(Trích từ "Một Thời Oan Trái", Tiếng Quê Hương Xuất bản, 2011)
Mẹ tôi sinh ra tôi năm trước, năm sau lại sinh em bé. Sữa mẹ chỉ
đủ cho em bé, nên tôi phải ăn nước cơm thay sữa. Khi tôi lên ba, mẹ tôi lại sinh
em bé nữa, nên nhà neo quá. Mẹ tôi nhờ Bác Đồ Gái cho chị Đan ra “đỡ tay đỡ
chân cho thím.”
Chị
Đan hơn tôi vừa một giáp. Lúc tôi lên ba, chị Đan đã mười lăm. Từ lúc có chị,
hầu như lúc nào tôi cũng ở bên cạnh chị. Chị cho tôi ăn, thay quần áo và tối đến
hai chị em đắp chăn kín chùm đầu.
Những đêm
trời không có trăng, bầu trời đầy sao lấp lánh. Chị đưa tôi ra sân chỉ cho tôi
hình ông Thần Nông lưng cong một dãy ngôi sao, và có hai cái giải mũ cũng là hai
giải sao nhưng mờ nhạt cao vút lên trời. Ông Thần Nông lúc đầu hôm còn ngồi đó,
đến khuya đã cúi xuống, chị bảo “ông Thần Nông đi cấy đấy”...
Tôi nhìn
quanh bầu trời, sao bát ngát, chị bảo “mỗi ngôi sao cầm tinh cho một con
người.” Lâu lâu có một ngôi sao đổi ngôi, bay loè ra thành một vệt dài, chị
bảo “thế là có một người mới mất đấy.” Ôi chao, sao nhiều quá đếm chả nổi,
thì chị bảo cách đếm: “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng…”
Tôi đếm như thế, thả hồn mình vào bầu trời bát ngát, cao rộng rồi chìm vào giấc
ngủ.
Nhiều hôm
trời chuyển mưa, có khi có bão, sấm chớp ầm ầm, tôi sợ lắm, nhất là mẹ tôi lại
đi chợ vắng nhà. Nằm trong chăn, nhìn qua cửa sổ, bầu trời vần vũ, tối đen, tôi
thắc mắc không biết những ông sao bây giờ ở đâu. Những lúc như thế chị vào nằm
cạnh tôi cho tôi đỡ sợ và chị hát, giọng hát ngọt ngào bát ngát :
Đêm qua
chớp bể mưa nguồn
Hỡi người
tri kỷ (a) có buồn hay (a) không…?
Nghe chị hát,
tâm hồn tôi trở nên yên ổn và tôi chìm vào giấc ngủ hồi nào không hay. Những hôm
trời nắng, chị lấy cơm nguội với tôm khô kho khế, đem ra gốc cây khế cho tôi ăn.
Cơm nguội bùi, tôm ngọt đậm, các lát khế chua chua. Tôi chạy nhảy tung tăng, chị
bưng bát cơm chạy theo tôi. Có khi chị ngồi trên hòn đá dưới gốc cây khế, hoa
khế tím rơi đầy trên nền đất mịn. Chị nhìn lên cây khế, cành khế gió thổi xôn
xao, chị lại hát :
Trèo lên
cây khế nửa ngày
Ai làm
chua xót (a) lòng mày khế ơi…”
Có khi chị
lấy cái sào dài khoèo quả khế chín vàng trên cành cao cho tôi ăn. Tôi ăn một tị
là chán. Chị xé từng cánh khế, chấm muối ớt ăn thật là ngon. Chị xít xoa, đôi
mắt long lanh, có khi chảy cả nước mắt mà chị vẫn cười.
Tháng Tám
đến, mẹ tôi mua cho tôi một ông tiến sĩ giấy, loại vừa vừa, mặt vẽ bằng giấy
nhưng có vạt áo dài xoè ra, hai tay là hai vòng giấy xun xun vòng trước ngực.
