể Tam tạng kinh gồm Kinh Luật,
Kinh Tạng và Kinh Luận đã được ghi chép bằng chữ viết (?),tuy nhiên không có dấu
tích gì hay bằng chứng cụ thể nào lưu lại. Theo các học giả Tây phương thì các
kinh điển Nam Tông ghi chép bằng chữ viết chỉ bắt dầu xuất hiện từ thế kỷ thứ I
trước Tây lịch cho đến giữa thế kỷ thứ I sau Tây lịch; kinh sách Bắc tông thì
cũng được ghi chép vào giữa thế kỷ thứ I trước Tây lịch và tiếp tục kéo dài cho
đến thế kỷ thứ VI đối với một số kinh sách xuất hiện muộn. Nói như thế để hiểu
rằng trên phương diện kinh sách ghi chép bằng chữ viết thì không thể khẳng định
giữa kinh sách Nam tông và Bắc
tông thì kinh sách nào lâu đời hơn hay đích thực hơn. Trước đó, người xuất gia
cũng như người cư sĩ tất cả đều phải học thuộc lòng kinh điển để truyền khẩu cho
nhau, hết thế hệ này sang thế hệ khác, hàng trăm năm trước khi được ghi chép hẳn
hoi trên lá bối. Lý do chính yếu là vào thời kỳ bấy giờ, những lời truyền khầu
được xem như mang tính cách sinh động, thiêng liêng và tôn kính, hơn hẳn những
gì khô khan ghi chép bằng chữ viết. Do đó việc truyền khẩu cũng là một hình thức
tu tập, vì người xuất gia trước hết phải học thuộc lòng kinh điển và người thế
tục ít ra thì cũng phải trực tiếp nghe giảng và ghi nhớ.
Phương tiện truyền khẩu và sự xuất hiện muộn của
kinh sách gián tiếp nhắc nhở chúng ta phải thận trọng và không nên căn cứ một
cách từ chương và quá câu nệ vào kinh điển. Phật giáo Nam tông cho rằng không có giới luật
nào trong Phật giáo ngăn cấm tín đồ không được ăn thịt. Trong số các kinh sách
này thì có tập Trung bộ kinh (Majjhima-Nikaya), một trong năm tập
thuộc Kinh Tạng trong Tam tạng kinh, có kể câu chuyện về Đề-bà-đạt-đa
(Devadatta), em họ và cũng là đệ tử của Đức Phật tự đứng ra chủ trương lối tu
khổ hạnh. Người này xin Đức Phật ban giới cấm bắt buộc hàng tỳ kheo tuyệt đối
không được ăn thịt, Đức Phật không chấp thuận và dạy rằng : «Ăn thịt có thể
coi như trong sạch trong ba trường hợp, người ăn không thấy, không nghe, không
có lòng hoài nghi con vật bị giết riêng cho mình». Tiểu sử về Đề-bà-đạt-đa
do kinh sách ghi chép lại cũng khá rắc rối, đấy là một người có vẻ khá cực đoan
và đã nhiều lần muốn ám hại Đức Phật.
Như vậy thì ta phải hiểu thế nào về những luận cứ
vừa kể trên đây? Ta biết rằng Đức Phật dạy ta phải giữ giới, và điều thứ nhất
trong giới luật là cấm sát sinh. Khi còn tại thế thì Đức Phật cũng đã tổ chức
cách sinh hoạt của tăng đoàn sao cho phù hợp với Đạo Pháp và môi sinh, chẳng hạn
như việc an cư kiết hạ. Mùa mưa ở Ấn độ là mùa hồi sinh của thiên nhiên
và vạn vật, đấy là mùa mà cây cỏ, côn trùng và muôn thú đều vươn lên sức sống,
sinh sôi và phát triển. An cư để tránh không vô tình tàn phá thiên nhiên
và dẫm đạp lên những sinh vật nhỏ bé dưới chân. Phật dạy phải an cư,
chẳng lẽ Phật lại cho phép ăn thịt cá khi các đồ đệ của Ngài "không thấy,
không nghe, không có lòng hoài nghi con vật bị giết cho riêng mình"?
Đức Phật thường nhắc đi nhắc lại câu sau đây
trong kinh sách : "Các con phải cẩn thận, phải cảnh giác và canh chừng tâm
thức của các con. Tâm thức luôn luôn tìm cách đánh lừa các con..." Tiếp tục
ăn miếng thịt, khi không thấy, không nghe, không hoài nghi
về nguồn gốc của miếng thịt, tức là cố tình mượn tâm thức của mình để tự đánh
lừa mình đấy. Khái niệm về tương liên, tương tác và tương tạo của Đạo Pháp cho
biết rằng mỗi hành động, mỗi tư duy trong tâm thức và mọi hiện tượng chung quanh
ta đều liên hệ và tương tác với nhau một cách chặt chẽ. Sự kiện "không biết,
không nghe, không hoài nghi" có thể tháo gỡ được quy luật tương liên của vạn
vật hay chăng? Nếu như luật nhân quả cũng lỏng lẻo như thế thì còn có giá trị gì
nữa?
Chẳng hạn khi ta ăn thịt heo, tuy rằng ta
không thấy, không nghe, không hoài nghi con vật bị giết cho ta và vì ta, thì
mỡ heo vẫn có thể làm nghẽn tim mạch của ta, và nếu con heo bị sán lãi thì ta
cũng có thể bị sán lãi như thường. Nói chung là ta sẽ gánh chịu trực tiếp hậu
quả từ việc ăn thịt. Xung năng thúc đẩy ta muốn ăn thịt, sự thèm khát đó chuyển
thành hành động cụ thể để mang lại nghiệp không tốt cho ta. Nghiệp nguyên nghĩa
của nó là "hành động" và "hành động" ăn một miếng thịt bắt buộc phải có một sinh
vật đứng ra gánh chịu sự đau đớn và cái chết, sự đau đớn và cái chết ấy là
nguyên nhân và động lực mang lại nghiệp không tốt cho ta, nhưng chỉ vì vô tâm mà
ta không hề hay biết mà thôi.
Tuy nhiên vấn đề ẩm thực của Phật giáo nguyên
thủy, nếu giữ đúng theo ý nghĩa và nghi thức được ghi trong kinh sách Nam tông
thì thật là tốt : chỉ ăn một lần trước ngọ để giới hạn sự tham ăn và ăn quá
nhiều ; khất thực và ăn bất cứ gì để tránh cho tâm thức không vướng mắc và lo âu
vì miếng ăn ; ăn nguội lạnh và lẫn lộn mọi thứ thức ăn của người thế tục cúng
dường trong bình bát để không xem đó là một nguồn thích thú, không kích động sự
thèm khát, kén chọn hay bám víu. Kinh sách thuật chuyện về một trong mười sáu vị
La-hán là ngài Tân-đồ-la Bạt-la-nọa-xà (Pindola Bharadvaja) như sau : vị La-hán
này đã bốc ăn một cách bình thản ngón tay cái của một người mắc bịnh cùi hiến
dâng thực phẩm và đã vô tình đánh rớt ngón tay lở loét của mình trong bình bát.
Nhưng tiếc thay, ngoại trừ trường hợp của những vùng nông thôn thuộc các quốc
gia Nam
tông ra thì việc khất thực không còn thích nghi với tổ chức xã hội nơi đô thị
ngày nay nữa. Hầu hết các chùa chiền ngày nay đều có bếp núc để phục vụ tăng
đoàn, chẳng lẽ các tỳ kheo lại không hề hay biết chuyện ấy để "cố tình" không
bao giờ ghé vào bếp để không thấy, không nghe, không biết…
Người Phật giáo Bắc tông ăn chay nghiêm túc hơn,
nhưng lại ăn quá nhiều, ăn đến hai hoặc ba bữa và có khi ăn rất cầu kỳ, bắt
chước gần như thật các món ăn bằng thịt cá của thế tục : nhìn giống như đúc, kể
cả mùi vị cũng giống. Đó cũng có thể là một cách đánh lừa tâm thức mình, nuôi
nấng sự thèm khát và bám víu của mình. Vì thế người tu hành dù là người xuất gia
hay thế tục đều phải thật cảnh giác trong từng hành động của chính mình. Ý nghĩa
trong hành động ăn chay quan trọng hơn là thực phẩm dùng vào việc ăn chay. Trong
trường hợp mà ta không còn cưỡng lại được trước một miếng thịt hay một miếng cá
thì ta cũng nên nghĩ đến thân xác của một sinh vật phải gánh chịu sự đau đớn và
cái chết để mang lại sự thích thú cho ta và nuôi dưỡng thân xác tứ đại của ta.
