Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân
cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho
cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng. Sự thực ấy không chỉ xác định
được nhân cách cho con người mà còn là chuẩn mực để nhận định nhân cách của
thánh nhân và phàm nhân. Một sự khác biệt chỉ nằm trong sát na của vọng niệm,
bên mé bờ vô hình tướng của ngộ và mê, của giác và vọng, của chân và ngụy,
của xả và chấp, và khoảng cách ấy là bao xa.
Trong lịch sử loài người có hơn một minh chứng
hùng hồn về khả tính của con người có thể xả ly, có thể vượt qua, có thể
quăng bỏ một cách dứt khoát để trở nên sáng lạn, chói lòa. Nhân cách ấy đã
giành trọn cuộc đời mình rao giảng một nền giáo lý vô ngã, tạo tiền đề cho
một nền triết học tôn giáo phi thường của phương Đông. Sự giác ngộ quán
triệt về vô ngã ấy như cú nhảy thiện nghệ vượt hẳn qua bờ mé bên kia của
dòng sanh tử khổ đau. Để mấy ngàn năm sau đồng vọng lời ca vang huyền thoại.
Và vì thế, đã không biết tự bao giờ, nhân vật lịch sử ấy đã trở thành một
nhân cách huyền thoại của con người như câu chuyện đản sanh.
Câu chuyện của tinh thần tâm linh phương Đông
Câu chuyện đản sanh bắt đầu từ chi tiết có thật của lịch sử, cách nay
khoảng hai ngàn sáu trăm ba mươi lăm năm tại thành Kapilavatthu ở Ấn Độ (tức
Nepal ngày nay), một buổi sáng tháng tư có một vị thái tử ra đời, bậc vương
tôn ấy về sau đã làm nên huyền thoại phương Đông, và câu chuyện đản sanh
được kể về nhân vật này sẽ sơ lược đại khái như vầy:
Nhận đến ngày lâm bồn đã đến, hoàng hậu Maya lên
đường trở về quê nhà để hạ sanh đứa con đầu lòng như tập tục của xứ này. Khi
Người và đoàn xa giá cung nữ tùy tùng đến vườn Lumbini thì Người bỗng nhiên
chuyển dạ, một bậc bồ-tát phi phàm đã hạ sanh. Vừa lọt lòng mẹ, bồ-tát liền
bước đi bảy bước trên bảy đóa hoa sen, đến bước thứ bảy, một tay chỉ xuống
đất, một tay chỉ lên trời với lời tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy ngã
độc tôn” (trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý). Khi ấy đại địa chấn
động, trời mưa cam lộ cúng dường, thiên nữ rãi hoa, nhạc trời tự trỗi, muôn
hoa trong vườn đua nhau nỡ rộ chào mừng một bậc thánh giáng trần…
Câu chuyện huyền thoại ấy đã chứa đựng một nền
minh triết của phương Đông, gắn với sự ra đời của một nhân cách siêu việt là
hoa sen, là con số bảy, là sự có mặt của chư thiên địa và các thánh thần, là
một câu nói gây ra nhiều sự bàn cải cho những ai còn lấn cấn giữa tính biểu
trưng của huyền thoại hay ngôn ngữ trừu tượng và sự thật lịch sử.
Súc tích một nền minh triết
Hoa sen, đó là sự tinh khiết được ví von như phẩm hạnh thanh cao của nhân cách
Người, từ trong đầy lầy sanh tử đã vươn dậy nở hoa, tỏa hương, sắc tinh khôi
và hương thanh thoát. Trong truyền thống tâm linh của con người phương Đông,
mà dẫn đầu là người Ấn Độ, hoa sen là biểu trưng thanh cao cho cốt cách con
người, sự ví von này là cách tôn xưng cao nhất có thể để người ta bày tỏ
tình cảm, niềm tôn kính đối với một nhân cách thánh nhân.
