Thích Thái Hòa
Tiếp Xúc Với Tâm Và Nguyện Bồ Đề:
Là đệ tử Phật, chúng ta tiếp xúc với sự ra đời của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni của chúng ta là chúng ta có cơ hội tiếp xúc với tâm Bồ đề nơi Ngài và ở nơi
mỗi chúng ta.
Nếu Đức Phật không có tâm Bồ đề, thì Ngài đã và sẽ không có mặt với chúng ta. Vì
Ngài đến với chúng ta bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài có tự do trong khi đến
và có tự do trong khi đi. Chúng ta đến với Ngài cũng bằng tâm và nguyện Bồ đề,
nên Ngài mãi mãi có mặt ở trong mỗi chúng ta và chúng ta cũng mãi mãi có mặt ở
trong Ngài.
Học hỏi và nghiên cứu các hệ thống kinh điển đã giúp cho ta biết rằng, Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã phát Bồ đề tâm hành Bồ tát đạo rất lâu xa. Lâu xa đến nỗi
không thể dùng những con số của toán học để ước lượng hay tính đếm và cũng không
thể nào dùng tri thức của con người để trắc lượng hay suy tưởng. Và cũng vì vậy
mà Ngài đã thành Phật lâu lắm rồi, chứ không phải chỉ mới có đời nầy.
Đức Phật xuất hiện cách đây hơn 26 thế kỷ, tại vườn Lâm tỳ ni, nước Nepal chỉ là
vì bản nguyện độ sanh mà Đức Phật thị hiện đó thôi. Nên chuyện ghi lại ở trong
các kinh điển, Bồ tát Tất đạt đa tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
ra đời bên hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen và nói:
“Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”, có chư Thiên trổi nhạc cúng dường và
dùng những vòi nước hoa để phun rửa, khi Bồ tát Tất đạt đa ra đời là chuyện hoàn
toàn có thật, chứ không phải là huyền thoại.
Có thật, vì Ngài xuất hiện giữa cõi đời nầy với tư cách của một vị Bồ tát Nhất
sanh bổ xứ, có đầy đủ đại bi, đại trí, đại nguyện và đại hạnh của tâm bồ đề, qua
hình thức của một người phàm, mà không phải phàm, để đem lại lợi ích cho cuộc
đời, chứ không phải là chuyện của một người phàm bình thường khi sinh ra giữa
cuộc đời.
Nên, những đặc điểm khi Bồ tát Tất đạt đa xuất hiện được ghi chép ở trong kinh
điển là chuyện có thật. Có thật, vì đó là chuyện của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ
xứ giáng trần, mà không phải là chuyện của một người thường. Và đó là chuyện có
thật mà không phải là huyền thoại, vì mọi việc làm và biểu hiện của một người
lớn trong đôi mắt trẻ thơ đều là khó hiểu và đều trở thành huyền thoại đối với
chúng cả!
Chúng ta vì nghiệp lực mà sinh ra, nên chúng ta không có được cái vinh hạnh đó
như Bồ tát. Vì vậy, chúng ta không thể dùng con mắt phàm phu để mà nhìn Bồ tát,
hoặc so sánh về một bậc Giác ngộ. Nếu ta đem con mắt phàm phu, con mắt của
nghiệp lực mà nhìn những biểu hiện của bậc Giác ngộ là chúng ta không thể nào
hiểu nổi và hiểu hết. Do không hiểu nổi và hiểu hết bằng khả năng tri thức của
con người, nên chúng ta cho là huyền thoại. Nhưng, đúng với phẩm chất của một vị
bồ tát có đầy đủ hạnh và nguyện lớn của tâm bồ đề, khi xuất hiện giữa thế gian,
để đem lại lợi ích cho cuộc đời hay cho đa số, thì việc Bồ tát Tất đạt đa, khi
ra đời từ hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen, tay chỉ
lên trời, tay chỉ xuống đất và tuyên bố; “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn”
là sự kiện chẳng huyền thoại chút nào.