Đồng thời khi đang nhai thịt của một sinh vật thì ta cũng nên ý thức rằng thân
xác của ta cũng vô thường như thế đó.
Đến đây có lẽ người đọc cũng đã tự tìm thấy câu
trả lời cho các câu hỏi được nêu lên trước khi khai triển phân đoạn thứ hai này.
Tuy nhiên, câu hỏi "Đức Phật có ăn chay hay không?" được nêu lên trong một số
bài viết thường thấy là một câu hỏi rất tế nhị đáng cho chúng ta phải suy nghĩ
cẩn thận. Hỏi như thế tức là ta muốn so sánh hành vi của ta với hành vi của
Phật, so sánh sự hiểu biết nhị nguyên, công thức và quy ước của ta với sự hiểu
biết siêu nhiên, nhất nguyên và vô phân biệt của Phật, so sánh tấm màn vô minh
của ta và Trí Tuệ thức tỉnh của Phật, so sánh tâm thức vướng mắc của ta với Tâm
thức Giác ngộ của Phật. Nêu lên câu hỏi đó tức là ta tự đồng hoá ta với Phật, tự
so sánh ta và Phật. Vì thế, theo thiển ý, đây là một câu hỏi đặt sai và đã là
một câu hỏi đặt sai thì không thể có một câu trả lời đúng được.
Đức Phật từ bỏ cung điện và mọi thứ cao lương mỹ
vị để chọn một cuộc sống khổ hạnh và quyết tâm ấy nhất định không nhắm vào mục
đích tìm kiếm miếng ăn ngon. Tu khổ hạnh thì nhiều khi chỉ được phép ăn một hạt
mè mỗi ngày. Tuy rằng sau đó thì Đức Phật đã ý thức được lối luyện tập sai lầm
ấy nhưng không phải vì thế mà Ngài quay ra tìm những món cao lương mỹ vị. Đức
Phật sống còn để ban cho chúng ta Đạo Pháp cũng chỉ đơn giản nhờ vào một bát cơm
do một người tớ gái trong một ngôi làng gần đó hiến dâng. Vì vậy thiển nghĩ ta
không nên thắc mắc về việc Đức Phật đã dùng những thực phẩm gì mà trái lại ta
nên tự hỏi rằng ta có đủ sức để hiểu được những lời giảng huấn của Đức Phật hay
không.
Đại-bát niết-bàn kinh (Mahaparinibana-sutta)
kể về bữa ăn cuối cùng của Đức Phật và một món ăn không biết rõ là gì : thịt heo
hay nấm heo ? Nhiều người Tây phương đã bỏ công nghiên cứu và tìm hiểu ngôn ngữ
thời bấy giờ để sau cùng đã quả quyết cho rằng đấy là một loại nấm gọi là nấm
heo. Nấm có tên gọi như thế vì người ta phải nhờ đến khứu giác bén nhạy của heo
để tìm ra loại nấm này, giống như hiện nay người Âu châu vẫn dẫn heo và chó đánh
hơi để đi tìm loại nấm gọi là truffe rất quý mà người ta thường gọi là "kim
cương đen" vì rất đắt tiền. Có người lại nghiên cứu thẳng về các loại nấm trong
vùng nơi Đức Phật tịch diệt để xem đích thực là loại nấm nào, kể cả việc tìm tòi
các món ăn cổ truyền dùng đến nấm. Có người lại dựa vào các thổ ngữ xưa vùng Bắc
Ấn độ để quả quyết đấy là một loại thịt heo khô xay nhỏ (?), có lẽ như loại thịt
bông của ta (?)… Kết quả là ngày nay có nhiều bài viết xoay quanh vấn đề vừa kể.
Đây là một thí dụ điển hình của sự câu nệ, buộc chặt ta vào kinh điển đã
trải qua hàng nhiều trăm năm truyền khẩu, và cũng là một trường hợp tiêu biểu
chứng minh sự vướng mắc rất thô thiển của tâm thức ta mà thôi. Vướng mắc
vào một chữ không rõ nghĩa để nghiên cứu, tranh cãi… để rồi chính mình cũng có
thể tự buộc vào tâm thức mình một chút hoài nghi vô ích, nếu không muốn nói là
nguy hiểm.
Nhằm mục đích giải thích thêm quan điểm trên đây,
chúng ta có thể nhìn vào một thí dụ như sau, mặc dù có thể không hoàn toàn đúng
với những gì trong Đạo Pháp nhưng có tính cách cụ thể và dễ hiểu. Với sự hiểu
biết thông thường mang tính cách quy ước, công thức và nhị nguyên của ta thì ta
gọi đây là một miếng thịt, đây là một cái nấm. Tuy nhiên đối với một người tu
tập, dù ở cấp bậc thấp đi nữa thì cũng có thể sử dụng cách nhìn như sau : xem
hai thứ ấy chỉ là những kết hợp từ những hạt nguyên tử do nhiều cơ duyên tạo ra.
Nếu nhìn trên phương diện kết hợp nguyên tử thì miếng thịt hay cái nấm không
khác gì nhau vì những hạt nguyên tử kết hợp để tạo ra hai thứ ấy đều tương tợ
như nhau, nghĩa là mỗi nguyên tử gồm có phần hạt nhân và những electron xoáy lộn
trong một khoảng không gian trống rỗng mà thôi. Tóm lại với tư cách của một
người tu tập thì ta phải chọn cho mình những loại thực phẩm nào bây giờ? Như đã
được trình bày trên đây thì tất cả các loại thực phẩm đều giống nhau vì đấy chỉ
là những thứ "trống rỗng gồm các hạt nguyên tử kết lại với nhau", nếu phải chọn
thì người tu tập chỉ nên chọn nếu có thể được những "cấu hợp nguyên tử" dưới
những dạng thể nào không gây ra khổ đau cho các chúng sinh khác và không tạo
thêm cơ duyên mang lại cho mình những nghiệp tiêu cực mới.
Tóm lại thì việc tu tập không nên dừng lại ở
những vướng mắc nhỏ nhặt mà nên nhìn xa hơn, hướng tâm thức cao hơn, nhắm thẳng
vào bản chất sâu kín của mọi hiện tượng, khai mở lòng Từ bi, phát huy Trí tuệ để
mang lại sự Giác ngộ và Giải thoát, chứ đừng nghĩ đến miếng ăn một cách quá
đáng, đừng thắc mắc là phải ăn cái gì và không nên ăn cái gì.
3. Lạm bàn về ý nghĩa của ăn chay
Phân đoạn này cũng xin được mở đầu bằng những câu
hỏi. Người đọc có bao giờ ăn chay hay chưa ? Nếu có ăn chay, thì ăn chay từ bao
giờ, ăn chay tùy hứng, theo định kỳ nhất định hay là ăn chay trường? Đối với
trường hợp những người hoàn toàn không ăn chay bao giờ cả thì chủ đề bản bàn
thảo và những gì được trình bày dưới đây sẽ có thể không phải là một mối quan
tâm cho họ. Trái lại, đối với những người có ăn chay thì các câu hỏi sau đây rất
quan trọng : Ta ăn chay trong trường hợp nào? Lý do gì đã khiến ta ăn chay?
