Rất cần thiết phải có được sự hiểu biết chính xác
trước khi chúng ta tu tập theo Phật pháp; nếu không, chúng ta sẽ bị phí công tu
tập vô ích, vì không đạt được kết quả mong muốn. Do vậy, nên tôi xin trình bày
cho quý vị đồng tu về cốt tủy của Phật pháp một cách đơn giản.
Lịch sử Trung Hoa cho chúng ta biết cách đây chừng
3000 năm, người khai sáng đạo Phật là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài ra đời ở
miền Bắc Ấn Độ vào năm Chu Chiêu vương thứ 24 (Giáp dần), nhập niết-bàn vào năm
Chu Mục vương thứ 53 (Nhâm thân). Ngài trụ thế 79 năm và dành suốt 49 năm giảng
kinh thuyết pháp cho chúng đệ tử. Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn chừng 1000 năm,
vào năm 67 sau C.N. (niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10), Phật giáo mới chính thức được
truyền bá vào Trung Hoa.
Để có được nhận thức toàn diện về
Phật học, trước hết chúng ta cần phải biết: Thế nào là ‘Phật’? Thế nào là ‘Pháp’?
Thế nào là ‘Phật pháp’? Thế nào là ‘Phật giáo’? Những vấn đề này, đối với những
người tu học Phật pháp rất là quan trọng.
‘Phật’ là tiếng Phạn (Sanskrit), có nghĩa là ‘trí
huệ, giác ngộ’. Tại sao nay không dùng hai chữ ‘trí, giác’ để phiên
âm, mà lại dùng chữ Phật-đà? Vì ý nghĩa của chữ Phật-đà
(Buddha) vô cùng sâu mầu. Từ vựng của hai chữ ‘trí, giác’ trong tiếng Hán
không bao hàm hết ý nghĩa trên, do vậy nên phải dùng tiếng phiên âm kèm thêm
những giải thích rộng hơn.
Về mặt thể, Phật có nghĩa là trí huệ, về mặt dụng Phật có
nghĩa là giác ngộ. Giải thích trên phương diện bản thể, trí huệ có 3 loại:
1. Nhất thiết trí: Dùng danh từ triết học hiện
đại để giải thích, đó là sự hiểu rõ chính xác tường tận về bản thể vũ trụ, là
trí huệ nhận biết toàn thể mọi hiện hữu trong pháp giới. Đó là trí huệ của hàng
Thanh văn.
2. Đạo chủng trí: Chủng
là chỉ cho vô lượng vô biên các hiện tượng trong vũ trụ. Các hiện tượng ấy vì
đâu sanh khởi, từ đâu đến, quá trình sinh khởi như thế nào? Kết thúc ra sao?
Biết rõ việc này gọi là Đạo chủng trí, là trí huệ của hàng Bồ-tát.
3. Nhất thiết chủng trí: Thấu suốt mọi chân
tướng của hết thảy vũ trụ nhân sinh không chút mê lầm. Đó là trí huệ của chư
Phật.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có đủ 3 trí huệ này, hoàn
toàn thấu triệt thực tướng của nhân sinh và vũ trụ.
Tác dụng của trí huệ là sự giác ngộ lớn lao. Trong
kinh, Đức Phật giảng cho chúng ta có 3 loại giác ngộ:
1. Tự giác: tự mình được giác ngộ, không còn
chút vọng tưởng mê lầm từ thân, miệng và ý. Các vị A-la-hán và Bích-chi Phật
trong truyền thống Phật giáo Tiểu thừa đều đạt được mức độ tự giác này,
nhưng không phát tâm bồ-đề để giúp cho mọi chúng sinh đều được giác ngộ.
2. Giác tha: là khi mình được giác ngộ rồi, lại
giúp cho mọi người đều được giác ngộ như mình. Hàng Bồ-tát Đại thừa đã đạt đến
mức độ giác ngộ này.
3. Cứu cánh viên mãn: là khi đã đạt được trọn
vẹn hai trình độ giác ngộ trên, đã tự mình giác ngộ và giúp cho mọi chúng sinh
đều được giác ngộ. Đó là năng giác ngộ của chư Phật.
Đức Phật dạy rằng đức tướng trí tuệ giác ngộ viên mãn này tất cả chúng
sinh đều tự có đủ. Kinh Viên Giác
nói rằng “Tất cả chúng sinh vốn đã thành Phật từ lâu nay rồi.”;
và Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Tất cả chúng sinh đều có sẵn đức tướng trí huệ Như Lai.”
Nói cách khác, về bản tánh, mọi chúng sinh đều bình đẳng với chư Phật, không
chút sai biệt. Tuy nhiên, vì chúng ta có quá nhiều vọng tưởng và chấp trước, là
cội gốc của mọi bệnh khổ, nên tạm thời chúng ta quên mất tánh Phật, và mãi bị
trôi lăn trong luân hồi sinh tử vô tận.
Nếu chúng ta trừ khử được những vọng tưởng chấp trước
càng nhiều, thì chúng ta càng mau chóng thoát khỏi khổ đau, và đức tướng trí huệ
giác ngộ càng sớm hiển lộ. Một khi chúng ta hoàn toàn thoát khỏi hẳn phân biệt
vọng tưởng chấp trước, thì chúng ta sẽ nhận ra Phật tánh, sẽ có được trí huệ
giác ngộ viên mãn mà ta đã lỡ đánh mất.
