Huỳnh Kim Quang
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có
chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay
đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in
đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
Thật ra lúc còn nhỏ, tôi chẳng hiểu được ý nghĩa về sự
có mặt của chùa và đình trong làng, cũng như những sinh hoạt lễ lạt thường kỳ
tại các ngôi chùa và đình đó có tác động thế nào đến đời sống văn hóa và tâm
linh của người dân. Nhưng càng lớn lên tôi càng nhìn ra được
vai trò quan trọng của chùa và đình trong làng. Ở đây tôi chỉ xin nói
riêng về vai trò của chùa làng, vì nó gắn liền với cuộc đời tôi kể từ thời tấm
bé.
Nói đến vai trò của chùa làng, tôi
xin kể cho các bạn nghe một sự kiện xảy ra trong làng tôi lúc tôi còn rất nhỏ.
Chuyện là thế này, tại làng tôi, có một họ tộc theo đạo
Thiên Chúa. Lúc đó tôi không biết và cũng không phân biệt được họ
theo Tin Lành hay Công Giáo. Họ không đông đảo lắm chỉ có mấy gia đình.
Họ thường tụ tập tại các tư gia này để đọc kinh, làm lễ. Họ là những gia
đình có nhiều người ăn học khá hơn người dân khác trong
làng. Vì vậy, họ mở lớp học, dạy trẻ em trong làng tại nhà
riêng.
Tôi là một trong những đứa bé tham dự vào các lớp học mẫu giáo a,b,c,…
tại những ngôi nhà của họ tộc theo đạo Thiên Chúa này. Ấn tượng mà tôi còn nhớ mãi là cái cảm giác ngồ ngộ kích thích sự tò
mò muốn xem và nghe lúc các gia đình này tụ họp để đọc kinh.
Nhưng lúc đã nhìn thấy họ đọc kinh và nghe âm điệu là lạ, nhìn cây đèn bạch lạp
màu trắng xanh xao, thì mình lại có cảm giác ngờ ngợ, xa lạ sao đó…
Cho nên, đa phần bọn trẻ chúng tôi chỉ đến xem một lát thì bỏ về.
Dân trong làng, những người lớn tuổi khác thì không thấy có mặt ở đó dù chỉ để
xem. Lúc đó, tôi có cảm nhận mấy gia đình theo
đạo ấy là một ốc đảo lẻ loi trong cái làng của mình.
Mấy năm sau, tôi rời làng, lên tỉnh
để học. Bẵng đi một thời gian vài năm, khi tôi về lại
thì hoàn cảnh đã thay đổi. Hầu như đa phần trong số các gia đình họ đạo
ấy đều bỏ đạo đi theo
chùa. Những người con cháu trong các gia đình họ đạo đó đã không còn tiếp tục
giữ đạo nữa. Có lần về chùa làng trong dịp lễ tôi thấy họ đi chùa lễ Phật và
sinh hoạt chung với bà con trong làng. Cái ốc đảo họ
đạo kia
hầu như đã bị chuyển hóa toàn bộ.
Ở chùa làng, thường những vị thầy
trú trì làm rất nhiều việc cho dân làng. Ngoài việc trông nom chăm sóc
ngôi chùa, mà chùa nào cũng có ruộng đất canh tác riêng để tự túc, việc lễ lộc
hàng tháng, hàng năm tại chùa, vị trú trì còn kiêm luôn việc coi ngày giờ tốt,
xấu để cưới hỏi, ma chay, xây cất và sửa chữa nhà cửa, thậm chí sửa chuồng bò,
chuồng heo cũng nhờ thầy xem ngày tốt. Những khi dân làng có chuyện tang chế thì
vị thầy ở chùa làng là người tận tình cố vấn, hướng dẫn, và thực hiện các lễ
nghi cho tang quyến. Chùa làng còn là nơi để dân làng đến uống
trà, trò chuyện, tâm sự đủ mọi thứ trên đời. Tôi nhớ trong thời kỳ chiến
tranh, chùa làng cũng là nơi để dân ở những làng khác chạy giặc đến tạm cư một
thời gian, khi bình an thì quay về lại làng cũ.
Vì vậy, có thể nói chùa làng là cái ngôi từ đường của bá tánh trong làng.