Có khá nhiều người ăn chay và việc ăn chay của họ
được thúc đẩy bởi nhiều nguyên nhân và mục đích khác hẳn nhau. Tuy nhiên chúng
ta có thể tạm phân chia thành ba trường hợp như sau :
- Trường hợp thứ nhất : người ăn chay nhắm
vào mục đích bảo tồn sức khoẻ, muốn tránh mọi bịnh tật ngặt nghèo. Đó là lối ăn
chay đã được trình bày trong phần một, có nghĩa là ăn chay dưới khía cạnh khoa
học. Y khoa và khoa học đã nghiên cứu rất nhiều về vấn đề ăn chay. Có nhiều
người Phật giáo là bác sĩ y khoa, dược sĩ, dinh dưỡng học, sinh lý học…đã từng
trình bày và khai triển chủ đề này. Các bài viết đó chứng minh sự lợi ích của
việc ăn chay trên lãnh vực sức khoẻ. Nêu lên mục đích của việc ăn chay trong
chiều hướng đó cũng tốt, nhưng thật ra thì không có gì gọi là Phật giáo cả. Đó
chỉ là cách khuyến khích việc cố gắng bám víu vào xác thân tứ đại và vô thường
của ta bằng cách ăn chay, và trên một khía cạnh khác thì đấy cũng là một cách
gián tiếp để củng cố thêm ảo giác của cái « ngã ».
Người tu Phật chỉ biết ăn chay mà thôi, không chờ
đợi gì cả, hậu quả về sức khoẻ là một việc thứ yếu hoặc đương nhiên, dù sao thì
sức khoẻ của ta còn tùy thuộc vào vô số nghiệp và cơ duyên khác nữa. Người ăn
chay trường vẫn có thể bị ung thư hay bị nghẽn tim mạch như thường vì trong
những trường hợp như thế, tuy rằng đã ăn chay nhưng việc ăn chay vẫn không đủ
sức hoá giải những nghiệp khác quá mạnh. Ngoài ra cũng có nhiều người miễn cưỡng
phải ăn chay vì truyền thống hay vì bị gia đình ép buộc, hoặc chỉ vì rơi vào một
hoàn cảnh nào đó chẳng hạn như bệnh tật mà tự bắt buộc phải ăn chay…Bài viết này
xin không bàn xa hơn về tất cả những trường hợp như vừa kể.
- Trường hợp thứ hai : người
ăn chay được thúc đẩy bởi một điều gì đó sâu xa hơn. Xin kể ra trường hợp một
nhà vô địch hạng nặng về nhu đạo của Pháp, đã nhiều lần đạt chức vô địch Âu
châu, vô địch Thế vận hội và vô địch Thế giới. Một lần bị tai nạn xe mô-tô, bắp
chân của ông bị rách toạc ra, ông thấy thịt mình đỏ lòm giống như một miếng thịt
bít-tết, mùi máu rất tanh, và thế là từ đó ông không ăn thịt bít-tết nướng còn
máu nữa. Một thi dụ tinh tế và sâu xa hơn là trường hợp của thi hào Pháp thuộc
thế kỷ XIX tên là Alphonse de Lamartine. Ngày còn nhỏ, một lần theo mẹ đi ngang
một lò sát sinh, ông thấy máu chảy lênh láng ra đến tận đường đi, mùi tử khí và
mùi máu hôi tanh không chịu nổi. Khi về đến nhà thì ông xin mẹ được ăn chay.
Những câu chuyện vừa kể không có chút màu sắc
Phật giáo nào cả, nhưng ta cũng thấy có một cái gì đó trong tâm thức của những
người trong câu chuyện đã thúc đẩy và kích động họ một cách kín đáo. Điều ấy
chưa hẳn là từ bi, nhưng có thể là một chút từ tâm nào đó đã hé lộ trong tâm
thức họ, mặc dù còn rất mơ hồ. Đó là một thứ xúc cảm phát lộ khi tâm thức tiếp
xúc và bị kích động trước cảnh khổ đau của chúng sinh hay đồng loại. Những
trường hợp như thế xảy ra rất nhiều, biến dạng tùy theo hoàn cảnh và trường hợp.
Nếu chú ý thì chúng ta cũng sẽ thấy những cảnh khổ đau ấy một cách dễ dàng trong
cuộc sống hằng ngày chung quanh chúng ta, chẳng hạn như khi thấy cảnh thọc huyết
heo, cắt cổ gà, thấy tai nạn xe cộ, hay một con vật bị cán chết trên đường cái.
Đứng trước những cảnh tượng đó thì ta xúc động nhưng khi vừa rời khỏi nơi ấy thì
ta lại quên ngay. Chẳng qua hạt mầm của lòng từ tâm trong ta vẫn còn bị che lấp
ít nhiều bởi "cái ngã" hay sự ích kỷ chỉ biết có ta mà thôi : con vật bị
giết, bị xe cán bẹp hay một người bị thương máu me chảy ra đường không phải là
ta. Những xúc động tích cực và từ bi vừa hé lộ ấy rất dễ đi vào quên lãng, nếu
chúng ta không đủ sức để nhận biết đấy chính là các hạt giống thật quý cần phải
được chăm sóc và chúng ta có bổn phận phải vun xới giúp cho chúng vươn lên và
lớn lên như những gốc cổ thụ, vì những hạt giống ấy là một chút gì đó tượng
trưng cho Phật tính trong lòng chúng ta.
Có lẽ cũng không nên luận bàn xa hơn trong trường
hợp "ăn chay" do những kích động "mơ hồ" nơi mỗi người. Những kích động như thế
tuy rằng có thể đưa đến việc ăn chay, nhưng lại không có liên hệ mật thiết gì
đến ý nghĩa ăn chay trong Đạo Phật.
- Trường hợp thứ ba : những
người Phật giáo ăn chay và ý thức một cách rõ rệt quyết tâm ăn chay của mình.
Đối với những người ấy thì ý nghĩa của hành động ăn chay là gì? Phần này sẽ được
trình bày chi tiết hơn với một số thí dụ cụ thể cho mỗi trường hợp :
Thí dụ thứ nhất : Một
số người chỉ ăn chay khi nào có nhu cầu mà thôi. Chẳng hạn như khi có con sắp đi
thi thì người ấy cầu khẩn chư Phật một cách hết sức thành tâm và kính cẩn, xin
cho con mình thi đậu và nguyện là nếu đứa con thi đậu thì họ sẽ ăn chay ba
tháng. Sau đó đứa con thi đậu thật, và người này ăn chay ba tháng. Trong trường
hợp này thì ý nghĩa của việc ăn chay nằm ở chỗ nào? Chẳng những hành động ấy
không có một chút gì gọi là Đạo Pháp mà đúng hơn chỉ là một sự mua bán và mặc cả
với chư Phật mà thôi. Người tu Phật phải hiểu rằng đứa nhỏ thi đậu hay thi rớt
là do nơi trí thông minh và sự cố gắng của nó…tức là những gì liên hệ mật thiết
và trước hết với nghiệp của chính nó, dù rằng xuyên qua hiện tượng tương liên
thì nghiệp của nó cũng ít nhiều liên hệ với nghiệp của chính mình, nhưng đấy chỉ
là những hậu quả thứ yếu. Hành động quyết tâm ăn chay ba tháng của một người
khác, tức là cha mẹ là một việc hoàn toàn không bắt buộc phải liên hệ trực tiếp
với việc thi đậu của đứa con.
