Tất cả những vị đang
tu học trong Tam thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa đều là
đối tượng giáo hóa và giáo hóa của Pháp Hoa.
Đối với những vị đã là
Bồ-tát, thì Pháp Hoa giáo hóa cho họ nhanh chóng trở thành một vị
Phật. Đối
với đối tượng Thanh văn và Duyên giác, Pháp Hoa phải giáo hóa và giáo hóa lâu
dài, bằng những phương pháp thực dụng và xảo diệu, để đưa họ lên Bồ-tát thừa và
thọ ký cho họ thành Phật trong tương lai.
Nên mục đích của Pháp
Hoa là giáo dục và giáo hóa các Thánh giả trong Tam thừa thấy rõ tướng trạng
“như thật” của các pháp để thành Phật, giáo hóa chúng sanh
bằng tuệ giác và bằng từ bi Pháp Hoa.
Phương pháp giáo dục
của Pháp Hoa là thiết lập giáo lý Tứ diệ đế để giáo hóa cho những vị có chủng
tính Thanh văn, giáo lý Duyên khởi để giáo hóa cho những vị vừa có chủng tính Thanh văn, vừa
có chủng tính Duyên giác, và thiết lập giáo lý Lục độ để giáo hóa cho những vị
có chủng tính Bồ-tát.
Bởi vậy, giáo học Pháp
Hoa đầy đủ cả Tam thừa, nhưng trong đó đối tượng chính để giáo hóa và giáo dục
lâu dài của Pháp Hoa là Thanh văn.
Phương tiện giáo dục
cho hàng Thanh văn là giáo học Tứ diệu đế, nhưng khi quý vị Thanh văn đã thuần
thục với giáo lý này, thì Pháp Hoa nâng cấp họ lên và giáo hóa khiến cho họ trở
thành Bồ-tát.
Nhưng, ở trong Thanh
văn có những trình độ cần phải giáo hóa
khác nhau:
Trình độ thượng căn,
thượng trí, như Tôn giả Xá-lợi-phất, thì ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật chỉ thẳng
“chư pháp thực tướng” và nói quả Phật mới là thật.
Phương pháp
giáo hóa này, là phương pháp nói thẳng, đánh thức trực tiếp vào tuệ giác của
Thanh văn, khiến cho tuệ giác ấy nhận ra ngay Phật tính và bản nguyện Bồ-tát vốn
có của hàng Bồ-tát và thọ ký thành Phật trong tương lai.
Giáo
hóa bằng
phương pháp này, ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã thành công đối với Tôn giả
Xá-lợi-phất.
Trình độ trung căn,
trung trí như các Tôn giả Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp và Mục-kiền-liên,
ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã giáo dục bằng cách đưa ra những ví dụ: Ba cõi ví
như nhà lửa; xe dê, xe hươu và xe trâu ở ngoài cửa của Ba cõi là dụ cho Tam
thừa, tu tập giáo lý Tam thừa ra khỏi nhà lửa của Tam giới, nhưng chưa phải
thành tựu Niết-bàn của Phật,…
Qua ví dụ nhà lửa và
ba xe mà Đức Phật đã trình bày, khiến cho các Tôn giả nhận ra được giáo lý Nhất
thừa, thấy rằng mình vốn có Phật tính và đã từng có bản nguyện Bồ-tát và chính
những vị này đã đưa ra ví dụ Trưởng giả và cùng tử, để ví dụ Trưởng giả là Phật
và cùng tử là chính mình ở phẩm Tín giải; nghĩa là tu tập mà quên mất bản nguyện
Bồ-tát là liền trở thành Thanh văn và là cùng tử. Chỉ cần nhớ lại bản nguyện Đại
thừa là tức khắc trở thành Bồ-tát.
Tiếp theo, Đức Phật
dạy cho họ về ví dụ Dược thảo, để chỉ cho họ thấy căn cơ
trình độ chúng sanh có cao, có vừa, có thấp, nhưng pháp Nhất thừa là pháp bình
đẳng, hết thảy mọi căn cơ tùy theo sức mình mà lãnh hội và cuối cùng cũng đều
thành tựu địa vị Phật.