Nên, những biểu hiện khác thường trong ngày đản sanh của Đức Phật, nếu chúng ta
trầm tĩnh một chút là chúng ta có thể thấy, hiểu và tiếp xúc được. Chúng ta hãy
tiếp xúc với những sự kiện đặc thù trong ngày Đức Phật đản sanh ấy, bằng tâm
hạnh và nguyện bồ đề, chứ không nên tiếp xúc với những sự kiện ấy với tâm và
hạnh mang đầy tham dục và tri thức ngã tính. Nếu chúng ta tiếp xúc với những sự
kiện ấy bằng tâm đầy tham dục và tri thức ngã tính, thì cái thấy và cái biết của
chúng ta sẽ chuyển tải đến cho chúng ta những chất liệu đầy vô minh. Chúng ta sẽ
hiểu Phật Đản theo cách hiểu vô minh của chúng ta và chúng ta sẽ hành hoạt theo
vô minh trong ngày Phật Đản.
Thị Hiện Mà Không Phải Buộc Ràng:
Đức Phật là đấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì
thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời nầy, rồi cũng phải vào thai
mẹ để nằm, chúng ta nằm chín tháng mười ngày, còn Ngài thì ở trong bụng mẹ đến
mười tháng. Nằm mười tháng là biểu tượng cho viên mãn hạnh nguyện độ sanh của
Ngài trong mười pháp giới và có khả năng đưa chín pháp giới nhập vào nhất chơn
pháp giới là Phật giới.
Ngài nằm trong bụng mẹ với bản nguyện của bồ đề, nên Ngài thấy hạnh phúc, còn
chúng ta nằm trong bụng mẹ bằng nghiệp lực, nên mất tự do và đau khổ. Không
những chúng ta nằm trong bụng mẹ chín tháng mười ngày mới khổ, mà chỉ nằm một
ngày thôi, một giờ thôi, cũng đã thấy khổ rồi, vì sao? Vì cái khổ của chúng ta
là cái khổ do nghiệp bẩm sinh.
Đức Phật nói rằng, cái khổ bị sinh là sự thật của khổ và lại là cái khổ bậc nhất
trong mọi cái khổ. Đức Phật thương cái khổ bị sinh của chúng sinh, nên Ngài mới
thị hiện giữa cuộc đời này đề dạy dỗ chúng sinh, hướng dẫn cho chúng sinh, cách
sống thế nào để thoát ly cái khổ do nghiệp bảm sinh ấy. Chỉ vì chúng sinh không
nghe hoặc nghe mà không hiểu, không thực tập để sống, không chịu thực hành xả
ly, cứ bám víu hết cái này đến cái khác, nên bị khổ đau mãi hoài; và cũng vì
thương cái khổ của chúng sanh, nên Đức Phật cũng phải kham nhẫn để giáo hóa
chúng sinh, dưới nhiều hình thức và nhiều thời kỳ khác nhau.
Vì vậy, ở trên đời không ai thương chúng ta bằng Phật thương chúng ta. Cha mẹ
chỉ thương chúng ta một đời và có thể giúp ta thoát khỏi khổ cơm áo, còn Phật
thương chúng ta nhiều đời và có rất nhiều phương tiện giúp cho chúng ta thoát
khỏi khổ đau sinh tử, đến chỗ an toàn.
Kinh Pháp Hoa có dạy: Khi Phật giảng kinh Pháp hoa, có năm ngàn vị Thanh văn bỏ
ra về. Phật thương họ, nhưng không cản. Vì Ngài biết nhân duyên của họ chưa đủ
để tiếp nhận diệu pháp trong thời điểm nầy. Nhưng sau đó, Ngài cũng tìm đủ mọi
cách giáo hóa và đưa họ về với Phật đạo, để tu tập và đều thọ ký cho họ thành
những bậc Giác ngộ trong tương lai. Ngài nói với các vị đó rằng: tôi đã từng
giáo hóa các thầy khi các thầy là những vị Bồ tát, còn tôi là Sadi thời Đức Phật
Đại Thông Trí Thắng Như Lai, vào thời ấy, vì quý vị ham chơi, nên quí vị mãi
trôi lăn cho đến bây giờ. Quý vị cũng đã từng biết ít cho là đủ, bỏ điều cao
quí, thỏa mãn với những thành quả tầm thường. Giờ đây, tôi đã thành Phật và tiếp
tục giáo hóa cho các vị và tôi không hề bỏ quí vị, vì quí vị là những người rất
đáng thương và cần phải quan tâm để dìu dắt.