Câu chuyện nguyện ước trên đây còn có thể xoay
chuyển tệ hại hơn. Trong trường hợp đứa nhỏ thi rớt thì người này lại có thể
trách chư Phật đã bất lực và vô tình trước sự cầu khẩn chân thành của họ. Hoặc
câu chuyện có thể lại biến chuyển theo một chiều hướng khác nữa. Chẳng hạn đứa
nhỏ thi đậu và người nguyện ước bắt đầu ăn chay, nhưng chỉ sau một tháng thì
chịu hết nổi, vừa ăn chay vừa đếm từng ngày chờ cho đủ ba tháng sẽ mua tất cả
những gì mình thèm để ăn cho thoả thích. Vừa đếm từng ngày lại vừa hối tiếc đã
ra giá quá cao với chư Phật, và nghĩ rằng con mình dù sao cũng học giỏi, phải
chi ra giá một tháng ăn chay thì nó cũng dư sức thi đậu! Hoặc cảnh huống cũng có
thể biến chuyển tệ hại hơn như thế nữa tức là sau khi ăn chay được một tháng thì
người này không còn chịu đựng được nữa, bèn thắp hương xin tạ lỗi với chư Phật
để ngưng ăn chay, tự nhủ rằng dù sao đứa nhỏ cũng đã thi đậu rồi!
Qua những thí dụ trên đây thì việc ăn chay chẳng
những không có gì gọi là Phật giáo cả mà lại còn là một cực hình. Chư Phật luôn
thương xót chúng sinh và không bao giờ bày ra những thứ cực hình như thế. Đấy là
vô minh đã kích động ta và xúi dục ta tự chọn lấy sự đau khổ cho chính mình mà
thôi.
Thật sự thì màn vô minh hiển hiện ở mọi thể dạng.
Chẳng hạn như dù cho người ăn chay xem lời nguyện của mình là một việc phấn khởi
đi nữa thì họ sẽ ăn chay với lòng hân hoan để trả nợ chư Phật và để giữ trọn lời
hứa của mình. Sau ba tháng người này thấy nhẹ nhõm và sung sướng. Cái nhẹ nhõm
đó, cái sung sướng đó là do nơi tâm thức tạo ra để lừa phỉnh ta, đó là cái sung
sướng phù du, vô nghĩa và sai lầm. Tóm lại và nói một cách khác thì tất cả những
thứ cảm thọ ấy, dù đấy là khổ thọ hay lạc thọ, thì cũng đều
do vô minh tạo ra cho ta mà thôi, hoàn toàn không có ý nghĩa gì trên phương diện
Đạo Pháp cả.
Thí dụ thứ 2 : Trường
hợp xảy ra đối với hai người ăn chay đúng theo tinh thần Phật giáo, tức là ăn
chay rất nghiêm túc mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và ngày mùng một. Một người
bán cá và một người đi chợ mua cá. Người bán cá ở chợ đang chặt đầu ếch lột da
và ném vào một cái thau cạnh bên. Người mua bước đến chọn một con cá lóc. Người
bán vẫn tiếp tục chặt đầu ếch và ra giá. Ngã giá xong, người bán cân cá và sau
đó nắm lấy đầu cá, hai ngón tay luồn vào hai mang cá để giữ con cá cho thật chặt
và sau đó lấy một khúc cây đập lên đầu cá nhiều lần thật mạnh, con cá giẫy giụa,
tiếp theo người bán cá vừa cầm dao gọt da và vẩy cá, vừa hàn huyên với người
mua. Con cá chưa chết hẳn, khi gọt da, nó lại dẫy dụa, cơ quan xúc giác của cá
tập trung vào hai đường dài dọc theo hai bên lườn của thân cá, khi lưỡi dao cắt
vào đấy sẽ làm đau đớn lắm. Vì con cá vẫn còn dẫy dụa, người bán cá không gọt
vẩy được lại phải cầm khúc cây đập thêm vài cái nữa vào đầu nó. Gọt vây xong,
người bán cá chặt bỏ hai mang cá, chặt đuôi, chặt vây, chặt mõm cá gần tới vị
trí của hai mắt, lưỡi cá lòi ra khỏi miệng, sau đó bỏ cá vào một cái bao và đưa
cho người mua. Trong khi chờ người mua đếm tiền thì người bán lại tiếp tục chặt
đầu ếch. Trong thau, những con ếch mất đầu và bị lột da vẫn co giật vì hệ thống
thần kinh của ếch không tập trung hết ở não mà còn phát triển dọc theo tủy xương
sống để giúp vào việc điều hợp cử động của tứ chi được hiệu quả hơn.
Ăn chay để phát lộ lòng từ bi, nhưng trước cảnh
những con vật đang bị hành hạ và chịu đau đớn mà cả người mua lẫn kẻ bán không
hề tỏ lộ một chút xúc cảm nào cả. Chẳng qua cũng chỉ vì những hình ảnh đó đã trở
nên quá quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày khiến họ không còn nhìn thấy những
đau đớn mà các sinh vật phải gánh chịu. Vì cuộc sống, nếu bắt buộc phải bán và
phải mua, thì ít ra ta cũng giữ yên lặng để nhìn thấy cái khổ đau và chịu đựng
của những sinh vật đang bị hành hạ trước mắt ta, đấy là thái độ tối thiểu của
một người tu Phật. Ăn chay đối với hai người vừa kể trên đây không có một ảnh
hưởng gì trong thái độ và hành vi của họ. Vô minh đã che lấp tâm thức họ mất
rồi. Vô minh trong trường hợp này phát sinh từ thói quen, vô tâm và những hiểu
biết quy ước không suy xét, từ giáo dục và lối sống trong xã hội mà họ đã hấp
thụ từ nhỏ. Để phá vỡ thứ vô minh này ta phải tỉnh thức, quán xét và phân tích
những hiện tượng chung quanh ta. Tóm lại hành vi ăn chay của hai người vừa kể
trên đây, tuy rằng có phần nào chân thật, nhưng không có một ý nghĩa gì về Phật
giáo, hay ít ra cũng không có một lợi ích gì cho họ cả. Có thể xem đấy như là
một thứ cảm thọ trung hoà, tức xả thọ hay vô cảm.
Thí dụ thứ 3 :
Đây là trường hợp những người biết giữ giới, ăn chay trường theo
tinh thần Phật giáo, chẳng hạn như tăng đoàn nơi chùa chiền và một số cư sĩ tại
gia. Ăn chay đối với họ là một việc tự nhiên. Ăn chay trường giúp cho họ không
suy nghĩ gì và không thắc mắc gì nữa về sự chọn lựa món ăn, không tìm cách ăn
ngon, không lo nghĩ tìm kiếm nhà hàng nào có món ăn đặc biệt, các món đặc sản để
thưởng thức…Kinh sách Bắc tông thường đưa ra hình ảnh sau đây : một người
Bồ-tát không thể nghĩ đến việc ăn thịt một sinh vật, cũng như một người mẹ không
thể nào nghĩ đến việc ăn thịt đứa con do chính mình sinh ra. Ý nghĩ ăn thịt
thoát ra ngoài tâm thức của họ, nói một cách khác tâm thức của họ đã được giải
thoát khỏi một phần nào đó những vướng mắc trùng trùng điệp điệp của thế gian
này.
Những người ăn chay trong trường hợp thứ 3 trước
hết có mục đích giữ giới, sau đó là vì lòng từ bi. Phải giữ giới vì Phật đã dạy
như sau trong Lăng già kinh (Lankavatara-sutra) : "Không đúng
khi cho rằng hợp lý và có quyền ăn thịt một con vật không phải do chính ta
[là một người tu hành] đứng ra giết nó, hay không phải do chính ta sai kẻ
khác giết nó (…). Có thể rồi sau này cũng có người (…) dưới ảnh hưởng của sự ham
thích ăn thịt sẽ dựng lên hàng loạt những luận chứng phức tạp để bào chữa cho
hành vi ăn uống của mình (…), ăn thịt dù dưới hình thức nào, bằng cách thức nào
hay bất cứ nơi nào, dứt khoát phải tuyệt đối cấm đoán, không có một ngoại lệ nào
cả (…). Ta không cho phép bất cứ ai ăn thịt, Ta cấm hẳn việc ăn thịt, và Ta sẽ
còn vĩnh viễn cấm việc ấy (…)". Những lời trên đây của Đức Phật được trích
dịch lại từ một quyển sách của Philip Kapleau, một thiền sư Phật giáo người Mỹ (A
buddhist case for vegetarism, Ed. Rider, London, 1983, tr. 29).