Như vậy, phương pháp
giáo dục thứ hai đối với hàng Thanh văn của Đức Phật ở kinh Pháp Hoa bằng thí
dụ, và qua thí dụ mà đối tượng giáo dục nhận ra được bản nguyện Bồ-tát vốn có
của mình.
Và đối với các vị
Thanh văn với trình độ dưới trung bình, Đức Phật nói về nhân duyên Thầy - trò đã
từng cùng nhau tu tập Pháp Hoa, từ thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, quốc độ
của Ngài tên là Hảo Thành, thời kỳ của Ngài xuất hiện là Đại Tướng và thời kỳ ấy
trải qua đến nay là cực kỳ lâu xa.
Đức Thích-ca đã từng
là vị Ssa-di Bồ-tát tu học Pháp Hoa
với Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đã lãnh hội Pháp Hoa, đã tu tập Pháp Hoa và đã
diễn giảng Pháp Hoa từ thời ấy, và Ngài đã thành tựu Vô thượng Bồ-đề, giáo hóa
vô số chúng sanh, đã từng thiết lập giáo pháp Tam thừa để giáo hóa hàng Thanh
văn, Duyên giác, Bồ-tát, nhưng cuối cùng đều khiến cho họ hiểu và chứng nhập
giáo pháp Nhất thừa.
Và những vị đã từng
học hỏi, tu tập giáo pháp Tam thừa với Ngài đã trải qua nhiều thời gian, hiện
vẫn đang còn có mặt ở trong chính hội Pháp Hoa này và hiện nay, họ đang được Như
Lai trực tiếp giảng dạy Pháp Hoa cho nữa.
Niết-bàn của Thanh văn
và Duyên giác là do Như Lai tạm thiết lập để cho những vị tu tập Thanh văn hạnh
nghỉ ngơi, sau những tháng ngày dài, băng qua con đường hiểm nghèo của sinh tử.
Bây giờ quý vị đã
khỏe, lấy lại sức lực, để tiếp tục lên đường đến nơi “bảo sở”, tức là Niết-bàn
của Phật.
Và để minh họa cho ý
này, Đức Phật đã đưa ra ví dụ “hóa thành”, là thành phố tạm nghỉ ngơi để tiếp
tục đi tới “bảo sở”, là kinh đô.
Hóa thành là dụ cho
Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác và kinh đô là dụ cho Niết-bàn của Phật.
Ở phẩm Thọ Ký, Đức
Phật thọ ký cho năm trăm đệ tử Thanh văn, mà đứng đầu là Phú-lâu-na, Đức Phật đã
nói về bản nguyện Bồ-tát của Tôn giả Phú-lâu-na là đã có và đã thực hành ở nơi
chín mươi ức Đức Phật quá khứ.
Tôn giả Phú-lâu-na
không phải chỉ có khả năng thuyết pháp và tuyên dương Chánh pháp của Như Lai mà thôi, Tôn giả từng là
người đứng đứng đầu trong việc duy trì và tuyên dương Chánh pháp của chín mươi ức chư Phật quá khứ. Tôn
giả đã có đủ thần lực của Bồ-tát, sống lâu bao nhiêu thì thực hành Phạm hạnh bấy
nhiêu.
Tôn giả đã từng giáo
hóa vô lượng, vô số chúng sanh, khiến họ an trú vững chãi trong Tuệ giác Vô
thượng.
Và bất cứ thời kỳ của
Phật nào trong quá khứ, hiện tại hay tương
lai, Tôn giả đều là người thuyết pháp giỏi
nhất…
Đức Phật thọ ký cho
Phú-lâu-na thành Phật, rồi Tôn giả Kiều-trần-như và các vị khác cũng hiểu được
vấn đề Đức Phật giáo hóa, nên họ đều được Đức Phật thọ ký thành Phật.