Chúng ta thấy tình thương của Đức Phật đối với chúng sanh là cao cả và hiếm có
trong đời. Tình thương của Đức Phật do đâu mà có? Do từ nơi tâm bồ đề mà có; từ
nơi trí tuệ mà hiện khởi và từ nơi hạnh kham nhẫn mà tựu thành. Vì tâm và hạnh
của Ngài như vậy, nên Ngài đã được chư thiên và loài người ca ngợi là đấng Đại
Từ, Đại Bi đối với chư thiên, loài người và hết thảy muôn loài.
Vì vậy, cúng dường Phật Đản là chúng ta tiếp xúc cho được ý nghĩa cao quí đó nơi
tâm và hạnh Bồ Đề của Ngài và mỗi phật tử chúng ta cũng phải thực tập hạnh thị
hiện và kham nhẫn của Ngài để cúng dường Ngài nhân ngày Phật Đản.
Thuận Theo Chánh Pháp:
Tại sao Đức Phật đản sinh từ hông phải của mẹ là Hoàng hậu Maya? Sinh ra phía
hông phải là tượng trưng cho sự có mặt của Ngài là thuận theo chánh pháp và dìu
dắt chúng sanh đi theo chánh pháp.
Chánh pháp là pháp nêu rõ sự thật về khổ, sự thật về nguyên nhân sinh khởi khổ,
sự thật về khổ chấm dứt và sự thật về con đường thoát khổ.
Sự thật về khổ là nhân quả của khổ luôn luôn cùng nhau tiếp diễn trong đời sống
của mỗi chúng sanh dưới nhiều hình thức biến hoại và sinh thành luân chuyển khác
nhau. Sự thật nguyên nhân sinh khởi khổ là tham sân si, vô minh và chấp ngã. Sự
thật về khổ chấm dứt là sự an lạc của Niết bàn. Sự thật về con đường thoát khổ,
chính là Bát chánh đạo. Đi theo con đường diệt khổ, gọi là thuận theo chánh
pháp. Do thuận theo chánh pháp mà mọi khổ đau đều được chấm dứt.
Nên khi nhập thai, Đức Phật đã nhập vào hông phải của hoàng hậu Maya và khi xuất
thai, Ngài cũng xuất thai từ hông phải của hoàng hậu Maya, nhằm biểu hiện rằng,
nhập hay xuất, ẩn hay hiện gì của Đức Phật giữa cuộc đời đều là thuận theo chánh
pháp hay phù hợp với chân lý. Và chỉ có chánh pháp mới có khả năng dựng đứng lại
những gì do mọi tà thuyết giữa thế gian đã làm cho thế gian nghiêng ngửa, xiêu
vẹo; chỉ có chánh pháp mới có khả năng hàn gắn lại những gì do các tà thuyết
giữa thế gian làm cho thế gian đỗ vỡ, mất đoàn kết; chỉ có chánh pháp mới có khả
năng dẫn đạo thế gian đi lên và chỉ có chánh pháp mới là ánh sáng đích thật,
giúp cho mọi người trong thế gian thấy rõ đâu là sự thật của khổ đau và hạnh
phúc để tự chọn lấy con đường và lên đường.
Bảy Bước Chân Đi:
Bảy bước đi của Bồ tát Tất đạt đa trong ngày thị hiện đản sanh là tiêu biểu cho
bảy yếu tố giác ngộ. Hay nói theo thuật ngữ chuyên môn của Phật học là Thất giác
chi hoặc Thất bồ đề phần. Hễ bất cứ ai thực tập thành tựu được bảy yếu tố giác
ngộ nầy, thì vị đó có cơ hội trở thành bậc Giác ngộ hay trở thành một vị Phật.