Lục tổ Huệ Năng, sau khi thừa kế tổ Hoằng Nhẫn
phải bỏ trốn và sinh sống với những người thợ săn, đã kể chuyện lại như sau
trong Kinh Pháp Bảo đàn : "Khi nấu ăn, họ [tức những người thợ săn]
nấu chung rau cải với thịt trong một nồi. Khi họ mời tôi ăn, tôi nói với họ rằng
trong đĩa thức ăn tôi chỉ ăn rau mà thôi". Việc cấm sát sinh được nhắc đi
nhắc lại trong nhiều kinh điển Phật giáo chẳng hạn như trong Luật tạng (Vinaya-Nikaya),
Tăng nhất bộ kinh (Anguttara-Nikaya), Tương ưng bộ kinh (Samyuttara-Nikaya),
v.v…Giới luật là một thành phần của Đạo Pháp, Đạo Pháp vô Giới luật sẽ không còn
phải là Đạo Pháp. Nếu Phật giáo không chủ trương ăn chay thì Phật giáo có thể sẽ
không còn là Phật giáo nữa, và biết đâu Phật giáo cũng không còn tồn tại đến
ngày nay.
Sự kiện ăn chay còn có ý nghĩa cao hơn là một
hành động giữ giới. Phật giáo tập cho chúng ta nhận thức được sự khổ đau cùng
khắp trong thế giới luân hồi. Ăn chay để làm giảm bớt đi những khổ đau đó cho
chúng sinh, tập cho chúng ta trở thành những người " bất bạo động". Người
ăn chay theo ý nghĩa của Phật giáo là một người "thật can đảm", "bất
hợp tác", "đứng ra ngoài cuộc" để "không tự trói mình" trong
chuỗi dài bất tận của thèm khát và giết chóc. Tuy nhiên chúng ta cũng cần chú ý
rằng nếu người ăn chay cố chấp vào việc ăn chay của mình, câu nệ từng li từng
tí, "không đụng chén đụng đũa với người ăn thịt", thì đó cũng là một hình thức
của sự bám víu, đi ngược với giáo lý nhà Phật.
Xin trở lại một điều đã nêu lên trong phần nhập
đề, tức cái cảm giác đẩy một cánh cửa đã mở rộng khi nêu lên chủ đề ăn chay. Hầu
hết những gì thường viết hay giảng về vấn đề ăn chay cũng đều giống như một cánh
cửa đẩy ra phía bên ngoài, hướng tâm thức ta vào phần thân xác của riêng mình và
sự sống của các sinh vật vật khác, hoặc phóng tâm thức ta xa hơn và rộng hơn vào
môi sinh chung quanh : nói chung có nghĩa là ăn chay để giữ giới, bảo vệ cho
thân xác được tinh khiết, thực thi lòng từ bi... Mặc dù cánh cửa đã được mở rộng
như thế, nhưng thiết nghĩ ta cứ nên bạo dạn tiếp tục đẩy cánh cửa thêm nữa,
nhưng hãy đẩy nó vào phía bên trong, mở thẳng nó vào tâm thức của chính mình để
thử quán xét sự tương liên của tâm thức và hành động của chính mình về việc ăn
chay xem sao?
Thật vậy, ăn chay không phải đơn giản chỉ để giữ
giới, không phải để cầu mong cho thân xác được tinh khiết, hoặc cũng không phải
là để cứu vớt một số chúng sinh khỏi chết… Dù ăn chay trường nhưng ta cũng không
cứu vớt được bao nhiêu sinh linh trước sự tàn phá của vô minh và bản năng tham
ăn và thích ăn của con người. Nếu ý nghĩa ăn chay dừng ở mức độ như vừa kể trên
đây thì thực sự là ta vẫn còn vướng trong sự trói buộc của vô minh. Việc
ăn chay chắc chắn là phải có một ý nghĩa cao cả hơn và tích cực hơn như thế nữa.
Ăn chay là một phương thức tu tập hằng ngày của
ta, luôn luôn nhắc nhở ta về lòng từ bi. Ăn chay là để cải thiện chính tâm thức
ta, giúp cho tâm thức ta an bình hơn, từ bi hơn, một tâm thức trong sáng, rộng
lớn và bén nhậy trước những khổ đau của chúng sinh. Khi lòng từ bi được phát huy
đến cực độ thì sẽ đưa tâm thức đến Trí tuệ và Trí tuệ tức là Giác ngộ. Lòng từ
bi như thế mới chính thực là Từ bi của Phật giáo. Ăn chay như thế mới gọi là ăn
chay theo Phật giáo. Đó là một hành động
tích cực, cao cả, can trường và bất bạo động. Thức
ăn chay là thực phẩm nuôi dưỡng lòng Từ bi, và Từ bi là mảnh đất giúp cho Trí
tuệ nẩy mầm và phát triển. Một vị Bồ-tát tham thiền trong một hang động trên núi
cao, chịu lạnh, chịu đói, không phải để cứu vớt một vài con vật trong lò sát
sinh, nhưng để phát lộ và khai triển lòng Từ bi vô biên, trải rộng lòng Từ bi đó
ra tám phương trời, mười phương Phật, để đến gần với từng sinh vật nhỏ bé trong
bốn miền không gian.
Ăn chay phải tích cực và ta phải biết sử dụng
việc ăn chay như một phương pháp tu tập để biến cải tâm thức. Ăn chay mà vô
cảm hay xả cảm
thì chỉ là một việc vô ích mà thôi. Từ điểm này chúng ta hãy thử lạm bàn xa hơn
nữa, cao hơn nữa, đưa tâm thức vượt lên trên mọi khái niệm nhị nguyên của ăn
chay và không ăn chay, vượt lên trên mọi gò bó, bám víu, câu nệ của giới luật,
của tích lũy đạo hạnh, của từ chương trong kinh sách và vượt lên trên tất cả
những gì đã được trình bày trên đây. Chủ đề này khá rộng nên sẽ xin được trình
bày trong một phân đoạn mới sau đây.
4. Ăn chay, môi sinh và sự sống
Dù có mở rộng cánh cửa ăn chay hướng vào phía
trong để bước thẳng vào tâm thức mình, nhưng nếu ta vẫn còn phân biệt bên trong
và bên ngoài, phân biệt tâm thức ta với ngoại cảnh, với môi sinh, phân biệt giữa
sự sống của ta và của những sinh linh khác thì như thế tức là còn cảm nhận và
bám víu vào ý tưởng về "sự sống của chính ta". Để nuôi dưỡng cho sự sống đó ta
quyết định "ăn hay không ăn" sự sống của những sinh linh khác và
phân biệt như thế tức là một cách bám chặt vào cái ngã. Như vậy thì đâu
là vị trí và sự tương quan của thân xác, tâm thức và sự sống của chính mình đối
với sự sống nói chung của tất cả chúng sinh trong cái thế giới ta bà này?
Một vài tác giả Phật giáo viết bài bênh vực chủ
trương ăn thịt cá của mình bằng cách lý luận rằng những người ăn chay khi luộc
rau cũng đã sát hại vô số sinh linh nhỏ bé trong rau cỏ và trong nước. Nhận xét
này rất đúng, vì ta không thể hoàn toàn tránh hết mọi sự hung bạo và ngược đãi
đối với tất cả chúng sinh, dù vô tình hay cố ý, dù chủ trương bất bạo động hay
tu khổ hạnh cũng vậy. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước, khi mà loài người chưa
có kính hiển vi thì Đức Phật đã dạy rằng trong một giọt nước cũng có vô lượng
chúng sinh. Khi uống một ngụm nước, khi tắm rửa… là ta đã đưa sự sống của ta va
chạm và làm thiệt hại đến sự sống của những sinh linh khác. Nhưng ta cũng nên
hiểu rằng, sự sống của những vi sinh vật ấy còn thô sơ lắm, chưa có những xúc
cảm, chẳng hạn như lo sợ hay thương yêu, giống như những sinh linh có giác cảm
tiến hoá hơn.