Tôi bày ông tiến sĩ vào cái mâm chõng bằng tre. Các em gái tôi đứa thì được cái
đèn con thiềm thừ, đứa thì được cái đèn con cá, đôi khi còn có cả một đàn con
giống bằng bột nhuộm màu xanh, đỏ. Mắt các con giống là những hột cườm. Đẹp thì
có đẹp, nhưng tôi không thích các thứ đó. Tôi thích cái tàn, cái tán như lũ trẻ
con hàng xóm, cắm quanh cái kiệu bát cống có trạm những đầu rồng. Nhưng nhà tôi
nghèo, nhưng thứ đó đắt lắm. Để bù lại, chị Đan mua thêm cho tôi một quả bưởi
đào, lột vỏ xoè ra như một bông sen, bày bên những quả hồng ngâm xanh ửng vàng.
Đến hôm rằm, lúc trăng sáng nhất, trẻ con nhà giầu đem kiệu ra rước ở Ngã Ba.
Tiếng trống rước to nhỏ rập rình như ngày mở hội làng. Những đèn nến, đèn lồng
thắp sáng lung linh. Các kiệu ấy trở nên đẹp lạ lùng. Vì ngoài ông tiến sĩ to,
mặt là cái vỏ trứng gà điểm nhãn sắc sảo, môi son, áo mão bằng trang kim lóng
lánh, để giữa những tàn, lọng, bát bửu hệt như ở sân đình những ngày tế thần
hoàng. Chị Đan dẫn tôi đi xem. Chị bảo: “Ai học giỏi, thi đỗ tiến sĩ thì được
hàng tổng, hàng huyện đón rước như thế đấy. Em cố học giỏi, đỗ cho cao cho chị
mừng….” Rồi chị kể chuyện hai vợ chồng anh học trò nghèo qua câu hát:
Sáng giăng
giải chiếu hai hàng
Bên anh
đọc sách (chứ) bên nàng quay tơ.
*
Năm tôi lên
sáu thì chị về nhà chị. Tôi tấm tức, khóc hoài vì nhớ chị. Bây giờ tôi ngủ chung
với hai đứa em, đắp chung một cái chăn bông rộng mêng mông như che kín được cả
trời. Buổi đầu hôm ba anh em bò từ cuối giường lên đầu gường, đùa vui, cười rúc
rích. Khi mệt và bắt đầu buồn ngủ, tôi lại nhớ chị quá. Quanh tôi như trống
trải, thiếu vắng thế nào. Tôi bồi hồi nhớ chị, nhớ những lời chị hát, nhớ mùi bồ
kết, mùi chanh toả ra thơm ngây ngất từ làn tóc chị. Tôi như chột đi khi không
có chị.
Ngày Tết đến,
đêm ba mươi trời tối đen đặc lại. Tôi đi từ nhà trên xuống bếp như ôm cả cả cái
náo nức chờ đón mùa xuân vào lòng. Mẹ tôi ngồi bên bếp lửa. Ánh lửa bập bùng. Có
thể đó là một nồi cá chép kho cùng với thịt để ăn với bánh chưng. Có thể đó là
nồi măng khô ninh với chân giò. Trên gác bếp có treo mấy cái giò mỡ, kẹp chặt
trong những thanh tre dài. Mỡ thấm cả ra ngoài lá chuối xanh, đọng lại trắng
ngần.Trên nhà trên, đèn nến lung linh, ánh lên các nét chữ sơn son thiếp vàng ở
những bức đại tự. Cảnh con hạc xoải cánh bay đi, còn ngoảnh cổ lại để nhìn cành
tùng khẳng khiu trơ vơ chờ đợi, trên nền câu đối vải.
Thầy tôi
trong áo the, khăn xếp, đi đi, lại lại, thắp những tuần hương lên khắp các bàn
thờ. Những lúc như thế, giờ của năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến thì chị Đan đến.
Chị mặc áo dài tứ thân, thắt bao hoa lý, bưng cái mâm gỗ đậy lồng bàn. Chị đặt
mâm lễ vật trước bàn thờ, mở lồng bàn ra. Đó là một mâm chè lam. Những thỏi chè
vuông dài màu xám có rắc làn bột bỏng màu trắng xung quanh. Chị lễ phép thưa:“Mẹ
cháu bảo cháu đem chút lễ vật đến cúng ông bà bên ngoại…” Thầy tôi cười:“Bác
Đồ cẩn thận quá. Năm nào cũng nhớ đến các cụ…” Chị nhìn tôi, cười bảo: “Mai,
à sang năm mới chứ, em nhớ đến xông đất nhà chị nhá…” Tôi chỉ đợi có thế,
tôi mừng là chị chẳng bao giờ quên tôi. Chị về. Những bước chân chị bước trên
lối ngõ có lờ mờ hình cái cung bằng vôi trắng mà anh cả tôi mới vẽ hồi chiều.