Sinh ra với vị trí vương tôn, lớn lên từ cung
vàng điện ngọc, trưởng thành với tùy tùng hầu hạ, với vợ đẹp con ngoan,...
sống trong sự sung túc hoàn mĩ nhất của trần gian như thế nhưng con người ấy
đã luôn băn khoăn: đây không phải là hạnh phúc cứu cánh của kiếp người, dù ở
vị trí quyền lực nhất, giàu có nhất, hoàn hảo nhất thì vẫn không thể nào
tránh khỏi những phiền não căn bản của chúng sinh. Và rồi đến một ngày Người
ấy rủ bỏ xuống đất tất cả để vào rừng tìm câu trả lời cho sanh tử và trở
thành một kẻ hành khất thực thụ trong xóm làng.
Ngài đã trở thành Buddha, một bậc giác ngộ đã
vượt qua khỏi sự chi phối từ sức mạnh nghiệp lực phiền não sanh tử của chúng
sanh. Đã xả ly một cách dứt khoát những thứ mà con người luôn hướng đến để
bị cột vào, bị mê hoặc, bị trở thành nô lệ. Trong những cám dỗ của cuộc đời
này, bậc giác ngộ ấy đã được mở trói, đã sáng trong, thanh thoát như một đóa
sen trong đầm lầy, trong sanh tử trầm luân.
Bên cạnh hình tượng hoa sen trong sự kiện đản
sanh là bảy bước đi kỳ diệu của bậc thánh. Một số nhà Phật học đã từng lý
giải, sao là bảy bước chân mà không phải một, hai, ba, bốn hay năm, sáu. Đây
là con số bảy của tứ phương-tam thời hay con số vượt ngoài số sáu của sáu
nẻo luân hồi sanh tử như nhân cách của một bậc giác ngộ?
dẫu
với sự lý giải nào cũng nằm trong sự ước đoán của người học về sau. Chi tiết
huyền sử ấy là sự kết tinh từ một chuỗi dài lời truyền và cảm tình tôn giáo
qua nhiều thế hệ, là sự phản ảnh trung thực nhất về tình cảm và lòng kính
ngưỡng đức Thế Tôn của con người Đông phương cách chúng ta hơn hai ngàn năm
về trước.
Giá trị chân thực của con người qua hình tượng đản sanh
Vừa lọt lòng mẹ bồ-tát đã bước trên bảy đóa hoa sen và dõng dạc cất lời tuyên
bố “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Dĩ nhiên, bậc giác ngộ là không
có chúng sanh nào sánh được cho dù đó là chúng sanh tối thắng trời thần, bởi
tôn quý như thế nên trời mới mưa cam lộ, thiên nữ mới cúng hoa, địa thần mới
chấn động. Nhưng sự tôn quý sao lại không được cho là đã nói ra khi bồ-tát
còn ở cung trời đâu suất, ở cảnh trời quý báu ấy dù chỉ nói “ta là tôn quý
nhất cõi trời” thì cũng đẳng cấp hơn bởi chúng sanh cảnh trời tất nhiên hơn
hẳn nhân gian.
Bồ-tát xác nhận đến nhân gian, làm người để tu
thành chánh giác, ắt hẳn nhân gian có đặc tính ưu việt, làm trung tâm thuận
tiện cho bước chuyển cuối cùng từ mê đến giác, từ vọng đến chân, từ khổ đến
niết-bàn, là nơi hội đủ điều kiện căn bản để hai dòng nghiệp thiện ác của
thánh phàm tiếp nhận nguồn năng lượng chiêu cảm.
Bởi xác định thân người ở nhân gian có thể tu
thành chánh giác cho nên bồ-tát giáng trần. Bởi sự giác ngộ tột cùng vượt ra
ngoài sanh tử là điều không thể so sánh được trong sự phân biệt đẳng cấp của
các loài chúng sanh cho nên được cho là tôn quý. Bởi thân người được cha mẹ
sanh ra này đây có thể cho một hứa hẹn rằng có một chặng đường sống➝tu
học➝giác ngộ, cho nên chính “ta”- nơi thân người này là
tôn quý.
Nguồn gốc của truyền thuyết “bảy bước xưng tôn”
dường như được tìm thấy sớm nhất trong tạng kinh Trường A-hàm hay Trường Bộ
tương đương, với bài kinh Sơ Đại Bản, ở đó đức Thế Tôn nói về nhân duyên ra
đời, thành đạo… của bảy đức Phật từ trong quá khứ, và ngài cũng không ngoại
lệ, bởi đó là “pháp thường của chư Phật”. Và nguyên văn của ý kinh này như
sau: “aggo ‘ham asmi lokassa, jeṭṭho
‘ham asmi lokassa, seṭṭho ‘ham asmi
lokassa, ayam antimā jāti, natthi dāni punabhavo” [Ta là đấng tối thượng của
thế gian, là tối thắng của thế gian, là tối tôn của thế gian. Đây là sự sanh
cuối cùng, không còn đời nào nữa.]