Qua các kinh điển cho chúng ta biết, không riêng gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
khi thị hiện đản sinh Ngài đi bảy bước, trên bảy hoa sen, mà bất cứ Đức Phật nào
dù trong quá khứ hay trong tương lai, khi thị hiện đản sanh với tư cách của một
vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, cũng đều đi bảy bước trên bảy hoa sen vậy. Hoa sen là
tiêu biểu cho sự vô nhiễm. Nghĩa là Bồ tát Nhất sanh bổ xứ sinh ra giữa thế
gian, nhưng không bị những bụi bặm của thế gian làm cho ô nhiễm, mà trái lại còn
có khả năng chuyển hóa những bụi bặm của thế gian thành hương thơm tinh khiết.
Bảy bước trên bảy hoa sen ấy là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ mà một vị Bồ
tát Nhất sanh bổ xứ thực tập thành công và sẽ thành tựu bậc giác ngộ ngay trong
cuộc đời đầy ô nhiễm nầy. Bảy yếu tố giác ngộ ấy gồm.
1. Trạch pháp giác chi:
Trạch pháp giác chi là chi phần dẫn đến Thánh đạo vô lậu, do nội dung giác
chiếu, chọn lựa gồm có đủ Quán như ý túc, Tuệ căn, Tuệ lực và có sự quyết trạch
giác phần, khiến cho các phiền não đã sanh liền diệt, những phiền não chưa sanh,
thì vĩnh viễn không sanh, khiến bồ đề chưa sanh thì liền sanh và nếu đã sanh thì
sẽ dẫn đến viên mãn.
Nên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi có mặt nơi thế giới Ta bà này là Ngài
đã lưu trú nơi cung trời Đâu suất để có cơ hội quán chiếu và lựa chọn cõi nước,
dòng dõi, cha mẹ để giáng thần và vườn Lâm tỳ ni để đản sanh.
Như vậy, chúng ta thấy, yếu tố trạch pháp rất quan trọng. Khi xuât hiện nơi thế
giới nầy rồi, Ngài chọn tiếp chỗ để Ngài hành thiền và thành đạo là Bồ đề Đạo
tràng, nơi chuyển vận Pháp luân là Lộc Uyển, và nơi Niết Bàn là rừng Sa la ở
Kusinaga.
Như vậy, chúng ta tiếp xúc với Phật đản là chúng ta tiếp xúc với khả năng trạch
pháp của Ngài. Nhờ thực hành trạch pháp mà Đức Phật đã thành công trên bước
đường giác ngộ và giáo hóa chúng sanh.
Do đó, trạch pháp giác chi là tiêu biểu cho bước đi thứ nhất trong ngày thị hiện
đản sanh của Ngài.
Vì vậy, là Phật tử chúng ta phải thực tập trạch pháp giác chi, để có khả năng
loại bỏ tham dục, chấp ngã, loại bỏ mê tín, cuồng tín; loại bỏ những tà sư ác
hữu, thân cận những bậc thiện hữu tri thức, xuất hiện đúng thời, đúng chỗ đã
chọn lựa để thăng tiến đời sống giác ngộ, giải thoát, làm lợi ích cho hết thảy
chúng sanh.
Nếu chúng ta sống thiếu trạch pháp, thì chúng ta làm việc không đúng thời, nói
năng không đúng lúc và không đúng chánh pháp, chúng ta sẽ nhận thầy tà làm thầy
chánh, bạn ác làm bạn hiền, làm thân hữu để rồi đi dần vào con đường lầm lỗi ở
trong sanh tử luân hồi, khó mong thoát khỏi.
Nên, trong mùa Phật Đản, phật tử chúng ta thực hành trạch pháp giác chi, để khởi
sinh chất liệu giác ngộ, nhằm cúng dường Đức Phật và phụng sự chánh pháp.
2- Tinh tấn giác chi:
Tinh tấn giác chi là nỗ lực biến trạch pháp giác chi, trở thành hiện thực trong
đời sống của mình, nên gọi là Tinh tấn giác chi. Nhờ có Tinh tấn giác chi mà các
điều ác trong tâm đã sanh liền diệt, những điều ác chưa sanh, thì vĩnh viễn
không sanh; những điều thiện nơi tâm chưa sanh, thì liền sanh; những điều thiện
nơi tâm đã sanh, liền thăng tiến đến chỗ viên mãn. Tinh tấn giác chi là tiêu
biểu cho bước chân thứ hai trong ngày Đức Phật thị hiện đản sanh.
