Cách
đây hai năm một thiền sinh trong giờ sinh hoạt pháp đàm của từng nhóm phát biểu:
”Tôi nghĩ Phật pháp là một triết lý cao siêu chứ đâu có phải là cứ thở ra
hít vào mà hiểu được...” Trong một lần khác một thiền sinh Tây phương cũng nói:
“Tôi dự và xem sách, DVD, lúc nào Thầy cũng nói về hơi thở, chẳng có gì mới lạ...”
(Everywhere, book, DVD… he says samething, Mindfull Breathing. I see nothing
new). Tôi mỉm cười và định trả lời: “Tại mình thực tập chưa đúng mức cho
nên chưa thấy mới lạ.”
Năm nay tôi được may mắn trở lại Lộc Uyển trong khóa tu này.
Buổi pháp thoại ngày đầu tiên cũng một đề tài như những năm trước: Thiền Thở và
Thiền Đi. Tôi nhìn quanh thiền đường một vòng xem thử có khuôn
mặt nào tỏ phản ứng “đề tài lặp lại” không? Thiền đường thật lặng im.
Tôi nghe báo cáo rằng trên sáu trăm người tham dự khóa này. Tôi được hưởng lây
cái năng lượng chánh niệm trong thiền đường. Tôi nghĩ phần lớn những người có mặt hôm nay ít nhất họ đã một lần
tham dự khóa tu như thế này, cho nên họ biết giữ im lặng tuyệt đối.
Cái mới lạ đến với tôi cách đây hai mươi năm. Trong một khóa tu đầu tiên tôi dự tại Camp de Sommet gần
Montreal,
Canada.
Một bữa sáng bước chân vào phòng ăn, tôi thấy trước cửa có treo một tấm
thư pháp viết "Thở đi con”. "Breath my dear”.
Tôi khựng lại một chút nhủ thầm lâu nay mình quên là mình đang thở. Trong khoá tu năm đó Thầy dạy nhiều về hơi thở chánh niệm,
kỹ
thuật thở có ý thức. Thở khi đi, khi ngồi khi nằm, khi ăn…
Vì chưa quen nên cảm thấy mệt. Tuy mệt nhưng cái cảm
giác lạ đầu tiên vẫn còn mãi trong tôi trong suốt mấy ngày tu tập đó. Rồi
tiếp theo những khóa tu tôi có dịp tham dự, Thầy luôn nhắc đến
chánh niệm và phương pháp hay nhất để duy trì năng lượng chánh niệm là hơi thở.
Từ đó đến nay con đường thiền tập của tôi là nương theo hơi thở. Cái lạ là mình càng cố gắng nương
theo nó thì hình như nó hành mình. Làm như nó là ông chủ của mình, nhiều
lúc không theo nó bị nó “trừng phạt”. Sau buổi ngồi
thiền với nhiều tạp niệm, trong ngày nói năng nhiều khi không ái ngữ với người thân, suy nghĩ miên man từ chuyện này đến chuyện
khác không đầu không đuôi… Những lúc như thế tôi chợt sực nhớ
là mình không về với hơi thở chánh niệm. Rồi bực tức, rồi tự trách mình
đã mấy chục năm theo
Thầy mà vẫn chứng nào tật nấy. Đó là những lúc bị nó trừng
phạt. Cho nên với tôi “Breath my dear” là câu thần chú.
Thở đi con, lúc đầu xem như là lời của Thầy mình nhắc nhở mình giữ lấy hơi thở
chánh niệm, dần dần tôi thấy ra là chính tôi nhắc tôi và có nhiều lần tôi lại
thấy không phải “thở di con” mà là “thở thở”; không còn người nhắc nhở và người
được nhắc nhở; hai ta đã là một. Những lúc như thế tôi thấy
tôi rất rõ, thân tâm tôi chỉ toàn là hơi thở đều hòa, nhẹ nhàng, sâu lắng.
Tôi muốn duy trì cảm giác này thật lâu thì tôi bị phản hồi
ngay, càng muốn kéo dài tự nhiên tôi cảm nhận được cái tôi và hơi thở của tôi.
Thất vọng. Vừa chớm thất vọng thì câu thần chú đến ngay “thở đi con”.
