Chính vì khổ nghiệp
của chúng sanh đang vây khốn mà các Đức Phật Thế Tôn cùng các vị Bồ tát xuất
hiện ra thế gian này, với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi
loài. Cùng ở trong hạnh nguyện đó, sự xuất hiên của Bồ tát
Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhất trong hạnh nguyện của các vị
Bồ tát.
Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất
thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi
này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay;
thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay, kẻ đó không
biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có
nghĩa là bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi và đối lập nhau;
nhưng nó chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ
trụ như là một phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi
chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên được sự hiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi
chúng ta đang ở trong tình trạng sinh khởi, nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà
hiện ra các khổ tướng báo thân có sai khác. Nhưng về mặt nhất
thể, thì hiện tướng chính là bản thể, và bản thể chính là hiện tướng.
Do đó, cuộc đại hòa âm, hay bất đại hòa âm trong vũ trụ, cũng tùy
theo đó mà hiện hữu như một thực tại giữa chúng ta, không thể không chấp
nhận. Vì kẻ biết được hay không biết được trò chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo
của ý niệm, nhưng khi ý niệm vừa khởi lên, liền sau đó phát hiện ra âm thanh
hoặc tương đồng hoặc tương khắc với với thế giới âm thanh bên trong hay bên
ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trược này, hầu hết chúng sanh đã mang vào
trong mỗi tướng thể một khổ quả nào đó, cùng nằm trong một cộng nghiệp không thể
tránh khỏi luật tắc luân hồi, đã mang và sẽ đưa chúng sanh vào con đường khổ.
Chính vì khổ nghiệp của chúng sanh đang vây khốn mà các Đức Phật Thế Tôn cùng
các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui
cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyện đó, sự xuất
hiện của Bồ tát Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhất trong hạnh
nguyện của các vị Bồ tát.
Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ
căn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất
cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ
tát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó.
Trong nhiều bộ kinh, có nói về Đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhưng chúng ta không thấy
đề cập đến phương pháp chứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề
cập đến sự chứng ngộ ấy, kinh Lăng Nghiêm trực chỉ ghi rõ rằng: Sau khi Đức Thế
Tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của 24 Thánh đệ tử xong, đến lượt Bồ tát Quán Thế Âm
bày tỏ chỗ sở chứng của mình như sau: "Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là:
hà sa số kiếp về trước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi
muôn vào chánh định thì phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự
tánh thì sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng
không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng
lăng).
Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ
từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe đều hết.
Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của giác đều không, khi không giác
đã tròn đầy, thì không và đối tượng không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt". Thế giới phơi mở trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không
gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế
gian, hay các pháp hữu vi và vô vi.
Cảnh giới này trên đồng với Như Lai một từ lực, dưới hợp với tất cả chúng sanh
trong sáu đường, và đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng.
Đến đây, chúng ta thấy hạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng
Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ môn, gặp nhau trong lòng bi ngưỡng đối với
chúng sanh đại thể.
Nhưng về ý nghĩa danh từ có sự khác nhau.
Trong kinh Lăng Nghiêm, ý nghĩa luôn luôn ở trong chiều hướng phản phục cái nghe
nơi tự tánh. Như vậy, cái nghe ở trong chiều hướng nội. Một khi tâm đã phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không còn, nên không
có sự đối đãi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Như Lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trước mắt.
Luc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội.
Như vậy kinh Lăng Nghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán
Thế Âm. Ngược lại trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ môn lại lập cứ trên quả đức
để hiển nghĩa, thì Âm chính là tiêu đích của văn tầm cứu. Dù là tịch
thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế Âm Bồ tát cũng thấu suốt tất cả.
Âm thinh từ trạng thái tâm lý đến lúc phát ra ngoài, phải qua một tiến trình
chuyển động của cơ thể.