Đêm đen thẫm bưng lấy mắt, lạnh ngọt. Tiếng các khánh đất va vào nhau kêu cung
kinh từ ngọn cây nêu dựng sát tường hoa gần cổng, âm thanh rời rạc, khô cứng như
phát ra từ cõi nào mơ hồ xa, huyền hoặc.
Sáng mùng một
đầu năm, sau khi lễ ông bà ở nhà và đã được thầy mẹ tôi mừng tuổi, tôi muốn đến
nhà chị Đan ngay. Anh cả dắt tôi đi. Tôi mặc áo dài mới. Cái áo gọi là mới thực
ra là cái áo anh tôi đã mặc rồi, đã cũ, mẹ tôi “soạn” lại, cắt ngắn bớt
cho tôi mặc và mới được nhuộm thâm lại ngày trong năm. Quần chúc bâu trắng sột
soạt, đi guốc, bước lóc cóc trên đường gạch, tôi đến nhà chị. Dọc đường gặp bao
nhiêu là người, ai cũng mặc quần áo mới, có người đã bắt đầu đi lễ-ông-vải. Có
những anh lớn hơn tôi độ vài ba tuổi cắp cái cháp đen đựng trầu cau, theo người
lớn đi lễ các nhà thân thuộc. Ngoài chùa vẫn còn lặng lẽ. Tiếng chuông êm ả
chuyền đi. Qua góc ao đình, nơi có cây bàng nằm lả gọn ra mé nước, rẽ trái là
lối vào nhà chị. Dinh cơ của các ông bá, ông lý ở phía trong, tường gạch cao
ngất.
Nhà chị, nhà
tranh nằm ngay phía ngoài, đầu con ngõ. Hai cánh cổng dán hai bức tranh thiên
bồng vẽ hai ông tướng mặt đỏ, râu dài, cầm gươm canh cửa. Tôi chưa gọi chị đã mở
cổng đón tôi. Anh tôi dứng đằng sau, chị bảo: “Thôi chú về đi, lát nữa tôi
đem trả em…”Anh tôi cười rồi về. Tôi xà vào lòng chị. Chị mặc áo mới, yếm
mới. Tóc chị thơm thật là thơm. Chị hôn lên má tôi. Rồi chị vạch túi áo cánh
trắng ra, đưa cho tôi một đồng xu đồng mới tinh, đỏ au. Tôi sướng lắm, cầm vào
lòng bàn tay thật chắc. Chị lại hôn tôi nữa rồi mới dắt tôi vào nhà, lên nhà
trên mừng tuổi bác Đồ Gái. Bác Đồ Gái ngồi sẵn trên phản ở gian giữa, bác cười:
“Lớn rồi đấy, sắp đi học rồi đấy cháu nhỉ…Cháu tôi lên mấy rồi nào…” Bác
mừng tuổi cho tôi một đồng chinh màu vàng mỏng mảnh. Cám ơn Bác Đồ xong, tôi lại
chạy ra với chị. Chị nhìn tôi, ôi đôi mắt chị sao mà âu yếm thế. Tôi xà vào lòng
chị và quên mất đồng xu, đồng chinh tôi đã buông ra, rơi ở đâu rồi. Chị vuốt tóc
tôi. Chị nói: “Em được nhiều tiền mừng tuổi quá nhỉ.” Lúc đó tôi mới
hoảng hốt nhớ đến các đồng tiền mừng tuổi, không biết đã để đâu. Tôi khóc thì
chị cười. Chị xoè bàn tay ra, đồng xu và đồng chinh mừng tuổi nằm giữa lòng bàn
tay chị. Chị lấy giải yếm lau nước mắt cho tôi, rồi lấy dải rút quần của tôi xâu
các đồng tiền, buộc lại. Buông tà áo dài của tôi xuống, chị kéo tôi vào lòng.