Và họ đã đưa ra ví dụ
“ngọc trong chéo áo” để minh họa rằng, Phật tính vốn có, bản nguyện tu học
Bồ-tát thừa họ cũng đã từng phát khởi và thực hành, mà nay lại quên mất. Vì quên
mất Phật tính và bản nguyện Bồ-tát của mình, nên bị nghèo nàn trí tuệ và phước
đức, cũng giống như người có viên ngọc trong chéo áo mà quên mất, nên phải lang
thang khổ nhọc vì cơm áo và được đôi chút cơm áo tự cho là đủ.
Bằng sự giáo
hóa và
giáo dục Pháp Hoa như vậy, Đức Phật đã thọ ký cho Ngài Xá-lợi-phất ở phẩm 3, cho
bốn vị Đại đệ tử ở phẩm 6, cho năm trăm Đại A-la-hán và 1200 vị A-la-hán ở phẩm
8, và Ngài lại tiếp tục thọ ký thành Phật cho các bậc hữu học, vô học ở phẩm 9, thọ ký cho
Đề-bà-đạt-đa thành Phật và chứng minh cho sự thành Phật của Long nữ tám tuổi ở
phẩm 12, và lại thọ ký cho chúng Tỷ-kheo ni như bà Ma-ha Ba-xà ba-đềha, Da-du-đà-la, … ở phẩm
13.
Như vậy, Pháp Hoa đã
giáo hóa hai Đại bộ Tăng- Ni Thanh văn trở
thành giáo đoàn Bồ-tát Tăng, bằng những phương pháp đánh thức trực tiếp hoặc
gián tiếp, khiến cho tất cả quý vị tự nhận ra Phật tính và tự nhận ra bản nguyện
Bồ-tát vốn có của mình, nên đã được Đức Phật thọ ký thành Phật.
Như vậy, sự giáo hóa
và giáo dục của Pháp Hoa là sự giáo hóa và giáo dục bằng phương pháp “đánh thức
và khai phóng”. Nghĩa là đánh thức vào khả năng hay bản nguyện vốn có của họ,
khiến cho họ tỉnh dậy và bước tới.
Giáo hóa và giáo dục
như vậy thật là phương thức cực kỳ độc đáo và đặc
biệt của Pháp Hoa.
Ở phẩm Tùng Địa Dõng
Xuất, ta thấy sự giáo dục và giáo hóa của Pháp Hoa không mang tính cách đối phó
có vẻ thời cuộc mà mang một tầm chiến lược lâu dài đến bất khả thuyết, để gánh
vác và truyền bá Pháp Hoa đến bất tận.
Đó cũng là một trong
những tầm nhìn độc đáo và đặc biệt về giáo dục của Pháp Hoa.
Và với sự giáo dục ấy,
Pháp Hoa đã thành công khi chuyển hóa toàn bộ giáo đoàn Thanh văn Tăng thành
giáo đoàn Bồ-tát Tăng.
Và lại càng chứng tỏ
thành công hơn nữa, khi ở phẩm Tùng Địa Dõng Xuất, Đức Phật đã từ chối sự phát
tâm giữ gìn và truyền bá ở nơi cõi này của hơn tám hHằng hà sa số Bồ-tát Đại sĩ
đến từ các thế giới khác.
Ngài nói: “Ở quốc độ này, Như Lai đã giáo dục và giáo
hóa có đến sáu vạn Hằng hà sa Bồ-tát Đại sĩ, và mỗi vị Đại sĩ lại có sáu vạn
Hằng hà sa tùy thuộc.
Thầy trò của các Bồ-tát Đại sĩ này, sau khi Như Lai diệt
độ có thể đủ mọi khả năng để duy trì và phát triển Pháp Hoa, xin khỏi phiền đến
quý vị”.
Tầm nhìn và sự giáo
hóa sứ giả Pháp Hoa như vậy là cực kỳ đặc biệt và độc đáo mà không có bất cứ một
sự giáo hóa và giáo dục nào có thể so sánh.
Thích Thái Hòa