Như vậy thì chúng sinh và sự sống thật sự là gì?
Kinh sách phân chia thế giới luân hồi thành ba lãnh vực hay cõi, gọi là tam
giới (tridhatu) : dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Cõi dục giới (kamadhatu) gồm có sáu
loại chúng sinh phân bố theo sáu cấp bậc tiến hoá từ thấp lên cao : địa ngục,
quỷ đói (preta), súc sinh, con người, chư thần (asura) và thiên
nhân (hay chư thiên, deva). Tuy nhiên, riêng trong một cấp bậc con người
cũng có thể xảy ra những cảnh địa ngục, chẳng hạn như bị tù tội, đọa đày, bệnh
tật, rơi vào hoàn cảnh đói khổ, bị ngược đãi, hà hiếp và nô lệ, hoặc những
trường hợp hung dữ, tham lam và nham hiểm giống như quỷ đói, hoặc đần độn và khờ
khạo như hàng thú vật, hoặc những trường hợp cao cả như chư thần, chư thánh hay
thiên nhân. Đặc tính chung của những sinh linh có giác cảm như vừa kể trong cõi
dục giới là muốn ăn, muốn dâm và sợ chết. Đó là những
bản năng sâu kín và tiêu biểu nhất của chúng sinh nơi cõi luân hồi, và đó cũng
là những động cơ mãnh liệt và khuấy động nhất buộc chặt chúng sinh trong chu kỳ
bất tận của tái sinh và hiện hữu. Những bản năng đó là nguồn gốc của vô minh
nguyên thủy. Ăn chay là một phương pháp góp phần để hoá giải bản năng
muốn ăn và sự bám víu mù quáng vào sự sinh tồn của chính ta. Muốn
dâm và sợ chết đòi hỏi các phương pháp hóa giải khác không thuộc vào
chủ đề ăn chay.
Sinh linh trong cõi dục giới mang mười
chín khả năng mà kinh sách xem chúng mang bản chất "ô nhiễm", đó là : a) sáu khả
năng giác cảm (ngũ quan và tâm thức, Phật giáo xem tâm thức là giác cảm thứ
sáu) ; b) khả năng sinh tồn (sự sống) ; c) hai khả năng dục tính (tính dục nam
và nữ) ; d) năm khả năng tạo nghiệp gồm các khả năng mang đến sự sảng khoái
(sukhendriya), sự đau khổ (duhkhendriya), sự thích thú
(saumanassyendriya), những khổ đau tinh thần (daurmanasyendriya),
và sự vô tâm
(upeksendriya) ; e) năm khả năng đưa đến đạo hạnh gồm có lòng tin
(sraddhendriya), sự cần mẫn (viryendriya), tinh tấn
(smrtindriya), thiền định (samadhindriya), và sự hiểu
biết minh bạch (prajnendriya).
Để giúp cho bảng phân loại trên đây được đầy đủ
hơn, chúng ta có thể điểm qua thêm những đặc tính thuộc hai cõi khác của tam
giới, ấy là các cõi sắc giới và cõi vô sắc giới. Cõi Sắc
giới là cảnh giới của chư thần chư thánh, tức là những sinh linh còn mang
hình tướng (đặc tính của vật chất), tuy nhiên những sinh linh này chỉ mang
mười lăm khả năng, tức bớt được bốn khả năng so với mười chín khả năng của
các sinh linh nơi cõi dục giới, bốn khả năng ấy là khả năng dâm tính và
ba trong tổng số năm khả năng tạo nghiệp.
Cõi vô sắc giới là cảnh giới của những vị
đại thiên, những sinh linh vượt ra khỏi hình tướng vật chất và chỉ còn giữ lại
tám khả năng : bớt được bảy khả năng về hình tướng (năm khả năng giác cảm và
hai khả năng dục tính, chỉ còn lại khả năng tâm thức), đồng thời cũng bớt thêm
được bốn trong số năm khả năng tạo nghiệp.
Trên đây là những gì mà kinh sách đã mô tả và
phân loại chúng sinh trong cõi ta-bà. Trên thực tế, trong cõi dục giới,
ta nhận biết dễ dàng các loại sinh linh sống chung đụng và sát cánh với nhau
trong nhiều cấp bậc, từ địa ngục của ngạ quỷ (những cảnh đọa đày), quỷ đói
(những người nham hiểm và ác độc), súc sinh và những sinh linh đần độn và khù
khờ (súc vật), trên đó là con người và trên nữa là những sinh linh tinh khiết và
cao cả. Hai cõi sắc giới và vô sắc
giới thì cao hơn và tinh tế hơn so với cõi dục giới, vượt ra khỏi
sự nhận biết nhị nguyên và quy ước của chúng ta, kể cả khoa học. Những sinh linh
trong hai cảnh giới này vẫn còn chung đụng với chúng ta trong thế giới luân hồi,
nhưng chỉ có một số nhỏ trong chúng ta có tâm linh bén nhậy và vi tế nhờ vào sự
tu tập lâu dài thì mới cảm nhận và tiếp xúc được với các sinh linh hiện hữu
trong hai cảnh giới đó. Biết đâu trong giây phút này chúng ta đang "tiếp xúc"
với những sinh linh tinh khiết và cao cả trong cõi sắc giới nhưng chúng
ta không hề hay biết, họ là những « con người » thật từ bi và rộng lượng, ngay
thật và nhân từ. Có thể là chúng ta đang đi bên cạnh họ hay đang sống chung với
họ nhưng chúng ta không « nhìn thấy » được họ chỉ vì tâm thức bị vô minh che lấp
khiến cho ta cứ tưởng họ tầm thường như những kẻ khác. Đối với các sinh linh
trong cõi vô sắc giới hoàn toàn không còn mang các khả năng vật chất nữa
(tức đã vượt khỏi năm giác cảm) chỉ còn giữ lại phần tâm thức mà thôi, thì sự
nhận biết và tiếp xúc với những sinh linh ấy lại còn khó khăn cho chúng ta hơn
nhiều vì cần phải có một tâm thức thật tinh khiết và bén nhạy.
Trên phương diện khoa học thì cõi dục giới
của chúng ta được mô tả như thế nào? Khoa học chia cõi này thành ba giới : giới
khoáng vật, giới thực vật và giới động vật. Giới khoáng vật nói chung là giới
vật chất không hàm chứa sự sống. Tuy nhiên giới đó cũng biến động, thoái hoá và
tạo tác không ngừng tùy thuộc vào các điều kiện vật lý. Chẳng hạn như nước dưới
không độ C sẽ đông cứng, trên 100° C sẽ bốc thành hơi. Muối ăn hòa tan trong
nước, ta không trông thấy muối, nhưng khi nước bốc hơi, độ đậm đặc trở nên cao
hơn và muối sẽ kết thành tinh thể. Những biến dạng này khá đơn giản, lệ thuộc
vào một vài điều kiện vật lý và khá dễ cho ta nhận thấy. Tuy nhiên, giới vật
chất thật ra còn phức tạp và biến động một cách "tinh vi" hơn thế rất nhiều,
khoa học cho thấy ranh giới giữa vật chất và năng lượng không thể phân biệt được
một cách minh bạch, đối với thế giới cực vi (vật lý lượng tử) hay cực đại (thiên
văn học) phải dùng những máy móc tối tân hoặc toán học để chứng minh hay phỏng
đoán những gì không thể hiểu hay quan sát trực tiếp được, cũng như ánh sáng có
thể xem là những hạt photon hay là những làn sóng. Tất cả những biến động đó, từ
thô thiển đến vi tế của thế giới vật chất được Phật giáo gọi chung là sự tạo tác
bằng điều kiện, vì thật sự không có một vật thể nào hay một hiện tượng nào, dù
là vi tế hay thô thiển, tự nó có thể độc lập được, kể cả không gian và thời
gian, tất cả đều tùy thuộc vào điều kiện. Một phần những vật thể biến động ấy
tạo ra tứ đại của thân xác con người, hoặc nói rộng hơn là « thân xác »
của tất mọi chúng sinh trong cõi luân hồi. Vì vậy tất cả mọi sinh linh, sự sống,
tâm thức phát sinh từ sự sống, cho đến hành động, nghiệp báo…, đều phát xuất từ
những tạo tác bằng điều kiện.