Lễ Phật Đản, chúng ta tổ chức dựng lễ đài để cúng dường là đúng, tổ chức lạy
Phật để cúng dường là đúng, tổ chức tụng kinh để cúng dường là đúng, nhưng tất
cả những tổ chức đó phải có nội dung thật sự của trạch pháp giác chi và tinh tấn
giác chi, chứ không phải chỉ là hình thức hay đối phó. Nếu ta tổ chức chỉ để đối
phó và hình thức, thì ta sẽ bỏ mất cơ hội tiếp xúc với ý nghĩa đích thật của
Phật Đản.
Ngày Phật đản rất nhiều người thiếu may mắn, vì họ phải lao đầu vào công việc
làm ăn vất vả, có những vị đang đắm chìm vào công việc sát sanh tại các lò mổ,
lò quay, hồ cá, hay bận rộn với việc điều khiển đất nước, tính toán lợi hại ở
nơi các doanh nghiệp hoặc ở nơi thương trường, thì quả thật là không may cho họ.
Nhưng cũng có những vị, ngày Phật đản có cơ hội đến chùa mà không hết lòng thực
tập, trạch pháp giác, tinh tấn giác chi, khiến tâm ý không lắng yên, nói và làm
không đúng chánh pháp, thì quả thật không có sự phí phạm và rủi ro nào có thể so
sánh.
Ngày Phật Đản, ta đã phát tâm đi chùa lạy Phật, tụng kinh thì dứt khoát ta đi và
đến chùa lạy Phật, tụng kinh một cách thấu đáo hết lòng, để cho cái đi chùa và
cái lạy Phật, tụng kinh của ta, có kết quả như ta mong muốn và việc cúng dường
lên Đức Phật của ta có lợi lạc ngay cho bản thân của ta đời nầy và đời sau.
Nếu ngày Phật đản, ta không đủ điều kiện đến chùa, thì ngày hôm đó ta lạy Phật ở
nhà, nếu ở nhà chưa có thờ Phật, thì ta ngồi thật yên để lạy Phật mười phương và
lạy Phật trong tâm ta, khiến cho mọi ý nghĩ xấu ác nơi tâm ta rơi rụng. Nếu ta
nỗ lực làm được như thế, thì ta vẫn có cơ hội tiếp xúc với bước chân thứ nhất và
thứ hai của Đức Phật trong ngày đản sanh của Ngài. Đó là ý nghĩa của tinh tấn
giác chi. Và ta đem chất liệu trạch pháp giác chi và tinh tấn giác chi ấy mà
dâng lên cúng dường Phật đản.
3- Hỷ giác chi:
Hỷ giác chi là chi phần giác chiếu đối với hỷ. Hỷ là vui thích. Sự vui thích do
quá trình thực hành trạch pháp giác và tinh tấn giác mà sinh khởi. Như vậy, hỷ
là niềm vui có cơ sở từ giác ngộ và để giác ngộ, chứ không phải niềm vui sinh
khởi từ vô minh và mù quáng. Nói cách khác, do thực tập đời sống tỉnh giác,
khiến niềm vui sinh khởi.
Hỷ giác chi là tiêu biểu bước đi thứ ba của Đức Phật trong ngày Ngài đản sanh.
Nên, ngày Phật Đản, ta hãy thực tập đời sống tỉnh thức và đem niềm vui do sự
tỉnh thức đem lại để cúng dường ngày đản sanh của Đức Phật. Cúng dường như vậy,
gọi là sự cúng dường tối thượng.
