Con đường TRỞ VỀ

con duong tro ve

      Đặng Công Hanh

 

 

“Chợt có lúc hai chân dùng một lượt

Người đi đâu xưa chính ở chỗ này”

                                                                                      (BG)

 

Trong suy nghĩ thông thường của nhân gian, đạo Phật đồng nghĩa với từ bi, một đức hạnh tuyệt đình được mọi người tôn sùng. Đạo đức của Phật là đạo đức của con người, đạo đức của hành vi, đạo đức của nhân quả. Nghiệp, tội phước, kiếp này, kiếp trước, kiếp sau đã thẩm thấu vào phong dao tục ngữ như nước thấm vào lòng đất nuôi dưỡng muôn loài. Trong đôi mắt nhân gian: tu là đạo đức, tu là giới; hễ có giới là có sự kính trọng thuần thành.

Hạnh từ bi của đạo Phật rất đơn giản, hiền lành, mộc mạc không mang một màu sắc triết lý cao siêu. Phật chỉ biết thương người chứ không phạt không quở, nhẹ nhàng, khuyên răng nhắc nhở:

“Tham thì thâm,

Phật đã bảo thầm rằng chớ có tham”

Hạnh từ bi đối với nhân gian là đạo đức của Phật chứ không bao giờ là luân lý, nhưng vì nó được xông ướp quá lâu vào tâm hồn, vào nếp sống nhân gian nên khó phân định đâu là luân lý, đâu là lòng từ:

“Con ai đem bỏ chùa này

Nam mô đức Phật con thầy thầy nuôi”

Hoặc: Thương người như thể thương thân” bởi vì “thí một chén nước, phước chất bằng non”, “ở hiền gặp lành”.  Chân lý thứ nhất của Tứ Diệu Đế mà đức Phật nói về khổ trong kiếp làm người, cũng được nhân gian chuyển hóa trong tâm hồn một cách mộc mạc sâu sắc, linh hoạt và nhẹ nhàng:

 

“Gánh cực mà đổ lên non

Cong lưng mà chạy cực còn đuổi theo”

 

Hoặc là: “Có thân thì khổ, có khổ mới nên thân”

Đơn giản là như vậy, những tình cảm mộc mạc dung dị êm dịu đó đã hòa lẫn với hơi thở mát mẻ hoa đồng cỏ nội, của đồi núi âm u, của nắng sớm mưa chiều hay những thịnh nộ đất trời mưa dầm gió chướng. Tất cả chừng đó hay hơn thế nữa đá len lỏi đan kết trong tôi và đưa tôi và đạo Phật lúc nào không hay không biết như nhịp thở ra thở vào buồng phổi từng giây phút, theo bước chân chập chững vào đời.

Việc đến sẽ phải đến, trong một hoàn cảnh đặc biệt, tôi phải vội vã từ giã gia đình để đi về một nơi rất xa cho kịp nhập học đúng hạn. Hôm đó là một chiều cuối thu, mẹ tôi đang có việc ở làng bên, ba tôi đang bị sốt nên chỉ kịp dặn dò “con cố gắng học để khỏi phải đi lính và tránh cảnh đời làm thuê làm mướn”. Buồn, tôi rời khỏi nhà trong lặng lẽ như kẻ không hồn đi về phía cuối làng cho kịp chuyến xe khách cuối ngày. Tôi nghe rất rõ bước chân của tôi, bước đi bồn chồn lo lắng, bước đi khởi đầu từ mọi khởi đầu: khởi đầu từ tham, từ kiêu căng, tự tự phụ, từ si mê. Cứ đi từ mỗi bước là mỗi bước tôi xa dần tôi và cứ như thế thời gian lặng lẽ lướt nhanh, cuốn theo những thăng trầm trôi nổi trên dòng đời.

Tôi nhận ra rằng có một cái gì đó xô đẩy đời sống về hướng này hay đi về hướng kia hoặc không đi một hướng nào khác. Một cái gì đó không nhân dạng, không bao giờ thể hiện cụ thể lại tác động mảnh liệt đến vận mệnh mà tôi không nhận ra được nó là cái gì.