Có sự liên hệ giữa một ý niệm khi phát khởi, và các sợi thần
kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoài cửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm
thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ra vô tận, và
sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếp giao
này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu hòa âm, hay bất hòa âm,
tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng người, từng loại
chúng sanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗi
người, mỗi sự vật, chính ngay trong ý niệm, trong mặc thức, không phát ra bên
ngoài, hay chưa khởi phát ra ngoài, nhưng nó có tác động của tâm thức can thiệp
vào. Ở đây, còn gọi là tâm thanh, la tiếng nói của tâm.
Vậy, âm là biểu tượng ý nghĩa cuộc sống, thế giới ngoại tại của chúng sanh trong
pháp giới duyên khởi này chính là hiện tướng của nghiệp tướng vô minh con người
đang lôi kéo con người trong bể khổ sanh tử luân hồi.
Những khổ đau tai nạn của kiếp người, cùng tiếng kêu
gào van xin, cầu cứu của chúng sanh trong bể khổ đã làm cho nguyện lực độ sanh
của Bồ tát Quán Thế Âm phát sinh. Ngài đã cùng nhĩ căn
viên thông, thường xuyên quán sát và nghe tiếng cầu cứu của chúng sanh, tùy theo
căn cơ của từng loại mà Ngài hóa độ, cứu vớt.
Ở đây, về ý nghĩa danh xưng, chúng ta thấy sự khác biệt giữa kinh
Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa trong lòng bi nguyện của Ngài. Một đàng
hướng nội nghe bản thể tự tánh, tức là Như Lai tạng tâm và đó cũng chính là bản
thể của chúng sanh, của vũ trụ mà lập cứ (theo nhân hạnh) để cứu vớt; một đàng
hướng ngoại nghe quả khổ của chúng sanh, cùng tiếng cầu cứu mà lập cứ (theo quả
đức) để cứu vớt. Nếu căn cứ nơi nhân và quả để hiểu thì làm sao có sự gặp gỡ
hạnh nguyện giữa kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa trong lòng bi nguyện của Ngài?
Đó là câu hỏi cần đặt ra và cần giải đáp.
Sự xuất hiện của Ngài vì lòng bi ngưỡng vô úy, cùng với chúng
sanh cùng một thể tánh. Ngài đã mang danh hiệu Đại từ
đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, nói lên lòng bi ngưỡng vô
úy đó. Lòng bi ngưỡng vô úy mà chúng sanh đã đánh mất,
thay vào đó lòng sợ hãi. Chính vì lòng sợ hãi mà con người luôn ở trong
tình trạng lo đối phó, nhưng đối phó với phương pháp chạy trốn thực tại, tìm
cách né tránh với tương lai. Mà tương lai là những gì chưa xảy đến với họ hay sẽ
không xảy đến. Vì sợ hãi lo âu nên con người tự đánh lừa chính mình và dần dần
trở thành vong thân. Từ đó thần thánh, ma quỷ, Thượng đế được xuất hiện bởi con
người va do con người đặt ra, con người lấy đó làm nơi
nương tựa. Cuộc sống của chúng ta đầy dẫy những biểu tượng, biểu tượng của sợ
hãi, do đó chúng ta đã tự đánh mất bản tính vô úy của ta. Con người không dám
nhìn thực tại, không dám nhìn vào chính mình, không dám sống với thực tại, luôn
luôn sống với tương lai; mà tương lai là những gì ảo tưởng. Con người luôn tìm
cách nắm bắt những ảo tưởng đó để rồi thất vọng, đau khổ.
Trong truyền thống triết lý siêu hình Tây phương, vì sự sợ hãi này
mà Thượng đế xuất hiện. Thượng đế đã được lý trí con người đặt ra để tôn
thờ làm nơi tương tựa của những con người yếu bóng vía, đầy lòng sợ hãi với hiện
tại, với tương lai. Tự đặt mình vào sự cứu rỗi của Thượng đế, tự họ đánh mất bản tánh
của họ. Họ làm nô lệ cho một Thượng đế bên ngoài, họ đã
vong thân và Thượng đế thần thánh đã ngự trị, chi phối cuộc sống họ.