Nó gần gũi, hữu ích, thân thiện, và không thể thiếu
trong sinh hoạt hàng ngày của người dân. Tôi vẫn không quên hình ảnh rất cảm
động của người dân làng mang, xách, đội từng trái bầu, trái bí, củ khoai, cái
bắp chuối, rổ rau sống, giỏ bánh mứt đến chùa làng trong những dịp lễ cúng. Họ xem đó như là chuyện bình thường của người trong nhà, trong họ
nên làm lúc nhà từ đường cúng giỗ. Với tình cảm thiêng
liêng, sâu sắc và truyền thống lâu đời như vậy, dân làng xem chùa làng, xem đức
Phật, xem ông thầy như người nhà với tất cả sự kính trọng và thân yêu.
Trong ngôi làng như thế thì đâu còn
chỗ nào cho một tôn giáo mới nảy sinh và phát triển.
Có người nói, chùa chiền gì mà lung tung quá, mê tín dị đoan quá, không hợp với Phật Pháp! Chùa
chiền gì mà đi xem bói, đi coi ngày tốt xấu để cưới hỏi, để xây chuồng bò,
chuồng heo!
Những phàn nàn và thậm chí chỉ trích
trên, không phù hợp với thực tế.
Tại sao?
Bởi vì tập tục bị phàn nàn đó là của
người dân chứ không phải của chùa. Chùa làng nếu muốn phục vụ cho dân thì
trước hết phải đáp ứng theo một số nhu cầu của họ, mà ở đây là những tập tục đã có
từ lâu đời. Chùa cũng không thể quay lưng hay chống đối cực đoan với các tập tục
đó mà phải lần hồi thay đổi bằng những phương thức hợp tình hợp lý, nếu không
chùa sẽ trở thành một thứ ốc đảo bị cô lập trong cộng đồng làng xã địa phương.
Nhắc tới điều này, tôi nhớ, trước Cộng Đồng Vatican 2 vào đầu thập niên 1960,
Công Giáo cũng vì cấm con chiên thắp nhang, thờ cúng ông bà tổ tiên nên khi
truyền vào Á Châu thì bị thất bại, không thể phát triển, vì bị người dân chống
đối, tẩy chay. Do đó, Cộng Đồng Vatican 2 mới
để cho con chiên được tiếp tục giữ tập tục truyền thống của họ. Trước Cộng Đồng
Vatican 2, Giáo Hội Công Giáo cũng chỉ trích việc thờ cúng ông bà là mê tín dị
đoan, là hủ tục cần phải thay đổi để sống theo nếp sống văn minh.
Dĩ nhiên, chùa là nơi để thực hiện mục đích chuyển mê
khai ngộ cho con người, tức là có nhiệm vụ giáo dục, điều hướng, và giúp con
người khai mở tâm và trí, để xây dựng niềm tin trong chánh kiến, phát triển trí
tuệ và mở rộng lòng từ bi. Nhưng việc chuyển mê khai ngộ thì còn tùy theo căn cơ của con người và hoàn cảnh của xã hội mà ứng dụng
phương thức, cũng như có mau chậm khác nhau. Muốn chuyển hóa dân làng từ mê tín
sang chánh tín cần phải chuẩn bị một số việc cần thiết như sau.
Thứ nhất, nâng cao dân trí bằng con đường mở mang
trường học, khuyến khích và hỗ trợ cho dân làng và con em của họ có điều kiện
học hành tới nơi tới chốn để tránh tình trạng thất học, hay học ít nên thiếu
nhận thức chính xác. Trong trường hợp này, chùa làng có vai trò rất lớn và rất hữu dụng
trong việc giúp giáo dục con em của dân làng bằng cách biến chùa thành trường
học, thành nơi dạy kèm cho các em. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng ngày xưa khi đất nước chưa thành lập hệ
thống giáo dục chính thức thì chùa là trường học, là trung tâm văn hóa đào tạo
nhân tài cho xã tắc.
Thứ hai, giúp dân làng ngày càng
hiểu biết thêm về Phật Pháp. Đây chính là sứ mạng trọng đại mà chùa là cơ sở nền tảng để thực
hành.
Chùa cần thường xuyên giảng giải Phật Pháp trong các lễ lạt hàng tuần, hàng
tháng, hàng năm, hay trong các khóa tu học đặc biệt. Chùa là
thư
viện, là trung âm ấn hành, biếu tặng và khuyến khích quần chúng đọc kinh sách
Phật học.