Mùa Phật đản các Giáo hội, nên tổ chức những ngày thực tập đời sống tỉnh thức,
đời sống vị tha vô ngã, cho các giới phật tử, để cho các giới phật tử có niềm
vui hỷ lạc ở trong chánh pháp, khiến cho tâm thức của họ sáng lên ở trong Phật
pháp, hơn là tổ chức cúng dường Phật đản có hình thức khoa trương và bận rộn. Tổ
chức Phật đản mang tính hình thức khoa trương và bận rộn, thì tiêu hao tài lực
và nhân lực rất nhiều, nhưng hiệu quả chuyển hóa tâm thức khổ đau cho chúng sanh
cũng như đóng góp vào sự an bình cho xã hội thì lại rất khiêm tốn.
Vì vậy, hỷ giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ ba, trong ngày thị hiện đản
sanh của Đức Phật.
4- Khinh an giác chi:
Khinh an là tâm nhẹ nhàng, thanh thoát do thực hành các pháp phần giác ngộ đem
lại. Trong ngày Phật Đản, ta muốn có tâm nầy để cúng dường lên Đức Phật, thì ta
phải thực tập buông bỏ những lời nói không dễ thương, những cử chỉ và hành động
không dễ thương giữa ta với mọi người và ngay cả muôn vật nữa. Và quan trọng hơn
hết là ta phải thực tập buông bỏ triệt để những hạt giống tham dục, hận thù, hờn
oán, trách móc, mù quáng, nghi ngờ và ích kỷ ở nơi tâm ta, khiến cho tâm ta nhẹ
nhàng và thanh thoát, ta hãy đem chất liệu nhẹ nhàng và thanh thoát ấy để cúng
dường ngày Phật Đản sanh. Ấy mới là sự cúng dường tối thượng.
Khinh an giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ tư, trong ngày thị hiện đản
sanh của Đức Phật.
5. Niệm giác chi:
Niệm giác chi là duy trì năng lượng của ý thức tỉnh giác hiện tiền. Các yếu tố
trạch pháp, tấn giác, hỷ và khinh an được duy trì bởi ý thức tỉnh giác hiện
tiền, ta đem ý thức duy trì năng lượng tỉnh giác hiện tiền ấy do sự thực tập của
ta mà có được, để cúng dường Đức Phật trong ngày đản sanh của Ngài, ấy là sự
cúng dường Phật đản tối thượng.
Niệm giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ năm, trong ngày thị hiện đản sanh
của Đức Phật.
6. Định giác chi:
Định giác chi là chi phần giác ngộ ở trong thiền định. Trong chi phần nầy có mặt
của các niệm và định như niệm xứ, niệm như ý túc, niệm căn, niệm lực, định căn,
định lực. Nhờ thực tập các niệm và định nầy sung mãn, chúng sẽ làm điều kiện để
định giác chi sinh khởi.
Mỗi khi trong đời sống của mỗi phật tử chúng ta đã có định giác chi, thì ta sẽ
có những bước đi vững vàng trên con đường giác ngộ. Ta sẽ không bị các dục thế
gian lôi cuốn, không bị mọi luận điểm thị phi của thế gian chi phối và ngăn cản
.
Phật tử chúng ta phải thực tập giác chiếu, để trong đời sống của mỗi chúng ta có
chất liệu của định giác chi và ta đem chất liệu của định giác chi ấy để cúng
dường Phật đản, thì hiệu quả cúng dường của chúng ta có tác dụng làm cho phật
pháp trường tồn để chúng sanh lợi lạc. Cúng dường như vậy chính là sự cúng dường
Phật đản tối thượng.
Định giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ sáu, trong ngày thị hiện đản sanh
của Đức Phật.
7-Hành xả giác:
Hành giả giác chi là chi phần giác chiếu đối với xả. Xả là buông bỏ các tư niệm
sai lầm liên hệ đến vô minh, liên hệ đến tham dục, liên hệ đến nhân duyên của
sinh tử luân hồi. Hành xả là không đi theo hành nghiệp mê lầm của sinh tử, mà đi
theo tỉnh giác, đi theo hạnh nguyện thoát ly sanh tử để độ đời.
Bất cứ ai thực tập được bảy chất liệu hay bảy bước đi trên con đường giác ngộ
như thế một cách trọn vẹn, thì vị ấy có đủ điều kiện để tuyên bố: “Thiên thượng
thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nghĩa trên trời dưới đất, ta là vị độc tôn đối với
bảy chất liệu giác ngộ.
