I. Hệ
thống giáo dục Phật giáo
Mục tiêu tối thượng của Phật pháp là gì? Đó là đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu
tam-bồ-đề, phiên âm chữ Anuttarā- saṃyak-
saṃbodhi từ tiếng Sanskrit, Hán
dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, có nghĩa là sự giác ngộ chân thực, toàn
diện và cao tột. Vì tôn trọng, nên thuật ngữ nầy vẫn được gọi theo từ gốc của nó
chứ không gọi theo dịch nghĩa. Có thể phân tích sự giác ngộ này theo 3 mức độ :
1.
Chánh giác.
2.
Chánh đẳng chánh giác.
3.
Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
tuổi trẻ với phật giáo: khóa tu mùa hè 2011 tại chùa Hoằng
Pháp, Tp HCM
Đức Phật dạy rằng giới khoa học gia, triết gia, các học giả về tôn giáo có thể
đạt đến một trình độ hiểu biết nhất định nào đó về nhân sinh vũ trụ, nhưng sự
hiểu biết nầy không phải là ‘chân thực’ và ‘toàn diện’. Sao vậy? Mặc dù họ đã có
được một số hiểu biết, nhưng họ vẫn chưa thoát khỏi những ràng buộc của những
phiền não do tham, sân, si, kiêu mạn, thị phi, ngã nhân.... Nói cách khác, họ
vẫn còn là phàm phu, chưa phải là thánh nhân. Do vậy nên không được gọi là
‘chánh giác.’ Nếu quả thực họ đã chuyển hóa sạch mọi phiền não do tham, sân, si,
kiêu mạn, thị phi, ngã nhân...; thì Đức Phật thừa nhận họ là bậc ‘chánh giác,’
và được gọi là A-la-hán,
là quả vị đầu tiên trong tiến trình tu Phật. Chư Phật và A-la-hán khác nhau ở
chỗ dụng tâm. A-la-hán cũng dụng tâm như chúng ta, gọi là thức tâm (tâm hư giả,
không phải là chân tâm); chỉ khác là chúng ta còn nhiều phiền não, nhưng A-la-hán
thì đã hết sạch.
Mức độ giác ngộ cao hơn gọi là Chánh đẳng chánh giác, được đại biểu bởi hàng
Bồ-tát.
Chư Bồ-tát dụng tâm đồng như chư Phật, nhưng
trình độ giác ngộ chưa đồng. Bồ-tát vận dụng chân tâm cũng như chư Phật. Nhưng
tâm chư Phật là chân tâm viên mãn, trong khi Bồ-tát còn phải tu tập nhiều mới
đạt được chân tâm viên mãn như chư Phật.
Trong kinh luận Phật giáo, chân tâm viên mãn của chư Phật được biểu tượng bằng
vầng trăng tròn sáng ngày rằm, tâm Bồ-tát được ví như trăng non, tâm A-la-hán ví
như vầng trăng phản chiếu trên mặt nước, gọi là ‘cảnh hoa thủy nguyệt’, nó hư
giả, không thực. Tâm của chư Phật và Bồ-tát tương tợ như nhau, đều là tâm chân
thật, không chút hư giả, nên được gọi là Sơ trụ Bồ-tát, phá một phần vô minh,
chứng được một phần pháp thân. Các vị hoàn toàn sống với chân tâm, tuyệt đối
không còn tâm hư vọng, nên gọi
‘chánh đẳng chánh giác’.
Ba mức độ giác ngộ nầy có thể đem so sánh với các học vị trong hệ thống giáo dục
hiện nay. A-la-hán tương tợ như Cử nhân, Bồ-tát
tương tợ như Thạc sĩ,
chư Phật tương tợ như Tiến sĩ. Danh hiệu
Phật không chỉ dành riêng cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, mà là dành cho tất cả
những ai đạt được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như vậy, Phật, Bồ-tát, A-la-hán
chỉ là danh xưng biểu tượng cho trình độ giác ngộ hoặc là quả vị đạt được trong
quá trình tu tập Phật pháp. Phật, Bồ-tát, A-la-hán hoàn toàn không phải là những vị thần để sùng tín.