Hơi ấm hoà trong mùi tóc của chị thơm nồng bay tỏa bao phủ quanh tôi, chị nhẹ
nhàng ghì cằm chị vào đầu tôi và chị đọc những câu thơ mà sau này tôi mới biết
là của Nguyễn Bính :
… Bữa ấy
mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan
đã nát dưới chân giầy
Hội chèo
làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo mùa
xuân đã cạn ngày…
Lời thơ dịu
dàng, lãng đãng ru tôi vào giấc ngủ. Khi tôi tỉnh dậy, bác Đồ Gái nói đùa:
“Con trai lớn rồi đấy. Sắp lên bảy rồi. Tuổi cắp sách đến trường rồi.” Vâng,
“Năm nay tôi lên bảy. Tôi đã lớn. Tôi không chơi đùa lêu lổng như những năm còn
bé…” Đó cũng là đoạn văn đầu tiên, sau khi tôi học hết vần bằng, vần trắc
trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Đồng Ấu.
Buổi học đầu
tiên của tôi chị Đan cũng đưa tôi đi. Tôi học ở nhà chú Phương, con cụ lang. Chú
Phương mặc quần áo trắng hồ lơ, tóc chải ngược về phía sau, cài lại bằng một
vòng dây thép uốn. Chú đi guốc, gót chân đỏ chót. Ngồi cạnh tôi là Cái Gái. Cái
Gái đã lớn lắm, cao bằng chị Đan, là con Cô Thầy. Cái Gái bị tật từ nhỏ, chân đi
khòng khoèo, tay cầm bút thật vụng, viết mãi chẳng được một chữ, nước rãi còn
chảy ra nhoè cả mặt chữ. Cái Gái phải gọi tôi bằng anh, vì họ hàng sao đó,
“bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi.” Cái Gái gọi tôi bằng anh ngọt sớt. Học
được mấy hôm tôi đã viết đủ các mặt chữ cái kể cả“chữ in” cũng như“chữ
viết”…Và chỉ độ một tháng tôi đã học hết vần bằng, vần trắc, tôi đã đọc được
các bài ngắn mà bài đầu tiên là bài “Hôm nay tôi đi học…” Dưới bài bao
giờ cũng có câu cách ngôn như: Ăn vóc học hay.
Cái Gái lúc
ấy vẫn lết bết với mấy chữ n, m mà mực tím nhoè nhoẹt vì nước rãi. Hàng
ngày tôi phải viết hộ Cái Gái cho hết trang. Bù lại Cái Gái bao giờ cũng trả
công cho tôi rất hậu. Khi thì một quả chuối tây, khi thì một cái kẹo bột. Và
chẳng bao lâu tôi đã viết ám tả được. Tôi thích lắm, tôi viết các câu thơ của
Nguyễn Bính vào một cuốn sổ nhỏ. Các câu thơ này trước đó tôi đã thuộc lòng qua
các câu hát của chị Đan và của anh tôi nữa.
Cô Thầy là mẹ
của Cái Gái. Cô Thầy làm nghề Thầy Bói, hai mắt mù cả. Nhà cô ở tận Ngõ Đồng
Mát, cuối con đường gạch, lối đi ra đồng. Cô rất đông khách, nhất là các ngày
hai, ngày bảy là ngày phiên chợ Nủa, khách phải ngồi đợi ở sân. Nhà cô tuy là
nhà tranh nhưng cũng đẹp, có nhà trên, nhà ngang và nhà bếp như hình chữ U mà
các cụ bảo là hình chữ Môn. Gian giữa để bàn thờ Ông Vải. Gian bên có hình con
cá hoá long mầu tím vẽ thẳng vào tường. Những vảy cá xanh tím ẩn hiện trong lớp
thủy ba. Gần nóc nhà là bàn thờ Thổ Công, cái mũ giấy óng ánh trang kim. Bên
cạnh là bàn thờ Ngũ Hổ, có hình vẽ năm con hổ năm mầu thật dữ ngồi quanh cái hộp
vuông như hòm ấn vua ban. Sát bàn thờ chính là cỗ ghế ngựa, nơi cô làm lễ và
tiếp khách. Tuy ở nhà nhưng Cô Thầy ăn mặc rất chỉnh tề, áo cánh bên trong, áo
dài bên ngoài, cô còn thắt lưng dài to bản mầu tím.