Cuộc sống nơi đất khách quê người, mang nặng tâm lý “người từ quê ra tỉnh”. Thế giới quanh tôi đã thật sự thay đổi, sự thay đổi qua tâm trạng bèo dạt mây trôi. Tôi rất nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ đầu tắt mặt tối, đội nắng dầm mưa, chân đi không chấm đất trong những khi “chớp bể với mưa nguồn”.

Nhưng với tôi, ngày trở về thật quá xa lắc xa lơ, nỗi nhớ nhung và hoàn cảnh chật chội đã trở thành mảnh đất phì nhiêu nẩy nở trong tôi sức cuốn của dòng văn học nhuộm màu chủ nghĩa hiện sinh “hành động” của J.P.Sartre trong các tác phẩm của chính ông, của A.Camus, của S. Beauvoir. Lúc bấy giờ, bên cạnh J.P.Sartre còn có các dòng hiện sinh khác: hiện sinh phi lý của A. Camus, hiện sinh cơ đốc của G. Marcel, hiện sinh tương đối của M. Ponty.

Tôi tỏ ra đam mê dòng triết học này, ngoài chuyên môn khoa học, vì lẽ đơn giản nó chỉ là nền triết học về con người, tìm hiểu trong chiều sâu, tìm hiểu ý nghĩa về cuộc sống con người như một thực thể tự do. Con người hiện sinh là con người hành động và chính hành động lại xác định bản chất con người. Theo J.P. Sartre thì “hiện sinh có trước bản chất”. Con người là mọi dự tính của mình và như vậy tự tạo ra chính mình. Quan điểm khẳng định của ông mạnh mẽ như một định đề Toán học: hiện sinh đồng nghĩa sự vắng mặt của thượng đế. Chỉ đơn giản như vậy cho nên sự hiện sinh hoàn toàn đối lập với bản chất, và hiện sinh do ngẫu sinh và không bao giờ hàm ý nghĩa tiên nghiệm.

Vì con người hiện sinh tự tạo ra hình ảnh của chính mình nên có yếu tính tự do, thứ tự do mang tính phủ định về tính tổng quát và tính trừu tượng. Tự do là tự do trong tương quan với tha nhân, tự do có trách nhiệm với hành động của mình mà ông gọi bằng thuật ngữ “hành động đích thực”. Nó thể hiện theo chuẩn thiện – ác. Thiện và ác đối với ông không phải là một ý niệm tuyệt đối mà là thứ thiện – ác có liên hệ đến hoàn cảnh sống, đến tình thế sống của con người hiện thời.

Trung thành tuyệt đối với quan điểm triết lý của mình, ông thể hiện trách nhiệm đó khi nói về sứ mệnh văn nghệ: văn nghệ có ý nghĩa gì trong một thế giới đói khát? Điều trước tiên đáng kể nhất là giải phóng con người… (theo Trần Thiện Đạo).

Do quan niệm hiện sinh là ngẫu sinh, hoàn toàn không bao hàm ý nghĩa tiền định nên con người đã trút bỏ mọi ràng buộc tiền định và giành lấy tự do hoàn toàn. Để làm gì? Theo ông để lựa chọn hành động, hành động có trách nhiệm trong tương quan với xã hội. Vì vậy ông đã kich liệt phê phán thái độ ngụy tín của lớp người xã hội và theo ông ngụy tín chính là một thể dạng thoát khỏi tình cảnh tự do bi đát của sự hiện sinh vô cớ của mình, ngụy tín chính là để tiềm thức điều khiển hoạt động thể hiện qua thái độ sống buông xuôi, không thấy thắc mắc một điều gì và sống vô tư lự giữa xã hội, chìm sâu trong cái thế giới giả tạo đầy rẩy bất chính. Theo ông, con người cần tìm lại tự do đích thực để con người thực hiện lấy mình trong hành động đích thực, và để không tuyệt vọng, không yếu đuối từ chối thân phận làm người của mình. Theo ông, sống ở đời thì phải lựa chọn, phải dấn thân, phải tỏ ra vĩ đại trong việc gánh lấy trách nhiệm về mỗi hành động của mình. Chúng ta hiện sinh, chúng ta đang có mặt nghĩa là chúng ta đang được nhìn thấy, ông đã thâu tóm nội dung trong câu bất hủ “L’enfer, C’est les autres”: Tha nhân, chính là địa ngục;  Địa ngục hiểu theo nghĩa: vì tha nhân hiện hữu nên ta phải sống với hiện hữu của họ nghĩa là phải chia xẻ các dự tính, các cảm tính của họ. Lúc đó mỗi cá nhân sẽ không tránh được cái ấn tượng về sự tổn thương cho mình. Từ đó ta chợt nhận được những ngộ nhận, những quy kết sai lạc, những phê phán thiển cận, đó là cội nguồn “địa ngục là tha nhân”.