Một khi có được trí huệ giác ngộ viên mãn này rồi là
chúng ta thực sự nhận ra hết thảy vô tận mọi sự mọi vật trong vũ trụ. Chữ ‘vạn’
trong ‘vạn vật’ không thể dùng ngôn từ và con số mà diễn tả được, chỉ có thể
hình dung là nhiều cùng cực, là vô lượng của vô lượng.
Trong kinh Đức Phật thường dạy rằng nhỏ như lỗ chân
lông trên thân người, hoặc nhỏ như đầu sợi lông (chỉ cho chánh báo), hoặc nhỏ
như hạt vi trần (chỉ cho y báo); cho đến lớn như hư không pháp giới, tất cả đều
là đối tượng từ trong tâm giác ngộ của chúng ta. Đức Phật dùng danh từ ‘Pháp’
để chỉ cho vạn sự vạn vật này. Chữ ‘Phật pháp’
là chỉ cho trí huệ giác ngộ biết rõ hết thảy vô tận vạn vật nhân sinh trong vũ
trụ. Người Trung Hoa thường nói là ‘Phật pháp vô biên’, vì trí huệ để nhận ra
được các hiện tượng này là không có ngằn mé,
và các hiện tượng trong vũ trụ được nhận biết cũng không có hạn lượng. Trí tuệ
vô lượng vô biên này chính là năng lực có trong bản tánh của mỗi chúng ta.
Đức Phật dạy rằng ‘Năng lực trí tuệ vốn có trong bản
tánh các ông và các hiện tượng trong vũ trụ mà các ông nhận biết được là một
chứ không phải hai.’
Khi chúng ta chiêm nghiệm thật sâu sắc về vấn đề này, nếu thấy lời dạy của Đức
Phật là hoàn toàn chính xác, thì chúng ta có thể tin chắc rằng trí huệ giác ngộ
là cứu cánh viên mãn. Còn nếu năng lực nhận biết (năng tri) và đối tượng được
nhận biết (sở tri) là đối lập nhau thì trí huệ giác ngộ sẽ bị hạn cuộc, khó lòng
mà được cứu cánh viên mãn.
Đức Phật dạy rằng ‘năng tri’ và ‘sở tri’, ‘năng giác’
và ‘sở giác’ của chúng ta chỉ là một, không phải hai. Đây được gọi là Nhất
chân pháp giới, cảnh giới chân thật, viên mãn, tối thượng của Kinh Hoa
Nghiêm. Cõi Tây phương Cực lạc của Tịnh độ tông cũng thuộc về và không tách rời
Nhất chân pháp giới này. Cõi Tây phương Cực lạc này do Đức Phật A-di-đà kiến lập
theo bổn nguyện của Ngài, đó là nơi lý tưởng cho những người tu tập phát nguyện
vãng sanh để không còn bị luân hồi sinh tử trong sáu đường dữ nữa.
Vào năm Dân quốc thứ nhất (1923), một học giả Phật
giáo nổi tiếng là ông Âu Dương Cánh Vô (Jing Wu Ou-Yang) đã giảng thuyết đề tài
“Phật pháp không phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học, mà là nhu cầu tất
yếu của thời đại” tại trường Đại học Trung Sơn đệ tứ (nay là Đại học Sư phạm
Nam Kinh), đã gây chấn động cho mọi giới ở Trung Hoa đương thời. Lời diễn giảng
đầy thuyết phục của ông đã góp phần xác định ý nghĩa và quan điểm đúng đắn của
Phật pháp.
Thích Nhuận Châu dịch
Chú thích:
Viên giác kinh圓 覺 經; C:
yuánjué-jīng; J: engaku-kyō;
tên gọi tắt của Ðại phương quảng viên giác tu-đa-la
liễu nghĩa kinh
(s:Mahāvaipulyapūrṇa-buddhasūtra-prasannārtha-sūtra);
Một bộ kinh Ðại thừa quan trọng được ngài Giác Cứu (Phật-đà Ða-la;
s:
Buddhatrāta) dịch sang Hán ngữ năm 693. Kinh này gồm 12 chương, lấy tên của 12
vị Ðại Bồ-tát làm tên của mỗi chương. Phần nội dung và phần kết thúc bao gồm 12
lần hỏi đáp. Trong kinh này, 12 vị Ðại Bồ-tát, trong đó có hai vị Văn-thù và Phổ Hiền, được chỉ dạy
về sự viên mãn của Giác ngộ (Viên giác). Kinh này có ảnh hưởng rất lớn trong
Thiền tông.
一 切 眾生,本 來 成 佛
華 嚴經 (s: Avataṃsakasūtra hoặc Gaṇḍavyūha);
Kinh Ðại thừa cơ bản của Hoa Nghiêm tông. Kinh nhấn mạnh
đến tính vô ngại
của mọi hiện tượng và chủ trương rằng, Tâm con người chính là vũ trụ và đồng thể
với tâm Phật. Kinh Hoa Nghiêm thuộc hệ Phương đẳng, gồm 81 quyển mà phần dài
nhất là phẩm Hoa Nghiêm (s: gaṇḍavyūha). Một phẩm
quan trọng khác là Thập địa (s: daśabhūmika). Ngày nay người ta chỉ còn tìm thấy
kinh Hoa Nghiêm bản chữ Hán được dịch vào thế kỉ thứ 5. và chữ Tây Tạng.
一 切 眾生皆 有 如 來 德 相 智 慧, 但 以 妄 想 執 著 而 不 能 證 得.
s:Dharma; p:
Dhamma.