Tôi mỉm cười trong bóng tối của phòng thiền (mà tôi
gọi là phòng thở) và cái trình tự Thầy nhắc tôi thở, tôi tự nhắc tôi thở, và
toàn thân tâm tôi là hơi thở trở lại.
Tôi không thèm mong cầu kéo dài sự nhẹ nhàng của cảm giác của
mình vậy mà nó kéo dài hơn.
Có lúc tôi mở to đôi mắt vẫn cảm thấy mình nhẹ thênh thang.
Nhiều khi tôi thấy một sự tiếp nối miên mật của hơi thở, tôi không tìm ra cái
bắt đầu của hơi thở cũng như cái cuối cùng của nó; bắt đầu của hơi thở vào chính
là cái cuối cùng của hơi thở ra trước đó.
Và cái cuối cùng của hơi thở ra chính là cái bắt đầu của hơi
thở kế tiếp. Và quán sâu hơn nữa hơi thở vào và hơi thở
ra chỉ là một, và trong cái một đó là một chuỗi của bắt đầu và cuối cùng.
Trong cái bắt đầu đã có cái cuối cùng, trong cái cuối cùng đã có bóng dáng của
bắt đầu. Sự quán sát đó đưa tôi về với chính tôi, tôi là hơi thở, tôi tan
loãng trong hơi thở, hiện tại tôi đang thở…không có một chút cố gắng, tôi nhẹ
nhàng.
Nếu tôi đem cái kinh nghiệm đó ra giải bày cho bất cứ ai, thì
họ chỉ mỉm cười, hay tỏ vẻ có gì đâu đáng nói. Bởi họ không thể biết
được cái hương vị tôi được nếm. Nhiều người biết tôi đang thực tập thiền
họ hỏi cùng một câu giống nhau: “Anh thấy gì khi ngồi thiền?” Và lúc nào tôi
cũng chỉ trả lời được một câu: “Tôi thấy tôi.” Tôi không biết trả lời gì khác
hơn bởi vì tôi kinh nghiệm được là tôi thấy tôi rất rõ khi ngồi thiền hay khi
trở về với hơi thở. Nhiều người thất vọng với câu trả lời đơn giản đó.
Có người nghĩ tôi không muốn trả lời cho họ nhiều hơn, hoặc nghĩ tôi “chưa đạt
đạo”. Tại sao người ta hay thích những cái cầu kỳ để tìm cách lý giải như
lý giải một đề tài trong khi thực tế vấn đề đơn giản. Nếu tôi lặp lại câu của
các vị tổ “bản lai diện mục” , “nhất tâm nhất Phật” v.v… và v.v… thì họ sẽ trố
mắt ra suy nghĩ và phục tôi lắm. Nếu tôi cứ đem kinh Kim Cang, Hoa Nghiêm tuôn ra bất tận thì nhiều
người ngồi nghe thích thú.
Nhưng khi tôi đề nghị trước khi ăn cơm mình để ra ít phút nắm lấy hơi thở nhìn
vào thức ăn để nhận diện và quán “Thức ăn này là tặng phẩm của đất trời, là công
phu lao tác…” thì có người làm theo nhưng không thích mấy. Tôi nói với họ
“lời quán này là một trời Hoa Nghiêm, trùng trùng duyên khởi”.
Có người giật mình, thì ra mình đang sống giữa thế giới của Hoa Nghiêm mà không
nhận ra, cứ đi tìm ở nơi khác. Chỉ cần một hơi thở nhận
ra được cái mầu nhiệm. Còn nhiều vô số những cái “nho nhỏ” như hơi thở giúp mình đi vào thế
giói kinh điển và áp dụng được kinh điển vào đời sống mà mình không thấy bởi vì
mình không nương hơi thở về với thực tại.
Tôi hay chia sẻ với các bạn đồng tu rằng hãy thực tập (tu)
những cái nho nhỏ hằng ngày mình hay làm: đi ra đi vào, mở cửa,
ăn cơm, đi cầu… Những công việc đó nếu mình làm với hơi thở chánh niệm thì mình sẽ
thấy được những cái “tinh vi hơn”. Không có một cử động nào là đơn thuần,
giản dị. Tất cả toàn thể thân hình mình cùng làm việc nhịp
nhàng cùng một lúc trong một cử động đơn giản. Tôi đi không phải chỉ có
đôi chân bước mà toàn thân làm việc; bắp thịt cử động, thần kinh ra lệnh, máu
tuần hoàn để duy trì năng lượng nuôi dưỡng, ý chí muốn đi và nhiều yếu tố khác
trùng trùng cùng làm việc trong từng sát na hiện tại. Quán sát từng bước đi mình
khám phá một điều: đi là hành động vừa ý thức vừa vô ý thức. Ý
thức là mình muốn đi, vô thức là phản xạ của cơ thể giữ thăng bằng cho khỏi ngã.