Thế hệ của chúng tôi, và của các trí thức tiền bối đều sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, cuộc chiến dai dẳng càng ngày càng trở nên khốc liệt, lan rộng khắp mọi nơi, gõ cửa đến mọi nhà tận sâu trong lòng phố thị. Con người cảm thấy khắc khỏi lo âu trước những cảnh đau khổ và có cảm tưởng rằng mình đang sống trong một thế giới đầy phi lý. Những giá trị cũ đã lổi thời, đã bì chiến tranh vùi lấp hay đạp đổ để lại trong tâm hồn một khoảng trống, tạo nên hoàn cảnh thuận lợi cho triết lý hiện sinh của J.P. Sartre và triết lý hiện sinh của A.Camus. Hai dòng triết lý này nhanh chóng trở thành một thứ triết lý thời đại.

Lúc bấy giờ, bên cạnh dòng hiện sinh mang tính tích cực và đạo đức biểu hiện trên quan điểm nhận định tính chất “vô cớ hiện sinh” của con người nhưng không dừng lại ở đó, trái lại J.P.Sartre lại dẫn dắt con người đến hành động hướng thiện trong đời sống cộng đồng. Người ta đã không thể quên đi hình ảnh của J.P.Sartre sáng chói oai nghiêm đầy khí phách trên bồi thẩm đoàn của tòa án Russell thể hiện cái tự do hành động đích thực trong việc kết tội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.

Đối với ông, một khi chiến tranh đã đè nặng lên ta mà ta không suy tư về sự xảy ra của nó thì ta đã tự vứt bỏ cái thiên chức của trí tuệ. Một chủ nghĩa hòa bình đã hình thành trong suy tư của ông và ông xác định đối thoại dù cho cam go vẫn là giải pháp tốt nhất. Tại Hội nghị phong trào hòa bình thế giới ở Viên thủ đô nước Áo năm 1949 ông đã đọc tham luận, một bài tham luận với tràn ngập tiếng vỗ tay.

Tuy vậy vẫn xuất hiện một lối nhìn ngộ nhận nguy hiểm về tính nhân bản trên việc thể hiện một cách hời hợt, dòng triết lý có chiều sâu thẳm về nhân bản này. Hậu quả của ngộ nhận được khai thác dữ dội và rộng khắp trên các phương tiện văn học như sách báo, tạp chí… Qua đó ta bắt gặp những gì?

   * Chủ nghĩa hiện sinh đã mô tả đời sống con người như một thảm kịch, một hư vô, một phi lý.

   * Chủ nghĩa hiện sinh không phủ định đối với xã hội tiêu thụ mà lựa chọn hiện sinh trong “bóng mát khoái lạc”.

   * Cuộc đời là vô vị, lạc lỏng; là nỗi thống khổ dai dẳng đáng buồn và tuyệt vọng. Nếu có le lói hy vọng thì đó cũng là khởi điểm của tuyệt vọng. Theo họ, để tránh tuyệt vọng thì phải buồn nôn các hiện hữu trước mắt, để cảm nhận được cái hương vị của khoái cảm đau khổ và sầu muộn.

   * Rập khuôn theo quan niệm của A. Camus, nổi loạn cũng là phương tiện giải thoát khỏi thống khổ của thân phận. Nổi loạn là từ bỏ mọi bất công và được thúc đẩy bởi bộc phát ý thức và tình yêu.

   * S. Beauvoir và F.Sagan là hai nhà văn nữ hiện sinh được hâm mộ của nhiều người, bởi vì họ biểu lộ một lối sống phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Đất nước mù mịt khói lửa. Sinh ly tử biệt nhan nhản hàng ngày và càng ngày càng trầm trọng. F.Sagan nói “ước gì mình có thể hư hỏng và vui với hư hỏng còn hơn là chết cóng”.