Thứ ba, các vị trú trì cần được đào tạo có trường lớp
căn bản về khả năng chuyên môn làm trú trì. Các vị trú trì không thể thiếu một
số yếu tố cần thiết như trình độ Phật học căn bản, biết các khoa nghi lễ tổng
quát, biết cách tiếp xử với quần chúng Phật tử nông thôn, có tấm lòng từ bi hỷ
xả đủ để có thể bao dung, tận tụy phục vụ cho dân làng mà không đòi hỏi điều gì
vượt ngoài hoàn cảnh tại địa phương cho phép.
Tuy nhiên, đó chỉ là lý thuyết.
Thực tế, thì không đơn giản như vậy. Dân làng thường là
thành phần nông dân có học thức thấp, sống giản dị, chất phác, thuần hậu và giữ
gìn tập tục một cách bền vững. Cho nên, người dân làng
ít hiểu biết thấu đáo tinh hoa triết lý và giáo pháp đức Phật để đem ứng dụng
vào cuộc sống hàng ngày. Niềm tin của dân làng, vì vậy, cũng rất mộc mạc
và pha lẫn tính huyền thoại đôi khi không phù hợp với chánh tín, rất khó để thay
đổi lối sống theo tập tục lâu đời. Hơn nữa, các vị tăng, ni trú trì các ngôi
chùa làng thường là gốc gác từ gia đình nông thôn mà ra, không phải là những vị
tăng, ni có trình độ văn hóa và Phật học cao - những vị có trình độ văn hóa và
Phật học cao thì thấy không thích hợp với vai trò trú trì ngôi chùa làng - nên
cũng khó lòng mà thực hiện các phương thức chuyển hóa dân làng hiệu quả. Từ thực tế đó cho thấy rằng chúng ta, trước hết, là phải chấp nhận
hiện thực khiếm khuyết ở một số mặt mà không thể đòi hỏi sự hoàn hảo quá lớn.
Rồi thì, song song với việc duy trì sự có mặt của chùa làng là đề ra và thực
hiện các phương thức chuyển hóa và hoàn thiện lần hồi tùy theo
hoàn cảnh ở mội địa phương.
Nhân đây tôi cũng xin đề cập đến một
sự kiện rất đáng quan ngại về tình hình chùa chiền tại nông thôn Việt
Nam
ngày nay. Với đà phát triển của xã hội theo chiều hướng kinh tế thị
trường những năm gần đây, bộ mặt nông thôn Việt Nam đang ngày càng biến dạng
trong chiều hướng tiêu cực: đất đai trồng trọt mùa màng ngày càng bị mất vì
nhường chỗ cho các hãng xưởng mọc lên; vành đai các đô thị lớn mở rộng đến các
miền nông thôn; nhiều dân quê không còn thấy việc làm ruộng là phương kế sinh
nhai thích hợp nên tìm cách vào các thành phố để kiếm công ăn việc làm; tuổi trẻ
nông thôn sau khi học xong thì đa phần đều chọn sống ở thành thị nên, không quay
về miền quê nữa; đình, chùa ở nhiều làng vì vậy cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng
thậm chí có nơi còn không có tăng, ni nào trú trì để hướng dẫn Phật tử tu học
và duy trì cơ sở vật chất. Các tổ chức Giáo Hội dường như vẫn
chưa quan tâm đúng mức hầu đề ra kế hoạch cụ thể và khả thi để duy trì và phát
triển hệ thống chùa làng. Thêm vào đó, đa phần tăng, ni đều không muốn về
làm trú trì ở các ngôi chùa làng, vì nhiều lý do, mà trong đó có lý do chùa làng
không phải là đất phát triển, không thích hợp với bằng cấp cao mà họ đã thành
đạt, v.v…
Tình hình này nếu còn tiếp tục kéo dài thì thành trì
kiên cố lâu đời nhất để bảo vệ Phật Giáo, bảo vệ văn hóa truyền thống dân gian
Việt Nam sẽ bị sụp đổ!