Nếu cơ thể ở thế thăng bằng thì chân không thể bước tới được. Để một bước chân bước tới
thì cơ thể phải nghiêng qua một bên làm toàn thân mất
thăng bằng và để giữ lại thăng bằng, chân kia
phải bước tới. Cứ thế hai chân tự động bước nhịp nhàng, mình
không cần điều khiển hai chân. Đi là một chuỗi dài hành
động làm mất thăng bằng và giữ thăng bằng. Đi có chánh niệm mình khám phá
ra cái lý Duyên khởi: cái này có (sự mất thăng bằng của cơ thể) vì cái kia có (sự giữ thăng bằng cơ thể). Và cái
lý nhân quả. Nhân (làm cho thân mất thăng bằng) Quả (bước tới cho thân được thăng
bằng). Cuối cùng mình tìm không ra ai đang bước đi?
Và bước đi hôm nay của tôi đã có từ ngàn xưa nơi tổ tiên, và còn tiếp nối bởi
con cháu (không sanh không diệt). Điều này không phải do học thuộc những
gì thầy mình nói mà do chính mình cảm
được.
Tụng Bát Nhã Tâm Kinh mình tụng và
hiểu cái vượt thoát của Không. Nhưng nếu đi trong chánh niệm thì cảm
được cái Chân Không. Từ hiểu đến cảm là đoạn đường cách
nhau khá xa. Cầm ly nước cũng thấy được vũ trụ. Uống một hớp nước cũng thấy được cơ
man yếu tố vận hành của cơ thể để cho hớp nước đi vào cơ thể và tác dụng
vào cơ thể. Mà nếu đem những yếu tố đó ra kể thì cần
nhiều thời gian, đem viết ra thì cần nhiều trang giấy. Nhưng với chánh niệm khi uống hớp nước thì chỉ trong một khoảnh khắc
hiện tại cũng cảm được tất cả. Chỉ cần
một hơi thở nhẹ bao nhiêu mầu nhiệm bày ra.
Cảm là hiểu vấn đề bằng trái
tim chứ không phải bằng lý trí. Hiểu bằng lý trí của bộ
óc là thường bị ý niệm và lý giải chi phối. Lý giải một
hồi làm mình mệt có khi lạc đề. Còn hiểu bằng trái tim
không cần lý giải, chỉ mỗi một mình mình cảm không thể đem lý
giải cho ai hoàn toàn theo ý của mình. Tụng Tâm kinh phải làm sao cảm được Tâm Kinh.
Có ai hỏi mùi vị của trái sầu riêng. Thơm thơm
thum thủm, ngọt ngọt bùi bùi… cả ngày cứ tả thì người nghe cũng chỉ có chút ý
niệm về sầu riêng. Cách hay nhất là mời người hỏi nếm một múi. Nhưng vấn đề
không đơn giản nếu người hỏi “anh thấy gì trong khi ngồi thiền?”
Mời người ta cùng ngồi thì không dễ. Mời người ta ngồi
xuống thở với mình ít phút cũng khó. Hãy sống tự nhiên (be yourself). Đó
là cách tôi hay trả lời. Như vậy giữa người tập thiền và người
không tập thiền có khác gì đâu. Thật ra có khác.
Bởi vì mình không thực tập quay về với chính mình cho nên không thấy khác.
Trong đời sống hàng ngày mỗi người đều mang nhiều mặt nạ khác
nhau.
Vì hoàn cảnh, vì công việc, vì lợi, vì tâm lý và ngay cả vì
mình là người đang tu học mình cũng phải đeo mặt nạ. Có khi mình không
muốn nhưng có khi do thói quen. Đi với Bụt mặc áo ca
sa đi với ma mặc áo giấy. Lột cho được mặt nạ không phải dễ, phải thực tập nhiều. Khi
đã thoát ly được các mặt nạ rồi mình chính là mình, mình thực sự là con người Vô
Sự của tổ Lâm Tế. Không còn có gì để ràng buộc mình phải đeo cái mặt nạ.