Bắt đầu buổi
xem bói bao giờ cô cũng ôm theo cái tráp đen. Mở tráp ra, cô bày những đồng tiền
xám xịt mà người ta bảo đó là những đồng tiền lấy từ trong mả người chết, gọi là
tiền cải mả, nên rất linh thiêng. Cô sờ lên mặt những đồng tiền, xếp úp các đồng
tiền lại. Rồi cô cười, nói với thân chủ :
- Nào cho tôi
biết ngày sinh tháng đẻ nào…
Người khách
trịnh trọng xưng tên tuổi. Cô lấy ngón tay cái bấm lên những đốt tay, giương đôi
mắt chỉ có lòng trắng như nhìn vào một cõi xa săm huyền bí nào. Nếu là người
trẻ, thường cô cười và nói: “Cô đây xem về tình duyên phải không…” Người
khách thưa “vâng.”
Cô đốt một nén hương, đặt ngang miệng đĩa đựng các đồng tiền cải mả và tiền
đặt quẻ, lâm râm khấn “...thất thập nhị hiền thu nhập tiền nhang…” Cô hạ
đĩa tiền xuống, lấy những ngón tay sần sùi bốc những đồng tiền trên đĩa, giơ cao
rồi buông xuống đĩa. Cô nói: “Sơ vi đơn.” Mỗi lần như thế gọi là một lần
gieo quẻ. Tuỳ theo các đồng tiền xấp, ngửa, ba lần gieo là một quẻ. Căn cứ vào
đó cô đoán quẻ cho thân chủ. Với các cô còn trẻ, mới lấy chồng, tôi thường nghe
cô nói: “Số cô trắc trở. Tưởng là chuột sa chĩnh gạo hoá ra chuột sa chĩnh
nước đây, phải không cô..” Thân chủ chỉ biết “vâng.” Cô Thầy lại nói:
“Thật là vui từ trong cửa vui ra, buồn từ ngã bảy ngã ba buồn về đấy, cô ạ.”
Nếu
là người già cả xem gia đạo, Cô cũng gieo quẻ như trên, nhưng thường là “động
mả ông tam đại đây bà ạ. Mà như là có cái rễ cây nó đâm vào ngôi mộ của cụ nhà
đây…” Thân chủ chỉ còn biết “Lạy thánh mớ bái, xin Thầy chỉ bảo cho.” Lúc
ấy thường thì Cô bảo thí chủ ra ngoài bờ dậu, ngoảnh mặt về phía đông, ngắt một
cành lá đem vào cho Cô xem lại. Cô đếm những chiếc lá để định quẻ và thí chủ
phải đặt quẻ lần nữa. Vì động mả rất quan trọng nên Cô thường nói: “Phải lễ
Phật trước, lễ quỷ thần sau.” Người xem bói chỉ còn biết nghe theo lời Cô
dạy, sửa một cái lễ khá cầu kỳ, “Phải lấy đủ đất đình, đất chùa, đất chợ, đất
ngã ba và đất giếng; nước vang hoà với nước vôi; chín cái kim làm xương. Tất cả
trộn vào nhau, nặn thành hình con rùa, đem táng ở đầu ngôi mộ ông tam đại. Nước
vang hoà với nước vôi rảy quanh mả một nửa, còn một nửa hắt qua mái nhà gian
giữa...” Ngoài ra còn phải sửa một cái lễ “mâm trên sôi chuối, vàng tốt
một trăm, mũ vàng một chiếc; mâm thứ hai cơm canh…” Sợ gia chủ không nhớ
được, Cô thường bảo “phải viết ra, và có thằng cháu tôi đây, nó học giỏi lắm,
viết cho bà…” Thường Cô bảo lấy cái bao hương xé ra, lộn mặt trong, viết các
lời chỉ dẫn, và bao giờ tôi cũng được 5 xu. Đó là những đồng tiền đầu tiên tôi
kiếm được trong đời. 5 xu của những năm đầu 40 mua được mấy cái bánh tẻ. Khi
khách đã về, Cô thường nói: “Biết khi nào Cái Gái mới viết được thông thạo
như cháu.”
Từ khi tôi đi
học, chị Đan không còn ở nhà tôi nữa. Bác Đồ gái ra bảo với mẹ tôi: “Thím cho
cháu nó về. Em bé đã lớn, mà cháu nó cũng gần 20 rồi đấy, cũng phải có thời giờ
cho người ta trông vào...” Chị Đan về nhà chị. Chị giúp Bác Đồ Gái dệt cửi.
