Đặng Công Hanh
v
Thế giới Lượng tử
Chúng ta đang
sống trong một thế giới ngày càng bị chiếm lĩnh bởi khoa học và công nghệ. Đồng
thời với mô hình tư duy do nó tạo ra, lối sống nặng khuynh hướng trục vật. Hơn
thế nữa, dường như những trí thức bắt nguồn từ khoa học - công nghệ ngày càng
đối lập với trật tự sâu xa của những xác tín ở cái thiêng liêng, ở cái siêu hình
và ngôn từ triết học, ngôn từ tôn giáo đã mất đi sức mạnh chân lý như trong thế
kỷ trước đây.
Theo ý kiến
chung của các nhà khoa học thì trước năm 1900, ý niệm về vật chất thật đơn giản:
nếu đem nghiền nát một hòn đá thì kết quả trong đám bụi cực nhỏ sinh ra là các
phân tử, phân tử đó bao gồm các nguyên tử được xem như không thể phân chia được
nữa và xem đó là viên gạch xây nên "ngôi nhà" vật chất. Với tư duy khoa học đơn
giản này đã dựng lên một ranh giới tự nhiên giữa khoa học với niềm tin tôn giáo,
giữa tinh thần và vật chất. Vật chất thông thường được biết là cấu tạo bởi các
nguyên tử và phân tử.
Tất cả những
vật bao quanh chúng ta: từ cái bàn, cái ghế, lọ hoa, kể cả bản thân chúng ta nữa,
đều được tạo nên bởi thứ vật chất đó.
Thế nhưng, vào
đầu những năm 1900 - sự xuất hiện của lý thuyết lượng tử xác định rằng muốn hiểu
được cái hiện thực quanh ta thì cần phải từ giã các khái niệm truyền thống về
vật chất với các đặc trưng cụ thể cảm nhận được qua các giác quan. Rằng không
gian và thời gian chỉ là ảo ảnh, rằng hiện thực là không thể nhận thức được. Cái
hiện thực của những thực thể lượng tử đã làm thăng hoa các ý niệm thông thường
về không gian và thời gian. Theo Jean Guitton, Viện sĩ Hàn lâm Pháp: chúng ta
tồn tại qua một cái gì đó mà chúng ta không nắm bắt được bản chất và những thuộc
tính đáng kinh ngạc của nó, nhưng lại tiến tới tinh thần hơn là tới vật chất
truyền thống.
Ta thử bắt đầu
từ việc quan sát một giọt nước chẳng hạn, theo ước định của các nhà vật lý thì
giọt nước này có 1 ngàn tỉ phân tử, mỗi phân tử có kích thước 1/109
mét. Mỗi phân tử chứa các nguyên tử có kích cỡ nhỏ hơn nửa, khoảng 1/1010
mét. Mỗi nguyên tử gồm một hạt nhân càng nhỏ hơn, khoảng 1/1014 mét
và những electron quay quanh nhân. Mô hình này do nhà vật lý Nhật Hantaro
Nagaoka đưa ra năm 1904 và được Rutherford kiểm
chứng năm 1911.
Đi sâu vào
trong lòng hạt nhân ta gặp thấy một đám những hạt mới, trong đó hạt quan trọng
là proton và neutron nhỏ kỳ lạ, có kích thước 1/1015
mét. Từ vài mươi năm sau này, người ta còn khám phá thêm các hạt nhỏ hơn
nữa gọi là các hadron và các hadron bản thân chúng cũng gồm các thực thể cực nhỏ
không thể tưởng tượng được, cỡ 1/1018 mét, gọi là quark. Năm 1964, hai nhà vật lý Murray
Gell -Mann và George Zweig đưa ra giả thuyết quark là viên gạch cơ bản tạo nên các
hạt.