Khi làn sóng văn minh phương Tây mà đi theo là các
trào lưu văn hóa mới, các thị trường kinh tế tư bản tự do thổi vào Việt Nam
trong các thập niên đầu thế kỷ hai mươi và đặc biệt là trào lưu toàn cầu hóa
trong vài thập niên qua, mô thức sinh hoạt của xã hội Việt Nam đã lần lần thay
đổi: sức mạnh của đô thị hóa, công nghiệp hóa, tin học hóa ngày càng phát triển
lôi kéo theo đó là sự gia tăng dân số tại thành thị đến mức chóng mặt mà hệ quả
không tránh khỏi là xã hội nông thôn đứng trước tình trạng thụt lùi cả về mặt
dân số lẫn sức duy trì và phát triển đủ để đáp ứng những biến động dồn dập đưa
tới.
Chùa chiền, do đó, cũng bị cuốn hút
theo cơn lốc thời đại. Về mặt khách quan, đó là nhu cầu không thể cưỡng
và còn rất cần thiết đối với các tôn giáo nói chung và
Phật Giáo nói riêng, cũng như các cộng đồng xã hội khác. Ngược lại, về mặt chủ
quan, đó là thách thức đầy nguy cơ cho Phật Giáo nếu không biết cách thích nghi
để vừa bảo vệ truyền thống, vừa phát triển đạo giáo, và vừa tránh được những bế
tắc khó thoát. Trong bối cảnh đó, chùa chiền ngày càng được kiến tạo nhiều hơn tại
các thành phố, nhưng lại bị lãng quên ở miền quê, miền núi xa xôi. Số
lượng tăng, ni cũng càng lúc càng gia tăng ở thành thị. Đó là tin vui vì
theo lý thuyết một ngôi chùa có mặt sẽ giảm đi một nhà tù, một người xuất
gia đầu Phật sẽ bớt đi một người xấu tạo bất ổn cho xã hội.
Đến đây, một vấn đề khác cần được đặt ra là, với tình
trạng phát triển của Phật Giáo qua hình thức chùa chiền và tăng, ni có mặt đông
đảo có thực sự giúp ích cho cộng đồng xã hội bớt những tệ nạn, những bất
an
hay không? Chưa có một nghiên cứu hay thống kê nào đầy đủ và khả tín về vấn đề
này được thực hiện và đưa ra cho đến nay để có thể giúp người ta có nhận định và
chứng thực cụ thể. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo Phật Giáo và cả hàng ngũ cư sĩ
Phật tử có quan tâm đến vận mệnh của đạo pháp và dân tộc cũng cần phải nghiêm
chỉnh xem xét và thẩm định lại chuyện này.
Xem xét và thẩm định để làm gì, có
lợi ích gì?
Câu trả lời đã quá rõ, đó là có, rất
có lợi ích. Vì sao?
Bởi vì, chúng ta không thể một mặt thì cho rằng Phật Giáo đang phát triển, chùa
chiền và tăng, ni đông đảo, nhưng mặt khác, trên thực tế xã hội, lại từng ngày
từng giờ chính chúng ta chứng kiến vô số những bất an mang lại từ các tệ nạn xã
hội: rượu chè cờ bạc, hút xách, xì ke ma túy, băng đảng hoành hành, tuổi trẻ sa
đà trong những cuộc truy hoan, ăn chơi, lêu lỏng hay bị bán cho các tổ chức tội
phạm chuyên mua bán trinh tiết, tham nhũng tràn ngập khắp nơi và ngay cả trong
học đường, trong chùa chiền, gian dối, lừa gạt, trộm cắp, và chạy theo chủ nghĩa
kim tiền để chỉ biết có tiền và xoay lưng lại với tất cả nguyên tắc đạo đức
truyền thống, v.v…
Tất nhiên, về mặt hành chánh và pháp lý, đó không phải
là trách nhiệm của Phật Giáo, nhưng về mặt đạo đức và tâm linh, nếu Phật Giáo có
mặt trong hoàn cảnh xã hội với những bất ổn và tệ nạn như vậy mà không làm gì để
cải thiện, để giúp ích giảm thiểu thì cũng cần phải đặt lại vai trò và hiệu quả
của sứ mệnh truyền bá chánh pháp mà chúng ta thường xuyên nói đến. Nếu chúng ta,
những Phật tử tăng, ni và cư sĩ, cho rằng đó là chuyện của các cơ quan chức năng
nhà nước, còn mình thì chỉ chú tâm vào việc hoằng pháp, hướng dẫn tu học cho
quẩn chúng. Vậy thì, chúng ta cũng nên suy nghĩ lại về hiệu
qủa cùa sự hướng dẫn tu học đó có tác động thực tiễn và hữu ích đến mức nào đối
với từng cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội chung quanh.