Những hôm tan học sớm, tôi ra nhà chị. Thấy tôi bao giờ chị cũng mỉm cười, ngừng
tay thoi và thế nào cũng có cái gì cho tôi ăn. Khi thì một quả hồng ngâm, khi
thì bát cơm nguội ăn tép kho. Ăn xong, tôi đọc cho chị nghe các bài học thuộc
lòng mới nhất, như:
Xuân đi
học coi người hớn hở
Gặp cậu
Thu đi ở giữa đàng
Hỏi rằng
sao đã vội vàng
Trống chưa
nghe đánh đến tràng làm chi
Thôi hãy
gượm đùng đi anh ạ
Này con
khăng tôi đã sẵn rồi...
Tôi lớn dần
lên với các bài học ấy và cũng dần xa chị. Chị chỉ ra nhà tôi “làm giúp”
khi nhà tôi có giỗ ông, giỗ bà mà thôi. Năm ấy, năm Ất Dậu 1945, đêm mùng 9
tháng 3, có tiếng súng lốp bốp từ trên tỉnh vọng về. Sáng ra người ta kháo nhau
Nhật nó đảo chính Tây rồi. Ở Ngã Ba, gia đình ông Tây Ký Rượu đã đóng cửa trốn
đi đâu mất tăm. Rồi máy bay hai mình của Đồng Minh bay trên bầu trời cao vút,
thật nhanh. Nhanh gấp mấy lần những chiếc máy bay của Tây bốn cánh vuông vức kêu
ò oè, bay chậm rì mãi chưa qua khỏi vùng trời làng tôi. Lúc ấy tôi vẫn hay ra
nhà chị Đan, nhưng có khi không gặp chị. Hỏi Bác Đồ Gái, bác bảo: “Ấy, độ này
cô ấy cứ ăn rồi lại đi. Bạn bè thậm thà thâm thụt, bác cũng chả biết...”
Một hôm trước
phiên chợ Nủa, chị ra nhà tôi chơi, lúc về chị nói nhỏ cho tôi nghe: “Mai em
ra Ngã Ba, có cái này hay lắm...” Tôi hỏi gặng chị thì chị bảo: “Cứ ra
Ngã Ba thì sẽ biết.” Mai. Hôm chợ Nủa, lúc phiên chợ bắt đầu đông, từ
phía Cổng Chợ Bò, một đoàn người đi đến. Dẫn đầu là người vác một lá cờ đỏ sao
vàng thật lớn. Theo sau là đoàn người, toàn là trai trẻ, và có cả đàn bà nữa, họ
ăn mặc thật gọn ghẽ. Người thì vác con dao phạt bờ, người thì vác cái dáo, cái
mác. Mặt ai cũng hằm hằm rất dữ. Vừa đi họ vừa giơ nắm đấm lên cao, hô vang
những câu:
- Đả đảo phát
xít Nhật
- Đả đảo bè
lũ tay sai phong kiến…
Đi cuối cùng
có một anh tay cầm khẩu súng lục, mắt sáng quắc. Hình như anh ta nhìn thẳng vào
mắt tôi và tôi sợ. Đoàn người qua mặt tôi thật nhanh, đông không biết bao nhiêu.
Họ đi qua chợ. Chợ đang đông, muốn vỡ nhưng họ không rẽ vào chợ. Họ đi tuốt ra
Cổng Giếng, tụ lại ở Gò Gai, hô vang các khẩu hiệu tại đó, rồi tản đi rất nhanh,
biến đi đâu tài quá. Chợ lại họp như thường. Các vị chức sắc trong làng lo lắng.
Có người bảo:“Phải đi cáo quan huyện. Chứ để thế này có ngày oan gia.” Từ
đó trong làng người ta bàn tán, người này “ở trong bóng tối”, người kia
được “móc nối”, toàn những tiếng mới mẻ.