Phần đông các
nhà vật lý chấp nhận ý tưởng cho rằng không thể nào biết được kích thước vật thể
của quark, người ta đã đi tìm chúng khắp trong các tia vũ trụ hay trong
phòng thí nghiệm nhưng không hề bắt gặp. Mô hình
quark
xuất hiện như một hư cấu toán học nhưng lại có ưu thế vận hành hiệu quả nhưng
không có thực.
Lý thuyết về
hạt giả định này lần đầu tiên vào năm 1964 do nhà vật lý Murray Gell Mann đề
xuất, theo ông thì tất cả các hạt được biết đến là sự kết hợp một vài
quark cơ bản khác nhau. Các nhà vật lý đã nghĩ đến nhiều loại
quark khác nhau, mỗi thứ có hai đặc tính khác nhau tạm gọi là "màu" và "vị"
theo nghĩa trừu tượng. Có ba loại quark
khác nhau, mỗi loại có 2 vị và 3 màu, như vậy có 18 chủng loại
quark. Vật chất thông thường gồm những quang tử và trung hòa tử của các nhân
nguyên tử. Đối với con người hay các loại hoa chỉ gồm các loại
quark
chỉ chứa 2 vị: "vị trên" và "vị dưới". Một
quark
vị trên có thể biến thành quark
vị dưới và ngược lại khi điện tích của nó thay đổi (theo Giáo sư thiên văn học
Trịnh Xuân Thuận). Và điều xác quyết sau cùng là các
quark bị dồn về phía bên kia ranh giới của hiện thực quan sát được và sự
hiểu biết của chúng ta về hiện thực chỉ dựa vào một kích thước "phi vật chất",
một tập hợp thực thể không kiểu thức, không hình thức, một không thời gian siêu
việt, mà thực chất của nó chỉ là một đám mây của những con số (ý tưởng nhà vật
lý I. Bogdanov).
Có lẽ do sự
hiện hữu đầy dẫy bí ẩn của các quark
mà các nhà vật lý đã định danh là "ma trận s". Ma trận này không nhằm mô tả tự
thân của các quark mà chỉ cho phép nắm bắt cái hình bóng của nó qua các tương
tác. Vì vậy, các hạt cơ bản không tồn tại bởi tự bản thân nó như những vật thể
mà chỉ được biết qua những "hệ quả" do chúng tạo ra mà thôi. Tập hợp hệ quả ấy
gọi là "trường lượng tử tương đối". Theo I. Bogdanov thì "trường" thực chất là
dao động, đó là một tập hợp những dao động tiềm tàng mà các hạt cơ bản có bản
chất khác nhau gắn vào. Các hạt này đến lượt nó là những biểu hiện "vật chất"
của "trường" có thể di chuyển trong không gian và đi vào sự tương tác không
ngừng, nhiều vô số của chúng với nhau.
Vì vậy, truy
cho đến tận cùng thì không còn tìm thấy đâu là vật chất ít ra dưới hình thức một
vật, một mẫu cuối cùng của hiện thực.
Những nhận
thức lượng tử về vật chất làm cho chúng ta hiểu rằng chẳng có gì bền vững ở cấp
độ cơ bản, mọi cái đều ở trạng thái vận động vĩnh hằng, mọi cái đều biến đổi
không ngừng. Điều mà chúng ta tưởng bất động, im lìm thật ra gồm vô số vận động,
những phân rả, hay những gắn kết lộn xộn. Sau cùng, các vật bao quanh ta chỉ là
khoảng chân không, là những rung động cuồng nhiệt của các nguyên tử.
Thử quan sát cơ thể con người chẳng hạn: Cơ thể được cấu trúc bằng sự kết hợp
các mô. Mô lại do các tế bào, tế bào lại do các phân tử, các phân tử do kết hợp
của các nguyên tử. Nguyên tử do sự kết hợp các hạt cơ bản và rốt cuộc không thấy
cái thực chất nào tạo ra hạt cơ bản đó. Nhiều nhất là thấy các hệ quả do sự gặp
gỡ của các hạt cơ bản đó sinh ra, thoáng qua một cách ma quái mà các nhà khoa
học gọi là "sự tương tác". Theo quan điểm của Einstein: hạt là năng lượng - sự
gặp gỡ giữa các hạt là sự tương tác năng lượng với năng lượng.