Nếu trong khu phố, trong làng có ngôi chùa mà cùng lúc cũng là nơi xảy ra nhiều
tệ nạn xã hội thì những vị có trách nhiệm hoằng pháp trong ngôi chùa đó cần phải
xem xét lại hiệu quả xã hội của công tác hoẳng pháp mà mình đã thực hiện.
Tại hải ngoại, từ khi cộng đồng người Việt định cư tạo
nhiều miền của nhiều quốc gia trên thế giới từ Mỹ Châu, Âu Châu tới Úc Châu,
chùa chiền được xây dựng lên ngày càng nhiều, nhất là ở Hoa Kỳ, nơi có dân số
người Việt và tăng, ni Phật Giáo Việt Nam đông đảo nhất. Chỉ riêng tại thành phố
Santa Ana, miền nam tiểu bang
California, đã có tới ba, bốn chục ngôi chùa.
Nhiều chùa rất bề thế, khang trang, rộng rãi, và đồ sộ. Nhưng cũng có
nhiều chùa thuộc loại “cải gia vi tự” nhỏ hẹp, thiếu nhiều phương tiện, không đủ
không gian để tổ chức các khóa tu học và lễ lạt thường kỳ. Ngay tại Santa Ana,
trong một khu vực chưa quá vài dặm vuông, đã có tới mười mấy ngôi chùa, có thể
gọi là làng chùa, chứ không phài là chùa làng như ở thôn quê Việt Nam. Một cách nào đó, làng chùa ở hải ngoại là mô thức chùa làng ở nông
thôn Việt Nam, dù hoàn
cảnh thì khác xa. Nhưng, tựu trung đó là thành trì để
giữ Đạo.
Tình trạng chùa chiền như vậy có
nhiều quá tới mức lạm phát không?
Đối với tôi thì không.
Vì sao?
Về mặt hình thức, ít nhất đó là
chứng cứ rõ rệt cho thấy sự ổn định và phát triển vững mạnh của các cộng đồng
Phật Giáo Việt Nam tại hải
ngoại trong hơn ba mươi năm có mặt tại những quốc độ này. Hơn nữa, sự có
mặt của những ngôi chùa Việt Nam trên đất khách quê người, ngay tại các quốc gia
mà chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Ky Tô Giáo, như vậy cũng làm cho cư dân bản
địa phần nào biết đến Phật Giáo Việt Nam qua hình ảnh, qua nghệ thuật kiến trúc,
qua hình tượng Phật, Bồ Tát, và qua hình bóng của vị Tăng Sĩ Phật Giáo Việt Nam.
Đó cũng là cách giới thiệu gián tiếp đạo Phật Việt Nam cho thế giới Tây Phương,
chưa nói đến, trên thực tế có rất nhiều người Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Úc đã trở
thành Phật tử dưới sự hướng dẫn của chư tăng, ni Phật Giáo Việt Nam hành đạo tại
những đất nước này.
Về mặt sinh hoạt văn hóa, đạo đức và tâm linh, dù là
ngôi chùa có rất ít sinh hoạt thì cùng có thể quy tụ được một vài vị tăng, ni và
vài ba chục Phật tử đến để tu học, tụng Kinh, bái sám, cử hành các lễ lộc theo
truyền thống dân tộc và Phật Giáo Việt Nam. Đối với những ngôi chùa bề thế có
nhiều chương trình sinh hoạt phong phú như dạy tiếng Việt cho con em người Việt,
dạy võ, dạy hội họa; in ấn sách báo, kinh điển; tổ chức các buổi ra mắt hay giới
thiệu các tác phẩm văn học Phật Giáo; tổ chức các buổi lễ lớn trang nghiêm và
công cộng đúng truyền thống Phật Giáo Việt Nam như lễ Phật Đản, Vu Lan, Tết
Nguyên Đán, Rằm Tháng Giêng, v.v…; tổ chức các thời thuyết pháp, các khóa tu học
hàng tuần, hàng tháng, các ngày thọ Bát Quan Trai, huân tu Tịnh Độ, thực tập
Thiền, và các khóa tu học Phật Pháp đặc biệt, v.v…
Về mặt bảo vệ truyền thống Đạo Phật Việt Nam, tại hải
ngoại, nơi mà người Việt sinh sống là lãnh địa lâu đời của Công Giáo và Tin Lành
với cơ sở vật chất và phương tiện quảng bá sung mãn thì sự có mặt của tăng, ni
và chùa chiền là cách tiếp cận, duy trì và phát triển đạo Phật Việt Nam cho các
cộng đồng người Việt sống tha hương. Hơn nữa, con em người Việt tại hải ngoại từ
tấm bé đã được giáo dục trong môi trường văn hóa và học đường khác hẳn với thế
hệ cha mẹ, nghĩa là chúng rất dễ lãng quên hay bỏ hẳn truyền thống tôn giáo của
giống nòi. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của nhiều ngôi chùa ngay tại những khu
vực có người Việt định cư là nhu cầu cần thiết và cấp bách. Còn nữa, sự
có mặt của nhiều ngôi chùa ngay trong các khu dân cư có người Việt là điều thuận
tiện cho việc đi chùa của những người cao niên không thể tự mình lái
xe đi xa.