Ngoài giới khoáng vật vừa được mô tả trên đây thì
còn lại hai giới thực vật và động vật. Thông thường chúng ta chỉ nhìn thấy hai
giới này ở thể dạng đa bào (nhiều tế bào kết hợp, chẳng hạn như những sinh vật
khá lớn thấy được bằng mắt thường). Đối với thế giới của những sinh linh cực thô
sơ như siêu trùng (virus), vi khuẩn kể cả thực vật và động vật đơn bào thì cần
phải dùng các phương pháp và dụng cụ khoa học để quan sát, như kính hiển vi
chẳng hạn. Vì chúng quá nhỏ nên chúng ta không nhìn thấy trực tiếp được chúng
bằng mắt thường, nhưng thật sự ra thì chúng hiện diện ở khắp mọi nơi trong không
gian, trong những môi sinh khắt khe nhất, trên thân xác ta, trong ngũ tạng của
ta, trong miệng, trong mũi, trong nách, trong háng, trong hậu môn của ta…Chúng
tạo ra lợi ích cũng có mà tai họa cũng có : chúng là thành phần cơ bản của thức
ăn cho sinh vật đa bào, và cũng là nguồn gốc của bịnh tật, tai ương, truyền
nhiễm và có thể giết hại vô số những sinh linh khác.
Các sinh vật đơn bào thuộc vào hai giới thực và
động vật không khác nhau nhiều, các nhà sinh học cho biết ranh giới phân chia
giữa hai giới này rất mong manh ở thể dạng đơn bào. Nhưng khi kết hợp để tạo ra
những sinh vật đa bào thì khác, động vật có nhiều khả năng hơn. Kinh sách cho
biết trong cõi dục giới của chúng ta, các sinh linh "hữu tình" (đúng hơn
thì nên gọi là sinh linh có giác cảm) có 19 khả năng : giác cảm, sinh
tồn, dục tính, tạo nghiệp v.v., như đã kể ra trong phần trên đây. Trong khi ấy,
trong giới thực vật thì các khả năng trên đây không đầy đủ, hoặc tiềm năng tác
động của chúng rất thấp. Chính là dựa vào điểm then chốt này mà người ăn chay
chỉ ăn thực vật mà thôi. Tuy nhiên, trong giới thực vật, sự sống lắm khi cũng
khá phức tạp. Chẳng hạn như cây mắc cỡ, còn gọi là cây xấu hổ hay gọi một cách
văn hoa là cây trinh nữ, cũng biết cách tự vệ trước nguy hiểm bằng cách co rúm
lá và cuống khi có một vật khác chạm vào chúng. Đây là những phản ứng thô sơ do
sự teo nhỏ hay trương nở của các tế bào ở nách lá và cuống lá gây ra bởi hiện
tượng rút thêm nước hay dồn nước sang các tế bào khác. Khám phá khoa học mới
nhất và gần đây về thực vật cho biết rễ của vài loại cây có thể tiết ra một độc
tố giết hại các cây khác chung quanh để tranh giành và bảo vệ môi trường sống
riêng cho chúng. Có những thí nghiệm cho thấy khi trồng cây và đồng thời vặn
nhạc êm dịu thường trực thì cây cối sẽ xanh tốt và mau lớn, những hiện tượng này
khoa học có thể ghi nhận nhưng không giải thích được. Trên đây là một vài thí dụ
nhỏ cho thấy sự sống khá tinh tế của thực vật.
Sự sinh sản của cả hai phái thực và động vật ở
thể đơn bào có thể xảy ra bằng cách chia cắt tế bào làm hai (vô tính), hoặc bằng
cách phối hợp hai tế bào đực và cái (dục tính). Hoa đực và hoa cái là dục tính
khá phức tạp của thực vật. Nhân giống vô tính (clonage) rất thông thường trong
giới thực vật (giâm cây, chiết cây, cấy mầm… không cần đến hạt giống là sản phẩm
của dục tính), ngày nay khoa học cũng có thể nhân giống động vật tiến hoá
(trường hợp con trừu Dolly).
Trước sự phức tạp đó của sự sống thì việc ăn chay
đứng vào vị trí nào và phải được định nghĩa như thế nào? Nếu cố chấp vào việc ăn
cái này là chay, ăn cái kia không phải là chay, thì nhất định ta sẽ gặp nhiều
trường hợp bối rối. Tóm lại, ranh giới giữa động vật và thực vật không phải là
tiêu chuẩn tuyệt đối, mà chỉ là tiêu chuẩn tốt nhất để định nghĩa việc ăn chay.
Mặt khác như đã được trình bày trên đây nếu muốn nhận định vị trí và sự tương
liên của ta đối với các sinh linh khác trong cõi dục giới nói riêng và
toàn thể cõi ta bà hay luân hồi nói chung quả thật là khó. Tuy
nhiên và đồng thời thì việc nhận định vị trí và mối tương liên của chúng ta giữa
sự sống này dựa theo những tiêu chuẩn khoa học cũng không phải là chuyện dễ :
vì tất cả mọi hình thức của sự sống liên hệ với nhau, liên kết với nhau, hỗ
tương cho nhau và hủy hoại lẫn nhau. Trong bối cảnh tương liên như thế, xác
định việc ăn chay cũng rất tế nhị. Ta có nên vượt lên trên sự gò bó của ăn chay,
ăn cái này không ăn cái kia, để đạt đến một thể dạng hoàn toàn hội nhập với sự
sống hay chăng? Sự hội nhập ấy biết đâu có thể là một lối thoát : quên cái
ngã của ta và đem sự sống của riêng ta để hội nhập với sự sống của tất cả
muôn loài chúng sinh? Khi ý thức và hình dung hành động ăn chay trên chiều hướng
đó thì ta sẽ hiểu rằng ăn chay có nghĩa là kính trọng và yêu thương sự sống của
muôn loài giống như yêu thương và kính trọng sự sống của chính mình. Thực sự ra
thì trong sự sống của tất cả muôn loài có cả bóng dáng của sự hiện hữu của chính
ta trong đó nữa, dù rằng trong sự sống đó sự hiện diện của ta chỉ tượng trưng
cho một phần rất nhỏ, có thể nói là vô nghĩa và rất khiêm nhường.
Ernst Haeckel (1834-1919), một nhà động vật học
và phôi học nổi tiếng người Đức, khi nghiên cứu quá trình hình thành của bào
thai (phôi) của một hài nhi chẳng hạn, đã nhận thấy rằng quá trình đó bắt đầu từ
dạng thể đơn bào và sau đó là dạng thể kết hợp đa bào của một sinh vật thô sơ,
tiếp theo là dạng thể cá của thai nhi trong một bọc nước với mang và đuôi, kế
tiếp là đặc tính của ếch nhái, bò sát và sau cùng thai nhi mang các đặc tính
tiến hoá của loài có vú. Sự hình thành của thai nhi lập lại tất cả quá trình
tiến hoá của giới động vật. Ernest Haekel đã đưa ra một câu tuyên bố nổi
tiếng trong giới sinh học : "Sự hình thành của phôi là cách tóm lược ngắn gọn
từ sự hình thành của cả chủng loại" (L’ontogénèse est une courte
récapitulation de la phylogénèse – Ontogenesis is a short recapitulation of
phylogenesis). Nếu đúng như thế thì một cá thể cũng liên hệ mật thiết với
quá khứ và suốt quá trình tiến hoá của chủng loại kể cả sự sống nói chung. Quá
trình tiến hoá đó kéo dài hàng tỷ năm, từ một vi sinh vật thô sơ cho đến những
động vật phức tạp như giống người ngày nay trên địa cầu. Nhận xét của E. Haeckel
cũng là một phản ảnh triết lý của khái niệm tương liên trong Phật giáo, sự tương
liên này bao hàm cả quá khứ, hiện tại và tương lai của sự sống của tất cả mọi
sinh linh.