Cái vật chất
mà các nhà vật lý cổ điển tưởng như tồn tại hóa ra chỉ là những sát na sinh diệt
miên viễn. Các hạt xuất hiện từ không, rồi biến mất sau khi có. Đến lúc này khoa
học phải cần đến triết học, nhận thức học và bản thể học để trợ giúp tìm hiểu
"hiện thực", nằm về phía bên kia tri thức thường nghiệm.
v
Sắc tức thị không, không
tức thị sắc
Một trong
những điểm giáo lý quan trọng của Phật giáo phát triển là "thực tại tính không",
một hệ thống giáo lý được bàn cãi khá nhiều trong một thời gian dài, thậm chí
còn bị hiểu lầm là một loại hư vô luận và bị phê phán như là loại triết lý mông
lung không hơn, không kém. Điều đó xảy ra bắt nguồn từ quá trình diễn dịch không
chu đáo, và làm xuất hiện một số mâu thuẫn về mặt nhận thức khi nói đến Không.
Chẳng hạn cách đặt vấn đề sau đây:
- Những gì
xuất hiện lồ lộ trước mắt là đối tượng của nhận thức như cây cối, nhà cửa, sông
núi, xe cộ và các vật dụng khác, đều được xem là hiện thực không thể chối bỏ.
Một sự phán quyết rằng thế giới này, thực tại này rỗng không hoặc mang đặc tính
không là quá gượng ép, dễ bị phê phán bởi nhận thức thông thường.
- Khi tính
Không được hiểu là bản chất của thế giới hiện thực, và như vậy sẽ đồng nghĩa với
Niết-bàn. Vì hầu hết các giáo thuyết về Niết-bàn được gợi lên một sự tương đồng
với cảnh giới: tịch diệt, vô tướng, bất sinh, bất diệt v.v... Đó là một mâu
thuẫn vì Niết-bàn vẫn được quan niệm là cảnh giới tối thượng của bậc Thánh trí
nên không thể nói Niết-bàn đồng nhất với Không.
Vậy phải hiểu
thế nào?
Không là tự
tính rỗng không. Mọi hiện hữu do duyên hợp (kết hợp bởi nhiều thành phần) mà
hình thành thì chúng không có tự tính, nên gọi là Không. Chẳng hạn, nước là do
hydro kết hợp với oxy hợp thành. Như vậy nước là không có tự tính nên không thể
là một thực thể bất biến, nó là rỗng không.
Do vậy, Tính
Không không có nghĩa là không có gì cả hay là hư vô, mà cơ bản nhất là sự phủ
định tính cá biệt tự tính được xem là một thực thể bất biến, là tự ngã v.v...
Ta có thể nhận
ra rằng: những gì mà đức Phật nói ra đều mang tính 2 mặt: công ước và tuyệt đối,
bản chất và hiện tượng để giúp chúng sinh nhận diện được chân lý qua phương tiện
truyền giáo. Bởi vì chân lý tự thân nó là bất khả thuyết, những gì ta nói về
chân lý đều không phải là chính bản thân chân lý.
Tâm Kinh nói
rằng: Hễ cái gì là sắc thì cái đó là Không. Ở đây sắc thuộc về thế giới vật lý,
thế giới sự vật hiện tượng. Có thể ở dạng biểu hiện như cứng, mềm, nóng, lạnh
v.v... hoặc dạng không biểu hiện như vô thường, vô ngã của sắc tướng, chịu sự
diễn biến của sinh, trụ, dị, diệt v.v... Còn Tính Không là một danh từ dùng để
giải nghĩa cái thuộc tính của thế giới sự vật hiện tượng dựa trên hai tính chất
nội hàm và ngoại diện.