Có người nói sinh hoạt chùa chiền và nếp sống tăng, ni
Việt Nam ngày nay trong và ngoài nước có vẻ như không những đi xa với truyền
thống thiền môn mà còn đi ngược lại đời sống Tăng già thời Phật. Nhận định đó về
mặt bề ngoài thì đúng, nhưng chắc chắn là chưa xét tới nhiều yếu tố khác rất
quan trọng. Đó là yếu tố thời đại và xã hội.
Điều cần nói ngay ở đây là, sứ mệnh
hoằng pháp là đem giáo pháp chuyển mê khai ngộ của đức Phật để giáo hóa quần
sinh. Nhưng để thực hiện sứ mệnh ấy người tăng sĩ Phật Giáo phải dấn thân
vào cuộc đời, vào xã hội, phải đem Phật Pháp vào tận thành thị nông thôn, vào
tận từng gia đình, mà không phải chờ đợi người dân đến với mình, giống như ngày
xưa đức Phật đi du hóa từ làng này sang làng khác, từ thị tứ kia đến thị tứ nọ.
Sự có mặt của ngôi chùa trong từng làng mạc, trong từng khu phố chính là thể
hiện sứ mệnh nói trên một cách tích cực và cụ thể.
Phật Giáo lưu truyền tại thế giới này cho đến nay đã
trên hai mươi lăm thế kỷ, trải qua biết bao biến thiên của thời cuộc, biết bao
thăng trầm của lịch sử, và biết bao chuyển đổi của các nền văn minh, mà vẫn tồn
tại và không ngừng phát triển là vì nguyên do gì, nếu không phải dựa vào hai yếu
tính bất biến và tùy duyên. Bất biến đối với lý tưởng cốt lõi giải thoát và giác ngộ, nhưng tùy
duyên với thời đại và hoàn cảnh sở tại.
Ngày nay, trong thế giới toàn cầu hóa, sinh hoạt thiền môn trên non cao, trong
rừng sâu núi thẳm cô tịch đã không còn là phương thức kiến hiệu để mang thông
điệp giải khổ của đức Phật đến cho bá tánh vạn dân. Giờ đây, trong xã hội bùng
phát nhanh như hỏa tiễn của nếp sống văn minh khoa học kỹ thuật, dù là tăng sĩ
hay cư sĩ cũng không thể đẩy mình ra ngoài lề cuộc đời bằng lối sống chậm tiến,
lạc hậu, và cổ hũ mà mong làm tròn trọng trách hoằng dương Phật Pháp. Trong bối
cảnh thời đại và xã hội như thế, chùa chiền không thể là những am tranh xiêu
vẹo, bởi vì nơi đó sẽ không thể thực hiện được các Phật sự mang tầm vóc cộng
đồng rộng rãi, và có sức thu hút nhiều người thuộc các thành phần và giai tầng
xã hội, đặc biệt là giới trẻ.