Như vậy, Phật
là người đã giác ngộ toàn triệt về nhân sinh và vũ trụ, đã đạt đến Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Đây cũng là mục tiêu của nền giáo dục Phật-đà, là giúp
cho mọi chúng sinh đều đạt được trí huệ giác ngộ chân thực, toàn diện và cao tột.
Cho nên Phật pháp là một nền giáo dục trí huệ.
Phương châm của giáo dục Phật giáo là triệt để phá trừ mê muội, chuyển hóa mọi
mê lầm, đạt đến giác ngộ an lạc; dẹp trừ mọi khổ đau, đạt được sự an tĩnh thân
tâm. Thế nào là mê? Khi chúng ta không hiểu đúng đắn và chính xác về mọi hiện
tượng quanh mình, chúng ta nhìn sai lạc, suy nghĩ sai lạc
dẫn đến hành xử sai lạc, nên đau khổ liền kéo theo như bóng với hình. Tuy
nhiên, nếu chúng ta có chính kiến, có cái nhìn đúng đắn và chân xác về các hiện
tượng nhân sinh và vũ trụ, thì chúng ta sẽ không còn bị mê lầm từ
tư tưởng và hành vi nữa. Mọi kết quả đều rất tốt đẹp. Như vậy, chuyển hóa
mê lầm, khai mở trí huệ chân thực chính là nhân; và phá trừ khổ đau, đạt
được tâm ý thanh tịnh an vui chính là quả.
Chỉ cần phá trừ mê tín là ngay đó được giác ngộ. Đó là mục tiêu của Phật pháp.
Trí huệ chân chính nầy sẽ giúp cho mọi người phân biệt được rõ giữa chính và tà,
thật và giả, xấu và tốt. Trí huệ nầy giúp cho chúng ta có được sự năng động
trong cuộc sống và thái độ bao dung thân thiện khi đối xử với mọi người chung
quanh. Thế nên chúng ta thấy rõ ràng Phật pháp không thụ động, chẳng phải lỗi
thời, cũng chẳng phải cách biệt hẳn với xã hội. Như Đức Phật nói trong Kinh
Đại thừa Vô lượng thọ Trang nghiêm Thanh tịnh Giác ngộ Bình đẳng
hoặc trong Kinh Vô lượng thọ, Phật pháp có khả năng giải trừ tất cả mọi
phiền não, Phật pháp giúp cho chúng ta có được lý trí, có được sự hiểu biết lớn
lao, hạnh phúc lợi lạc vô biên bằng cách tạo lập cuộc sống lợi ích, gia đình đầm
ấm, hài hòa với xã hội, quốc gia hưng thịnh, thế giới hòa bình. Đây là những mục
tiêu của giáo dục Phật pháp dành cho thế giới ngày nay. Mục tiêu tối thượng là
giải trừ mọi phiền não để không còn phải luân hồi sinh tử trong tam đồ ác đạo
nữa. Đó là lợi lạc vô cùng lớn lao, bất khả tư nghì. Do vậy, có thể hiểu rằng
Phật pháp là nền giáo dục giúp chúng ta đạt được thành quả chân thiện mỹ, trí
huệ chân thật và an lạc vĩnh hằng.
Thích Nhuận Châu dịch
阿 羅 漢; S: arhat; P:
arahat, arahant; T: dgra com pa; dịch nghĩa là Sát tặc (殺 賊), là diệt hết
giặc phiền não, ô nhiễm; Ứng cúng 應
供, là người xứng đáng
được cúng dường; Bất sinh 不 生 hoặc Vô sinh 無 生, là
người đã đạt Niết-bàn, đoạn diệt sinh tử.