Theo Bồ Tát
Long Thọ, Tính Không có nghĩa là tất cả sự vật, hiện tượng chỉ là hiện hữu tương
quan, do đó không có tự tính. Tuy vô tự tính nhưng vạn pháp vẫn tồn tại hiện
hữu. Như vậy, sự vật được hình thành là do duyên khởi, không mang một bản tính
cá biệt nào và hình thành trong tương quan với nhận thức nên chúng được gọi tên,
tên đó là giả danh. Chẳng hạn khi mặt trời vừa khuất núi, ánh sáng trở nên vàng
vọt yếu đuối ta gọi đó là hoàng hôn. Hoàng hôn chỉ là giả danh.
Mặt khác, mọi
hiện tượng, sự vật hiện hữu là do duyên khởi thì không có tự tính dị biệt tức là
duyên sinh vô tính nên duyên sinh là Không. Đó là ý nghĩa Trung đạo.
Vậy, Tính
Không phải được nhìn nhận từ hai phía: Giả danh và Trung đạo.
Nói "Trung
đạo" là nói về chân lý của hai bình diện: tương đối và tuyệt đối. Đấy là một
loại chân lý, theo quan điểm của Đại thừa là bất khả phân ly, một loại chân lý
"Hãy tìm Niết-bàn trong sinh tử".
Nếu đem đối
chiếu hai danh từ Không và Duyên khởi với danh từ Trung đạo thì Trung đạo khẳng
định hơn nhưng tựu trung chỉ là một phát biểu của Bồ Tát Long Thọ nhằm phủ định
tính thực hữu của thế giới hiện tượng mà thôi.
Trung đạo là
không chấp có, không chấp không, không khẳng định, không phủ định. Nó có vai trò
chuyển từ Duyên khởi qua Không, rồi trở lại có Duyên khởi dưới dạng thức giả
danh.
Vậy, khi nói
đến tính Không thì phải đồng thời nói đến Duyên khởi, Giả danh và Trung đạo. Đây
là hai bình diện chân lý của tương đối và tuyệt đối.
LỜI KẾT
Hai câu kinh Phật viết ở
đề bài được trích từ Tâm kinh Bát-nhã. Về mặt lịch sử, kinh Bát-nhã là bộ kinh
đầu tiên truyền bá tư tưởng Phật giáo Đại thừa, bắt nguồn từ Ấn Độ và trung tâm
của kinh là Tính Không. Bản kinh Bát-nhã được cô kết lại gần 300 chữ và được phổ
biến rộng trong các nước Viễn Đông châu Á. Khởi thủy, kinh này được Phật thuyết
giảng lúc Ngài đã ngoài 60 tuổi, có nghĩa là cách đây 26 thế kỷ. Về nội dung,
kinh Bát-nhã được xem là "Trái tim" của tư tưởng Phật học, được nói ra bởi tuệ
giác vô thượng của Phật nhằm dẫn dắt chúng sanh đi vào thực tại giải thoát.
Ngài đã dạy mọi pháp môn
tu học để chúng ta lãnh hội tùy theo căn cơ và trình độ giác ngộ nhằm thức tỉnh
cái "tính giác" tức giác quan nội tại ẩn chìm trong bản tính sâu thẳm nhất của
chúng ta. Một khi đạt được cái "tính giác" ấy thì chúng ta vượt lên trên quan
điểm nhị nguyên về hiện hữu để nhận ra tường tận vạn pháp không thật, như huyễn
như hóa. Khi đó, chúng ta mới nhổ hết gốc rễ mọi khổ đau, của vô minh vi tế ra
khỏi tâm trí. Đó là giáo lý từ bi cứu khổ của đạo Phật.
Đứng trên lập trường Trung
đạo, chân lý tương đối và tuyệt đối được thiết lập để giải thích hai mặt có và
không có của mọi sự vật hiện tượng. Theo các luận sư Phật giáo, chính theo Tục
đế mà đức Phật nói tất cả pháp có được là do nhân duyên, nhưng theo Chân đế thì
nói tất cả các pháp đều Không.