Rồi những
người đi buôn từ ngoài tỉnh về bảo:“Ở ngoài tỉnh Mặt Trận đã cướp chính quyền
rồi.” Cả làng rộn rã. Một buổi tối, thay vì mõ rao, là một người cầm loa,
đến những đầu ngõ lúc nửa đêm, bắc loa gọi: “A lô, a lô. Ngày mai, từ sáng
sớm, tất cả nam, phụ, lão, ấu tập họp tại sân đình để đi biểu tình…” Đó là
một đêm thật lạ. Cả làng như cùng thức dậy với tiếng loa. Mới sáng sớm, mọi
người ra đình đã thấy một lá cờ đỏ sao vàng, buộc vào cáo sào dài, dựng ở giữa
sân cỏ. Cả làng tụ lại. Mấy anh thanh niên, nghe đâu từ trên huyện về, có súng
lục giắt cạp quần. Các thanh niên này mời mọi người xếp hàng tề chỉnh, sẵn sàng
gậy gộc, dáo mác để lên huyện cướp chính quyền. Trong đám thanh niên đứng ra hô
hào ấy, tôi thấy cả chị Đan. Chị Đan của tôi. Người đã bế ẵm tôi, đã hát ru tôi
những ngày tấm bé. Chị buộc tóc sau gáy. Quần túm lại. Nhưng oai nhất và khiếp
nhất là chị cuốn quanh bụng một cái bao lớn, và giắt ở đó một khẩu súng lục, lòi
chuôi súng ra ngoài. Chị leo lên cái bàn, giơ nắm đấm lên cao và hô “bài
phong, phản đế.” Tôi nhìn theo chị, vừa thấy xa lạ, vừa có phần hãnh diện
với những đứa nhỏ xung quanh: Chị Đan của tao đấy. Khi đoàn người xuất hành, chị
thấy tôi, mắt chị như dịu lại một khắc và như mỉm cười, rồi chị khuất đi rất
nhanh theo đoàn người đi cướp chính quyền.
Từ đó nhà Bác
Đồ Gái chỉ có mình bác. Có người bảo: “Cái Đan nó làm to thế mai kia tha hồ
mà nhờ.” Bác Đồ Gái chỉ cười và đáp: “Ôi chao, nhờ đâu chả thấy, chỉ thấy
mất tăm mất hút. Lâu lâu vác xác về, cả bè cả lũ, ăn hại chứ báu gì...” Từ
đó cuộc sống mới cuốn chị Đan của tôi và những thanh niên cùng lứa tuổi đi khỏi
luỹ tre làng. Chị từ giã cây khế, quên các bài ca dao tình tứ thuở nào. Chị đi
theo “đời sống mới để giành cơm áo.”Cũng từ đó tôi lớn dần. Cuộc chiến
bùng lên với bao oan nghiệt, khủng khiếp. Cuộc chiến đã hút tôi ra khỏi xóm
làng, đưa tôi vào Nam,
đem tôi tới những vùng biển rộng. Những đêm trăng sáng, biển lặng, trên con tàu
chiến lênh đênh, nhìn về núi non, đất nước, lòng tôi chất chứa những bồi hồi.
Tôi nhớ những người thân, nhớ con đường cũ, gốc đa xưa, tôi nhớ chị Đan, nhớ Cái
Gái, nhớ những người bạn một thời thơ ấu cũ, nhớ cây khế của thuở nào xa… Rồi
cuộc chiến đột ngột tàn và tôi ra khỏi đất nước với bao cay đắng, ngậm ngùi.
Những năm sau 75, tôi sót xa tự hỏi: Càng lúc ta càng xa đất nước, làng xưa. Có
bao giờ trở lại. Chắc là vô vọng…
Vậy mà tháng
Tư năm 1994, tôi trở về quê cũ, làng xưa. Sau bao nhiêu ngậm ngùi tái ngộ, tôi
hỏi đến Cái Gái, mới hay “Ồ Cái Gái, con Cô Thầy đó hả, chết lâu rồi.”
Tôi hỏi về chị Đan thì “bà ấy đã mất. Chúng em có chuyển quà của bác cho con
gái bà ấy.” Mỗi người nói một câu về chị Đan. Cuộc đời chị được chắp nối lại
như một huyền thoại đã xa, đầy bùi ngùi, chua xót: “Ấy, lúc đầu là thế, mọi
người cuồn cuộn ra đi. Cô Đan tham gia cách mạng từ trong bóng tối, rồi thoát
ly, bỏ làng đi và đi mãi. Chỉ những lúc đau ốm mới tìm về. Bà Đồ đã già, bao năm
còm cõi một mình một bóng, lại phải cặm cụi săn sóc cô ấy. Ăn trả bữa được ít
ngày rồi cô ấy lại ra đi. Nói ra dài lắm. Tình duyên thì trắc trở. Cũng buồn.