Nên, ai thực hành đời sống giác ngộ viên mãn bảy chất liệu như vậy, là vị ấy độc
tôn trong thế gian, được thế gian tôn kính, vì sao? Vì vị ấy, sẽ thoát ly sinh
tử ngay trong đời nầy, thoát ly hoàn toàn khổ đau do tham dục đem lại, hoàn toàn
không còn bị tái sanh đời sau; có khả năng chuyển vận bánh xe chánh pháp để độ
đời và có khả năng rống lên tiếng rống sư tử, khiến cho mọi sinh hoạt theo bản
năng thú tính giữa thế gian đều bị rơi rụng, mọi tà kiến đều bị nhiếp phục,
chánh kiến hiển bày.
Như vậy, khi đản sanh, Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni tuyên bố “thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là có gốc rễ từ sự thực
hành ở nơi bảy yếu tố giác ngộ nầy mà thuật ngữ chuyên môn của Phật học gọi là
Thất bồ đề phần hay Thất giác chi.
Bảy yếu tố giác ngộ nầy là bảy tiến trình tu tập thiền định và quán chiếu dẫn
đến đoạn trừ các lậu hoặc ở nơi tâm, khiến thành tựu các chất liệu của Thánh đạo
vô lậu của tâm giác ngộ và giải thoát.
Nên, khi ra đời Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, bước đi bảy bước, trên bảy hoa sen là tiêu biểu cho tư cách của một vị Bồ
tát Nhất sanh bổ xứ, sẽ thành tựu Phật hay bậc Giác ngộ do bảy yếu tố giác ngộ
đem lại, khiến không còn bị nhiễm ô phiền não ngay trong đời nầy.
Tuy nhiên, ta biết rằng ở trong thế giới trời người không một ai thành tựu được
bảy bước đi giác ngộ ấy một cách dễ dàng, và không một ai có khả năng tuyên bố
“Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” mang tính thuyết phục và hấp dẫn như Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài mới đản sanh. Vì sao? Vì chính như Ngài đã nói:
“Những gì Ngài nói là Ngài đã làm và những gì Ngài đã làm, thì Ngài mới nói”.
Vậy, mùa Phật Đản trở về, phật tử chúng ta, cố gắng tu học một cách hết lòng,
sống và thực tập theo lời Phật dạy một cách sâu sắc, để chúng ta có cơ hội tiếp
xúc với những gì mà đức Phật đã hiến tặng cho chúng ta và chúng ta cũng có cơ
hội dâng lên cúng dường Ngài, nhân ngày đản sanh với những gì mà chúng ta đang
có được trong sự thực tập. Và nhất là chúng ta cần phải thực tập bảy bước đi của
Ngài trong đời sống của mỗi chúng ta, cho đến khi nào chúng ta có khả năng tự do
đối với sinh tử.
Thực tập bảy bước đi của Đức Phật trong đời sống của mỗi chúng ta dưới nhiều
hình thức khác nhau. Chúng ta có thể thực tập trong lúc thở vào, thở ra hay đi
đứng nằm ngồi, nói cười, ăn uống, làm việc và suy nghĩ. Qua những hành hoạt như
thế, chúng ta có thể tiếp xúc với Đức Phật mỗi ngày và mỗi ngày ta đều cúng
dường lên Ngài bằng tất cả sự thực tập của mỗi chúng ta và chúng ta thực tập như
vậy là chúng ta cũng đã làm cho Đức Phật trong ta đang và sẽ đản sanh vậy.
Vậy, ngày Phật Đản, chúng ta phải làm thế nào, để Đức Phật thật sự có mặt với
chúng ta, ngay trong đời sống qua bảy bước đi của Ngài.
Chúng ta thực tập được như vậy là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày Phật Đản một cách
có ý nghĩa. Trên đài sen, Đức Phật sẽ nhìn chúng ta mà mỉm cười, tin tưởng và
thương quý!
Nguồn bài :
http://www.thuviencophap.org/2011/05/tiep-xuc-va-cung-duong-phat.html
--