Ta cho người
cơm ăn
áo mặc, người cho ta lại điều
kiện để tạo thành phước đức. Ta
cho người công ăn
việc làm, người làm việc cho ta lại thành
phẩm và lợi nhuận.
Trong sự
tương quan tương sinh của sự sống, ta cho người cái nầy, người cho ta lại cái
kia, nên
chính cho là nhận, chính nhận là cho, ấy
là chân
lý
của cuộc sống và công
bằng của lẽ sống. Trong cuộc sống ta không
bao giờ có cái cho
hay cái nhận đơn thuần.
Thầy cho trò những kiến thức, chữ nghĩa, nghề nghiệp; thầy nhận từ trò lòng kính
trọng và sự biết ân. Vua ban ân tứ
cho dân, cũng chính là vua đang
nhận phước
đức từ muôn dân.
Thầy và trò, vua và dân
như vậy, không hề hiện hữu trong ý nghĩa đơn thuần mà hiện hữu
trong ý nghĩa tương quan duyên khởi. Họ hiện hữu để giúp nhau, để cùng nhau tồn
tại trong một ý nghĩa nhất định nào đó của
cuộc sống con người.
Chân lý
của cuộc sống là không
có sự hiện hữu nào là sự
hiện hữu đơn thuần, mà mọi sự
hiện hữu là hiện hữu
tương quan giữa cho và nhận hay giữa nhận và cho, hay nói
chính xác hơn chính cho là nhận
và chính nhận là cho.
Ta cho cuộc
sống bao nhiêu, thì ta
nhận lại từ cuộc sống bấy nhiêu. Ta nhận từ cuộc sống bao nhiêu, thì ta
cho lại cuộc sống bấy nhiêu. Ta cho cuộc sống bao nhiêu sự thanh cao, thì
ta nhận lại bấy nhiêu sự thanh cao từ
cuộc sống. Ta cho cuộc sống bao nhiêu sự thấp kém là ta nhận
lại sự thấp kém từ cuộc sống bấy nhiêu.
Không có
cái cho hay cái nhận đơn thuần nào mà có
thể tự hữu. Công bằng trong cuộc sống con người, chính là sự hiện
hữu tương quan duyên khởi.
Thấy
rõ sự công bằng, ngay nơi mọi
sự hiện hữu tương quan duyên khởi
ấy, cái thấy ấy là cái thấy
của trí tuệ.
Tại sao? Vì
cái thấy ấy có khả
năng chạm tới và tiếp
xúc được
với thể tính chân thực
của sự sống và có
khả năng chặt đứt mọi hệ lụy do những nhận thức sai lầm đem
lại cho ta từ một
đời hay nhiều
đời.
Từ bi trong đạo
Phật không hề mang ý nghĩa của nhận thức và không thể
nào sinh khởi từ nhận thức một phía. Từ bi trong đạo Phật sinh khởi từ trí tuệ. Từ bi chỉ là những
hành động chuyển tải trí tuệ. Không có trí tuệ,
ta không bao giờ có
từ bi.
Trong ý
nghĩa
duyên khởi hay trong ý nghĩa công bằng của sự sống, không có cái cho
và cái bị
cho, không có cái nhận
và cái bị
nhận hay nói cách khác không
có cái
cho
và cái
nhận.
Tại sao? Vì ý nghĩa cho
và nhận, chỉ là những
ý nghĩa của nhận thức quy ước và phân biệt
mà không phải là tự
thân của thực tại.
Nhận thức và phân
biệt giữa cho và nhận
theo quy
ước thường
đẩy con người
rơi vào hai trạng thái của mặc cảm là tự tôn
và tự ty.
Cho, thường rơi
vào mặc cảm tự tôn, vì vậy
mà người cho không thể
tạo ra được sự an lạc và phước
đức lâu dài cho chính
mình. Nhận, thường rơi
vào mặc cảm tự ty, nên người
nhận không cảm thấy thoải mái và tự chủ
lâu dài
của
chính mình.
Từ bi trong đạo
Phật là từ bi của trí tuệ, nên người nào thực hành hạnh từ bi của đạo Phật, người ấy phải có khả
năng xóa sạch lằn mức giữa cho và nhận.
Và phải biết rằng, cho và nhận không
phải là hai thực thể tách rời. Chính cho là nhận và chính
nhận là cho.
Nếu không có người nhận, thì ta lấy
ai để cho và nếu
không có ai để cho, thì ý
nghĩa
cho làm
sao
thành tựu được? Vì vậy,
không có cái cho nào
hiện hữu đơn thuần, mà chính cho
là nhận. Và cũng không
có cái
nhận
nào hiện hữu đơn thuần, mà chính nhận là cho.
Trong đời sống
hàng ngày, ta quán chiếu
tính duyên khởi của vạn hữu giữa cho và cho một
cách thường trực là ta
có khả năng xóa sạch
những tâm ý cao ngạo trong ta, vì
ta đã thấy rất rõ chính cho
là nhận. Và ta quán chiếu
tính duyên khởi của vạn hữu giữa nhận và nhận là
ta có khả
năng xóa sạch những tâm ý mặc cảm thấp kém trong ta,
vì ta đã
thấy rất rõ chính nhận
là cho.
Tâm ý cao ngạo
và tự tôn của ta
đã làm cho trí tuệ
của ta bị vẩn đục và chính nó đánh
mất hoàn toàn tâm từ
bi của ta. Tâm ý mặc cảm thấp kém và tự ty
của ta cũng làm cho
trí tuệ của ta vẩn
đục, và cũng đánh mất hoàn toàn tâm từ
bi của ta.
Trong đời sống,
ta chỉ có trí tuệ
và từ bi đích thực, khi nào ta
có cách
nhìn
và cách
hành
xử không phiến diện.
Cách nhìn không phiến diện, gọi là cách
nhìn của người đệ tử Phật và cách hành
xử không phiến diện, gọi là cách
hành xử từ bi của đệ tử Phật.
Với cách
nhìn và
cách
hành xử ấy, người đệ tử Phật đi đến đâu cũng lợi ích và sống
ở đâu cũng an toàn.
Ta chỉ có tâm từ
bi và có khả năng thực hành tâm ấy, khi
nào tâm ý ta không bị
chi phối bởi hai hạt giống
của tự tôn và tự
ty nầy.
Và, ta có từ bi, chỉ khi nào ta
có trí
tuệ
và chỉ khi nào ta
có trí
tuệ
ta mới có từ bi.
Thích Thái Hòa