Cái mặt nạ mình đeo có khi mình quên vì nó là thói quen. Những lúc biết mình đang đeo mặt nạ chính là lúc mình thực sự về với
chính mình.
Kéo dài sự nhận diện càng lâu càng tốt.
Với người thân thương trong gia đình đừng tưởng mình không đeo mặt nạ.
Mình giận mà nói không giận, trách móc mà nói không trách móc.
Chỉ cần đi lững thững vài bước thở vào thở
ra, hoặc
vào phòng ngồi thở vài ba phút là cảm thấy nhẹ ngay, và tất cả được xí xóa.
Theo tôi, miên mật là mình kéo dài giây phút
chánh niệm lâu chừng nào tốt chừng đó. Bất cứ lúc nào, nơi nào trong ngày cũng thực tập được.
Đâu có phải cần hạ thủ công phu ngồi bất động từ giờ này qua giờ khác.
Thời gian mới thực tập ai cũng vướng vào thói quen
chung là ngồi cho lâu. Đo lường công phu bằng thời gian
ngồi kiết già. Gặp nhau chỉ hỏi một câu : ”Anh ngồi
được bao lâu trong một thời” và sẽ được định công bằng độ dài thời gian.
Tâm đang bất an, nhiều lo lắng, nhiều dự tính thì không nên ngồi thiền mà nên
quay về hơi thở, đi thiền hành. Lúc đó mà nghĩ rằng ngồi thiền để cho nhẹ bớt sự đè nén trong não
thì không giúp được gì mà mình thêm trạo cử, ngồi không yên được.
Hơi thở có chánh niệm là thiền, thiền hành là thiền, nhận diện hiện tại là
thiền. Tu mà không tu. Khi tất cả các mặt nạ đều
biến mất thì con người thật của tổ Lâm Tế bày ra. Chỉ một hơi
thở có ý thức, trong một thoáng ngắn ngủi mình đi từ con người giả (với mặt nạ)
đến con người thật. Nhưng thực ra không đi đâu hết,
không tìm đâu hết.
Thầy Tăng Hội tả về cái tâm: trong một cái búng
tay tâm có chín mươi bốn ngàn lần chuyển niệm, tâm như tấm gương đầy bụi
bám vào. Nắm lấy hơi thở, đếm hơi thở,
theo dõi hơi thở tâm dần dần sáng ra như một tấm gương
được phủi bụi. Nếu đem tấm gương đó đặt dưới ánh mặt trời tấm gương sẽ phản
chiếu đi khắp nơi
và không cõi nào mà không hiện rõ.(Trích Thiền Sư Tăng
Hội của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh).
Thiện Tài, đệ tử của ngài Văn Thù. Sau
nhiều năm làm đệ tử hầu hạ thầy mình cảm thấy không bằng lòng.
Xin thầy cho đi tìm đạo. Thầy vui lòng cho đi.
Đi đến nước nào cũng gặp được một vị đại trí thức, từ bi dạy cho những giáo lý
uyên nguyên, nhìn được thâm sâu vận hành của vũ trụ, hiểu được tiếng của muôn
chim cầm thú, thâm hiểu cặn kẽ tam tạng kinh điển… Học được ở
52 vị đại trí thức, đạt đến 52 pháp môn vi diệu. Học xong vị nào cũng bảo Thiện Tài
“pháp môn của ta chưa phải là rốt ráo. Con nên đến thầy
kia.” Thiện Tài vâng lời làm theo. Đến vị đại trí thức thứ 52, ngài cũng cho Thiện Tài biết giáo pháp
của ngài cũng chưa rốt ráo. Thiện Tài buồn bã, thất
vọng quay về nhà với Thầy mình. Ngài Văn Thù biết trước, biết từ khi trò mình muốn ra đi, nên ra tận
cửa đón trò mình với nụ cười và cái nhìn từ bi. Nhìn trò Thầy bảo: Thở đi
con. Thiện Tài bừng tỉnh như chưa bao giờ tỉnh.
Chuyện như hoang đường nhưng có thật, bởi vì
Thiện Tài và Văn Thù đang có trong ta.
Nguyễn Thế Hà
Misisssauga – Canada
Nguồn: PSN