Bên cạnh đó, người ta còn chứng kiến một lối sống huyênh hoang, lố lăng, hời hợt, cuồng dại, vội vàng, giật gân mang danh là lối sống hiện sinh nhưng có lẽ họ chưa bao giờ hiểu rõ hiện sinh là gì. Họ chỉ nghĩ thật đơn giản: có chiến tranh đất trời mịt mù thuốc súng, con người đang hiện hữu trong niềm tuyệt vọng, và tuyệt vọng chỉ cách xa cái chết một gang tấc mỏng manh, thế thôi.

*

*     *

Vạn pháp có sinh có diệt, đó là quy luật tồn tại muôn đời. Từ khởi nguyên của thế giới muôn loài hữu tình, từ sinh vật bé nhỏ cho đến loài người tinh khôn đều có dục vọng sinh tồn vô hạn. Thế gian là dòng thác sinh mệnh không dừng. Bảo trì sinh mệnh cá thể, tiếp nối kéo dài sinh mệnh chủng tộc là khát vọng vô hạn. Đối với con người, một khi khởi tâm yêu mến sự sinh tồn thì không thể thoát khỏi thảm họa chiến tranh, bởi vì chiến tranh phát sinh từ tâm lý cầu được sống, mong muốn được sinh tồn.

Phật giáo xem: “các pháp vô ngã, các hành vô thường, các cảm thọ đều khổ” và đây chính là thực tướng của thế gian. Con người, các sinh mệnh của họ được xem là trung tâm của thế gian đều ở trong sự vô thường biến hóa, sinh cũng là diệt, diệt sinh – sinh diệt liên tục không ngừng. Dòng thác này tràn ngập niềm vui vì yêu thích sinh tồn nhưng thực tướng của sinh tồn là khổ.

“Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi

Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu”.

                                   (BG)

Có vui phải có khổ, có ái ắt có giận, tất cả sở hữu đều là khổ, muốn cầu sinh tồn thì không thể tránh thảm họa chiến tranh. Đây là thực tướng của thế gian.

Phật giáo nhìn thấu vô thường, khổ, vô ngã của thế gian mà làm phương tiện khai triển trên các pháp thế gian để mọi người cùng vui, cùng tồn tại. Chánh pháp nhân thừa của Phật giáo thể hiện nền tảng đại từ đại bi, hoàn toàn không câu thúc ý chí sinh tồn xuất phát từ yêu cầu của cộng đồng nhân loại, xem cuộc sống là trung tâm hoạt động của nhân gian, là thước đo chuẩn mực đạo đức.

Chiếm đoạt là thực tướng của thế gian, chiến tranh ở mọi hình thức là chuyện thường tình trong nhân gian. Đức Phật không hề phủ định chiến tranh. Vấn đề ở chỗ như thế nào mới cần chiến tranh và phải chiến tranh ra sao.

Bất khứ bất lai. Phật không đi không đến, chỉ có chúng sinh như tôi tâm địa điên đảo cứ chạy lòng vòng trong sa mạc thấy bóng nắng trên cát tưởng lầm là vũng nước. Tâm thức lưu đày bao phủ dày đặc lớp màng vô mình như người đi trong đêm tối sâu thẳm, chẳng thấy đến được nơi đâu. Để rồi trong sâu thẳm của sự yên lặng chợt đến, tôi bỗng nghe bước chân của tôi trở về, mỗi bước mỗi gần, gần chỗ mình vừa đi, chỗ hết tham khi khởi niệm hết tham. Bước chân trở về là bước chân sám hối, bước chân biết sự lỗi lầm, bước chân người đang tìm nước trong sa mạc để múc từng bụm tay rửa dần lớp bụi ngã mạn kết tụ từ vô lượng trên đôi chân phiêu bồng:

“Những nhịp bước trên đường còn dội mãi

Vang về đâu không vọng lại hồi âm”

                                                                                Bùi Giáng

Bất khứ bất lai, Phật là người không đi không đến. Ngài vẫn thường trụ trong Cõi Ta Bà. Con nguyện xin được nương bóng từ bi của Người trong những quãng đời nối tiếp của con.

                                                                     

Mùa Hạ PL 2555

Chia sẻ: facebooktwittergoogle