Tóm lại, khi nhận định được những hiểu biết trên
đây, ta sẽ hiểu rằng cách cư xử thân thiện, yêu thương, tránh mọi hung bạo một
cách vô ích đối với tất cả mọi sinh linh, từ bỏ cái ngã
của ta, hội nhập một cách hài hoà với tất cả mọi hình thức của sự sống chung
quanh ta, từ một cánh hoa đến một cọng cỏ, từ con người đến thánh nhân, cho đến
những côn trùng trong cỏ dại, kính trọng và yêu thương mọi dạng thể của sự sống
trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai, thì đấy mới chính thực là cách
cư xử của một người tu Phật. Cách cư xử phóng khoáng và rộng lớn như thế sẽ vượt
lên trên khái niệm đơn giản xoay quanh cách định nghĩa thông thường của việc ăn
chay.
5. Lời kết
Việc ăn chay dựa vào những hiểu biết và các khám
phá khoa học trong mục đích giúp cho thân xác ít bịnh tật hơn thì không có gì
gọi là Phật giáo cả. Dù cho khoẻ mạnh đến đâu thì thân xác đó sớm muộn gì cũng
gặp vấn đề, vì nó không thể tránh khỏi bịnh tật và cái chết. Xem ăn chay như một
hình thức mua bán hay trao đổi với chư Phật là tự tạo cho mình một món nợ hay
một cực hình và như thế chẳng những không phải là Phật giáo mà thật ra còn rất
nguy hại cho thân xác và cả tâm thức. Ăn chay nhưng hoàn toàn vô tâm
trước khổ đau của chúng sinh là một hành động vô ích. Ăn chay để phát lộ lòng Từ
bi, kiến tạo một mảnh đất cho Trí tuệ mới đích thực là ăn chay trong tinh thần
Phật giáo. Nếu ăn chay nhưng đồng thời vượt lên trên ý niệm của ăn chay và
không ăn chay, để hội nhập một cách hài hoà giữa tâm thức và thân xác mình
với tất cả những sinh linh khác dù nhỏ bé cách mấy, dù vô hình hay hữu hình,
thuộc quá khứ hay vị lai, dù đần độn và đáng thương, dù hung dữ như quỷ đói, hay
hiền hoà và cao thượng như chư thiên và chư thánh trong ba cõi dục giới,
sắc giới và vô sắc giới, thì như thế lại còn tốt hơn nữa.
Để góp thêm vào phần kết luận người viết xin được
ghi lại một bài thơ. Những vần thơ này thật ra đã được viết từ lâu và chỉ xin
ghép thêm vào bài viết này trong mục đích nêu lên hai chủ đề : Thứ nhất là khái
niệm về sự tương liên, tương tác, tương tạo của mọi vật thể và mọi biến cố trong
thế giới chung quanh chúng ta, và thứ hai là tính chất biến động, tạo tác và hủy
hoại liên tục của mọi hiện tượng và sự sống nói riêng. Trong sự biến động liên
tục đó chúng ta không thấy cái ngã của mình ở đâu cả. Kết luận của bài
thơ là nụ cười của Phật, tượng trưng cho sự Giác ngộ.
Bức tượng gỗ
Trên bệ,
bức tượng Phật ngồi im,
Tôi nghe
âm vang trong từng thớ gỗ,
Có tiếng chim trong rừng,
Cả tiếng rì rào của lá,
Thì thầm, tiếng hẹn hò của sâu.
Trên đường vân mặt gỗ,
Tôi thấy màu xanh trên cành,
Ửng ánh hồng màu mây.
Trên vết gân kẻ nứt, có nắng ấm mặt trời,
Mạch tế bào hơi thở.
Trên hình thù nét mặt, có bóng hình người
thợ.
Trong ánh mắt hiền hòa, có bàn tay người
khắc.
Thấm trong từng mạch gỗ,
Dòng nhựa cây từ đất,
Mạch nước nguồn từ sông.
Trong hương thơm, Tượng ngồi im trên bệ.
Trong khói mê, tôi ngồi im trên chiếu.
Bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng gặm nhấm,
Của mối mọt trong cây ?
Của sâu bọ trong chiếu ?
Trong xác thân tôi, vi sinh vật nhiều như
cát của sông Hằng,
Chúng cũng đang sống, sinh sôi và gặm nhấm.
Giật mình trong hốt hoảng,
Ngước nhìn lên qua làn khói mỏng,
Hiền hòa và nhân hậu,
Tượng mỉm cười trong hương.
Các nhà
khoa học nói rằng trên mỗi phân vuông của thân thể ta có khoảng 200 000 vi sinh
vật thuộc loài sâu bọ, loại ve (acariens), sinh sống nhờ hơi ẩm của mồ hôi, hơi
ấm của da thịt và nhờ lớp da chết đào thải dùng làm thức ăn. Trong miệng, mũi,
tai, mắt, nách, háng, hậu môn, cơ quan sinh dục... có vô số vi sinh vật sinh
sống. Trong ruột, bao tử,... hàng triệu vi trùng sống chung với ta, vừa ký sinh
vừa giúp đỡ ta trong việc tiêu hóa, hấp thụ chất dinh dưỡng,... Nếu không có
chúng thì thân xác ta có tồn tại được chăng? Chúng gắn liền với sự hiện hữu của
xác thân này. Ngoài ra cũng còn có những con vi trùng khác đang chờ đợi hoặc
đang âm ỉ tàn phá ta. Vậy thì xác thân này là nhà của ta hay là đất của chúng?
Hay chỉ là mảnh đất chung mà thôi. Thương chúng tất thương ta, thương ta hóa ra
là thương chúng.
Đang
ngồi im trên chiếu, bỗng tôi giật mình và hoảng hốt, một luồng chấn động lan
truyền khắp mạch máu và tế bào trong cơ thể tôi. Nhìn lên, trong cái bất động
của Pho tượng gỗ, tôi thấy sức sống của cả vũ trụ này, liên đới và buộc chặt với
sự tồn vong và hạnh phúc của từng vi sinh vật trong xác thân tôi, và trong cái
sâu thẳm của yên lặng mênh mông nơi gương mặt của Pho tượng gỗ, tôi chợt thấy
một Nụ cười.
Tôi xin
quỳ xuống và úp mặt lên chiếu, ước mong vạn vật bất cứ ở hình thức nào, từ hạt
cát, cọng cỏ, cho đến những sinh vật bên trong và bên ngoài xác thân tôi, dù nhỏ
nhoi cách mấy, hữu hình hay vô hình, trong lòng đất sâu, trên mặt địa cầu hay
bên ngoài vũ trụ, ngạ quỷ hay thánh nhân, nơi a tì hay thượng giới, tất cả đều
được an vui và hạnh phúc. Mong lắm thay, ước mơ lắm thay.
Tôi xin
được ngàn năm úp mặt xuống chiếu để gần gũi với cái hạnh phúc của muôn loài sinh
vật quanh tôi, trên thân thể tôi và trong xác thân tôi. Chúng tôi xin nhường
nhịn nhau, chia sẻ với nhau từng hơi thở ấm áp cho đến những rung cảm mong manh
phát sinh trên mảnh đất chung vô nghĩa và nhỏ nhoi này, và tôi chỉ dám ước mơ
cầu xin được giữ lại cho tôi một nụ cười.
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc), 17.02.07
Đọc lại và sửa chữa, 21.02.08
Hoang Phong