Kể từ Socrates mãi cho đến Athur Schopenhauer, giai đoạn này Thượng đế đã được
đề cập đến nhiều, nhất là thời kỳ trung cổ, thời kỳ kinh viện, Thượng đế được
coi như là thần linh, ban phước giáng họa và mãi đến Hegel.
Hegel đã quan niệm: Thượng đế là một nhân cách hóa của con người và con người là
nhân cách của Thượng đế. Thượng đế chính là ý niệm tuyệt đối.
Ông giải thích Thượng đế của ông theo sách Sáng ký và ba ngôi của Ky Tô giáo bằng biện chứng
pháp của ông theo ba tiên trình; đề, phản đề, tổng hợp đề. Ông bảo rằng: "Chính
Thượng đế đã vong thân, Thượng đế đã đẻ ra hình ảnh Adam và Eva nơi vườn địa
đàng, và chính Adam và Eva đã phản lại lời dặn dò của Thượng đế khi nghe lời dụ
dỗ con răn (tượng trưng cho ác quỷ sa tăng) mà ăn phải trái cấm thiện ác, để rồi
từ đó về sau con người mắc phải tội tổ tông (nguyên tội) và bị đày đọa trong khổ
đau, càng khổ đau con người càng tạo nên tội lỗi. Để chuộc lại tội lỗi này,
Thượng đế đã cho Jésus giáng thế, và bị đóng đinh trên cây thập tự giá, để chịu
tội cho thế gian; khi đó con người trở lại trạng thái ban sơ nơi vườn địa đàng.
Để rồi ông kết luận Thượng đế là con người và con ngươi là Thượng đế. Đó là giai
đoạn chung cuộc của lịch sử tương lai.
Từ Hegel đến Schopenhauer, quan niệm Thượng đế thay đổi dần và biến mất từ
Schopenhauer.
Với quyển Vũ trụ như là ý lực, ông đã phủ nhận Thượng đế.
Ông là người đầu tiên mang truyền thống Đạo học Đông phương thổi vào Âu châu một
luồng sinh khí mới mẻ, và mạnh mẽ nhất là Nietzsche với chủ trương "con người
siêu nhân" và ông đã nói; "Thượng đế đã chết" (Das Got Isto).
Như thế, Thượng đế thực sự đã vắng mặt trên thế gian này.
Mãi đến Heidegger, danh từ Thượng đế không còn được nhắc đến nữa. Nền siêu hình học hiện đại mà người đại diện cho nền triết lý Tây
phương là Heidegger đã không nhắc đến một Thượng đế nào, ông chỉ đề cập đến tính
thể của hiện thể tại thế (Dasein) của con người mà thôi. Những vấn đề xa xôi chưa đến trong tương lai, không phải là vấn đề
bận tâm của ông. Ông chỉ biết hiện tại, sống với hiện
tại, tìm ra những vấn đề liên hệ giữa con người với con người, giữa cuộc sống và
con người cùng sự hiện hữu chính mình. Theo ông, đó là
những bâng khuâng của con người, cần phải tìm ra sợi dây liên hệ đó. Có
thế con người mới làm chủ được chính mình và làm chủ được cuộc sống; lúc này con
người sẽ không còn sợ hãi nữa, họ sống một cách bình thản, chấp nhận tất cả dù
là cái chết đi nữa, cũng không sợ sệt, vui cười với cái chết. Họ đã đến gần Đông phương với tinh thần vô úy.
Nhưng đó chỉ là một thiểu số có tinh thần thượng thừa, đã nhìn ra được trò chơi
của vũ trụ trong suy niệm. Họ đã chấp nhận hiện tại và sống với hiện tại, chơi với hiện tại
bằng một thái độ tự tại, kiêu hãnh với chính mình mà không bao giờ sợ hãi.
TT. THÍCH ĐỨC THẮNG