Đứng trên Tục đế (hay chân
lý tương đối) thì thực hữu được xác nhận và kiểm chứng bằng trí thức thường
nghiệm. Đó là đích và mục tiêu phát triển của khoa học - công nghệ, khi đó vạn
hữu bị chi phối bởi nguyên lý tương đối và được nhận thức trên bình diện nhị
nguyên Hữu và Vô. Từ đó khoa học, công nghệ gặt hái những thành quả rực rỡ, đồng
thời chứng minh được tính phi lý của những tư tưởng siêu hình.
Nhưng còn "Tính không" của
Trung luận thì sao đây? Các nhà vật lý lượng tử đã lặn sâu vào thế giới cực vi
cũng chỉ thấy cái "Không lượng tử" - mang năng lượng do "tương tác ma quái" và
do những nhiễu loạn của năng lượng trong Không lượng tử mà vật chất và phản vật
chất được sinh ra, tương tác lẫn nhau, phân rã rồi trở về lại không. Nhà vật lý
kỳ tài người Mỹ sau Einstein là Richard Feynman đã nói vui rằng: "Từ chân không
mà sinh hủy, hủy sinh, ôi quá phí phạm thời gian!"
Phải
qua trải qua gần 25 thế kỷ, sau khi đức Phật thuyết giảng: "Sắc tức thị không, Không tức thị sắc", các bộ óc tài năng, xuất sắc của nhân loại mới minh
thị được cái chân lý tương đồng đó.
Ta thử ngắm nhìn một đóa
hoa vàng trên chậu hồng. Một người tuổi ở độ thanh xuân thấy như một biểu tượng
hứa hẹn, hy vọng và mơ mộng. Một người luống tuổi đã trải nghiệm hay trầm tư
thấy nó biểu hiện cái gì mong manh và trực cảm như một lời chia tay. Một nhà vật
lý lượng tử nhìn thấy chúng chỉ được tạo bởi những hạt
quark
một sản phẩm của trí óc, không hiện thực xét đến cùng.
Mục đích của Phật học qua
thuyết giảng của đức Phật là xóa bỏ sự gắn bó (chấp thủ) với tính hiện thực của
cái xuất hiện trước mắt chúng ta: chúng sinh, các sự kiện, sự vật và cả chúng ta
nữa. Sự gắn kết, bám víu đưa đến sự vui, buồn, yêu, ghét v.v... mà thực chất là
những nhãn hiệu của khái niệm. Rốt cuộc chỉ là sự đau khổ và cái đau khổ thật
mênh mông diệu vợi. Trong "Mưa Nguồn" được sáng tác ở thời trai trẻ tràn đầy
nhựa sống, thi sĩ Bùi Giáng đã lầm lũi bước trên nỗi bơ vơ, lạc lõng trong cõi
nhân sinh:
“Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng
Bóng hình ai tơi tả dưới trăng rằm”
Đến khi tuổi đời chồng chất, đè nặng trên đôi chân, nhà thơ bắt đầu "ngộ" ra một
điều gì đó trong sâu thẳm, tâm thức đã mở rộng vượt qua những khổ đau thật nhẹ
nhàng:
"Tôi ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm năm”
Và ông trở nên bình an, vui vẻ hơn:
"Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau”.
Đồng thời, thể nhập vào được cảnh giới của Tính Không:
"Ta đã hái nhành hoa kia của đá
Và đã trao cho nham thạch phiêu bồng”
Tài liệu tham khảo:
1. Nhận thức và không tính: Hồng Dương Nguyễn Văn Hai, NXB Tôn giáo 2001
2. Thiền và Bát nhã: Tuệ Sỹ dịch, NXB Quang Thắng 2006
3. Max Planck: Phạm Xuân Yêm, NXB Trí Thức 2009
Nguồn: Tập san
Hoằng pháp 31