Thế hệ tăng, ni Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài định
cư và hoằng pháp từ khoảng ba chục năm nay không phải vì miếng cơm manh áo hay
vì chùa to Phật lớn mà phải tận tụy hy sinh cuộc đời tu hành của mình để lao tâm
khổ tứ đi xây từng viên gạch, lấp từng vũng nước đọng, trồng từng cội tùng non
hầu tạo dựng một ngôi Tam Bảo có đủ điều kiện thuận tiện và an tâm cho một đạo
tràng tăng tín đồ tu học. Đó là công đức không nhỏ của những nhà truyền bá chánh
pháp lúc ban đầu. Tôi đã từng chứng kiến cảnh tượng rất xúc động tại một số ngôi
chùa ở Hoa Kỳ mà tôi có dịp ghé thăm, khi thấy những vị trú trì vừa là giảng sư
thuyết pháp, vừa là đạo sư hướng dẫn tu học cho đồng hương Phật tử, vừa là kinh
sư đáp ứng nhu cầu nghi lễ cho bà con người Việt trong vùng, vừa tự túc nấu ăn,
vừa làm hương đăng dọn dẹp trong ngoài chùa, vừa công phu bái sám, nghĩa là làm
tất cả mọi việc cần làm. Nếu không có những vị tăng sĩ hy sinh như thế thì ngày
nay làm gì có hàng trăm ngôi chùa tại hải ngoại?
Với hoàn cảnh xã hội và sinh hoạt thiền môn ở hải
ngoại, ngay cả trong nước nữa, như thế, tất nhiên, không thể nào không ảnh hưởng
đến con đường tu tập của tăng, ni. Nhưng, ảnh hưởng tới mức nào và như thế nào thì còn phải tùy thuộc
vào bản lãnh tu tập và nội lực tâm linh của từng vị.
Đánh giá ảnh hưởng đó lên con đường tu tập của chư
tăng, ni thì không thể chỉ nhìn bề ngoài, hay chỉ nhìn thoáng qua trong một giai
đoạn nào đó. Người xưa có nói rằng “cái quan định tội,” nghĩa
là muốn phán xét một người nào đó thì tốt nhất là hãy đợi đến lúc đậy nắp quan
tài của người đó rồi hãy khẳng định.
Đề cập đến vấn đề bản lãnh tu tập và nội lực tâm linh
của tăng, ni và cư sĩ tại hải ngoại, tôi xin đơn cử hai trường hợp mà tôi từng
chính mắt chứng kiến cũng như từng nghe người khác chứng kiến thuật lại về sự ra
đi của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn (ngày 14 tháng 3 năm 2011 tại
Santa Ana, California) và Cố Giáo Sư Phạm Công Thiện (ngày 8 tháng 3 năm 2011
tại Houston, Texas). Hòa Thượng Thích Trí Chơn là vị tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam đã hy sinh
mấy chục năm dài để hoằng pháp, xây dựng chùa chiền và giáo dục tăng,
ni
trẻ. Nhìn bề ngoài Ngài là người rất đa đoan Phật sự.
Nhưng khi Ngài viên tịch thì quả thật là nội lực tâm linh và tu chứng đạt đến
mức phi thường. Bệnh ung thư, sức khỏe suy kiệt
trầm trọng, nhưng Ngài vẫn bình thản, tự tại. Ngài biết trước
ngày ra đi. Đến giờ phút cuối cùng trước khi viên tịch
Ngài rất minh mẫn và tinh tấn lạ thường. Ngài ra đi trong tỉnh giác và bình an. Giáo Sư Phạm Công Thiện cũng
vậy, là vị cư sĩ mà hành trạng lúc sinh tiền không giống ai cả.
Nhưng, đến khi lâm chung thì rất bất khả tư nghì. Ông
biết trước ngày ra đi và ngay trước khi lâm chung ông
còn tỉnh giác trì chú và bắt ấn hộ thân. Đúng là Phật Pháp rất mầu nhiệm và hành
trạng của chư tăng, ni cũng như cư sĩ, những vị hành trì Phật Pháp,
cũng rất thậm thâm vi diệu!
Như thế thì đâu phải trong thời đại văn minh khoa học
kỹ thuật vượt bực, trong xã hội vật chất xa hoa phóng dật, trong cuộc sống mà
con người bị cuốn hút theo giờ giấc và công việc lại
không có những hành giả thành tựu đại nguyện và đại hạnh của bồ tát?
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn mấy câu thơ nổi
tiếng của Cố Thi Sĩ Huyền Không viết về ngôi chùa trong bài thơ Nhớ Chùa:
“Chuông vẳng nơi nao
nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ
chùa chung
Mái chùa che chở hồn
dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”
Theo: TVHS