Xưa cô ấy vui là thế, ở tuổi già thì lặng lẽ, ốm đau. Đôi lúc nhớ đến những ngày
còn trẻ, bà ấy vẫn thường nhớ đến và hỏi thăm bác. Vâng, những lúc như thế bà ấy
thường lặng im, rớm lệ. . . Đất nước hoà bình được mấy năm thì bà ấy được nghỉ
hưu. Cũng chả ai biết rõ trước đó bà ấy làm gì, ở đâu. Nghèo khó còn hơn ngày
xưa. Sống lặng lẽ được mấy năm thì bà ấy mất, tính ra cũng trên mười năm rồi.
Tiếc rằng khi bác gửi quà biếu bà ấy thì bà đã không còn nữa để mừng vui, để
nhận…”
Trong nỗi bùi
ngùi của ngày đoàn tụ, của xúc động nhớ thương, tôi luôn phải tự nhủ: “Hãy
bình tĩnh, bình tĩnh…” Bình tĩnh, nhờ đó tôi đã vượt được nhiều xúc đông như
muốn vỡ oà. Nhưng đêm chót ở quê, trước khi cả nhà đi ngủ, các ngọn đèn đã được
tắt, bầu trời bỗng hiện ra tối đen. Những con đom đóm từ đâu hiện về, lập loè
bên những ngọn tre. Tôi như vừa được vứt từ bầu trời xuống, như vừa sống lại,
thấy lại những đêm như thế này từ trên năm mươi măm cũ, những năm tôi còn bé.
Bầu trời chi chít những vì sao. Những vì sao lấp lánh, như chào hỏi,như mời, như
gọi, như chớp mắt ngậm ngùi. Tôi bàng hoàng vô hạn. Một làn gió lạnh tạt qua,
lòng tôi se sắt. Tôi nhìn lên bầu trời. Hình ông Thần Nông hiện ra đang “cúi
đầu cấy lúa.” Dải mũ dài là hai hàng ngôi sao bao đời vẫn y như thế. Tôi nhớ
chị Đan quá. Tôi cứ nhìn mãi bầu trời. Thấp thoáng một ngôi sao ánh lên, sa
xuống rồi tắt. Một ngôi sao đổi ngôi. Có phải một người nào vừa mới mất. Lúc chị
Đan mất, có ngôi sao nào rơi lạc như thế không..?
Sáng hôm sau
theo chương trình đã định, chúng tôi phải sẵn sàng chờ xe từ Hà Nội về đón. Niềm
vui đoàn tụ chưa qua, nỗi buồn chia xa đã đến. Trên xe chật ních người. Khi xe
bắt đầu chạy, tôi bỗng thấy trong xe có thoảng mùi thơm của tóc ai mới gội. Mùi
bồ kết tan trong mùi chanh phảng phất đâu đây. Tôi nhớ chị Đan quá. Xe chạy qua
cánh đồng làng, ven đường có dải đất chi chít những nấm mộ. Những cọng cỏ xanh
trên chóp mộ ngả nghiêng đùa theo làn gió thổi, tiệp với mầu lúa xanh bát ngát
đang thì con gái. Trong các nấm mộ ấy, nấm mộ nào là mộ chị Đan, nơi chị đã lặng
lẽ gửi nắm xương tàn. Tôi lặng đi, buồn. Nỗi buồn chỉ một mình tôi biết. Ngoài
trời nắng vẫn nhạt nhòa mênh mang. Tôi nói nhỏ, nói thầm, lời nói bay tan theo
làn gió thổi: “Chị Đan, em xin lỗi chị. Bao nhiêu năm chị em mình xa nhau,
nhớ nhau. Vậy mà từ ngàn trùng xa cách về thăm quê, em đã không đến thăm mộ chị
được...”
Nước
mắt tôi ứ lên đầy mắt.
Trong không
gian bỗng như vang động tiếng hát của chị Đan. Chị đang hát trong làn gió mát
dưới gốc cây khế của bao năm nào đã xa, quá xa.
Chị cười mà
hai hàng lệ chảy:
Trèo lên
cây khế nửa ngày
Ai làm
chua xót lòng mày, khế ơi !
Chị Đan ơi !
1999
Phan Lạc Tiếp
Nguồn: dactrung.net