Sau gần hai ngàn sáu trăm năm, ý kinh ấy cho con
người của thế kỷ chúng ta nhiều khả tính để đoán định. Trong đó có thể nói,
ắt hẳn yếu tố này được thiết lập nên từ quan điểm hướng về sự giác ngộ, chỉ
có sự giác ngộ (Buddha) mới là điều đáng quý nhất trong các loài chúng sanh,
chỉ có sự giải thoát phiền não mới là cứu cánh nhất trong sự sống này. Và
điều đáng quý đó đang bắt đầu bằng chính thân người này đây. Bởi trong nền
giáo lý nhân bản của Phật đà, luôn nhấn mạnh vai trò tối ưu của loài người
trong sáu đường sanh tử hay nói khác hơn, nền giáo lý đặt trọng tâm vào sự
thực nghiệm của chính bản thân con người, và nên làm gì ngay khi ta có thể.
Vì rằng, hiện tại này là yếu tố cho ta quyết định các vấn đề.
Triết học Phật giáo là sự chắt lọc kết tinh nền
giáo lý sống, được thực nghiệm và cảm nhận một cách sâu sắc tùy bởi căn cơ
của con người đương thời, sức mạnh của sự thực nghiệm tôn giáo ấy là động
lực để những câu chuyện ngày càng lung linh hơn, huyền thoại hơn cho đến khi
nó được dừng lại bằng nền văn minh chữ viết, đây cũng là yếu tố đầu tiên cho
sự ra đời của nền văn học tiền đại thừa và đại thừa.
Với một tôn giáo được hình thành và phát triển
trước thời văn minh chữ viết của loài người như thế, thì người học Phật sẽ
tự biết mình nên có một thái độ nào để có ích cho bản thân. Và đến đây cho
phép chúng ta có thể nhận xét: Phủ định tất cả để đẩy mình đến vực sâu của
sự hoài nghi, hay chấp trước tất cả vào văn tự để quay lưng với sự thật tri
thức hiện đại của con người, là thái độ dại dột từ cái nhìn chưa thấu đáo,
chưa có đủ niềm tin quyết liệt với bồ-đề tâm, là điều không nên của kẻ cầu
học Phật của hôm nay.
Đạo phật của hai ngàn năm trăm năm sau, hay còn
sau hơn bao nhiêu nghìn năm nữa, khi con người được xem là chạm đến tận cùng
của nền khoa học, với nền giáo lý của sự thật thực nghiệm, tôn giáo ấy có
khi được xem là một nền triết học, hay một thứ gì đó mà khoa học đã gặp gỡ
và có thể chạm đến. Tuy nhiên, sự thật thì tôn giáo ấy có nhiều lãnh vực mà
khoa học không thể bước vào, bởi những thứ thuộc về giá trị tinh thần tâm
linh thì hoàn toàn thuộc về phạm trù khác. Và vì thế, những chi tiết huyền
thoại về Phật đà, đã được lưu truyền bởi hàng đệ tử, bằng câu chuyện đản
sanh với hoa sen, với bảy bước xưng tôn, với sự vui mừng của chư thánh thần
trời đất ấy, là những giá trị tinh thần, hàm súc nền minh triết Đông phương,
được viết nên từ tình cảm giáo đồ Phật giáo của Đông phương, kết tinh lại
tất cả lòng thành và niềm tôn kính tin yêu của hai mươi lăm thế kỷ lịch đại
giáo đồ đối với bậc giáo chủ, dù truyền thuyết mà không hề đứng bên lề của
nhận thức hiện đại.
Tất nhiên, sự thần thoại hóa do tình cảm của tín
đồ giành cho đấng giáo chủ là một mẫu số chung của vấn đề tôn giáo. Tuy
nhiên, tình cảm đó được căn cứ từ đâu, phản ảnh được điều gì về nền tảng
giáo lý của tôn giáo ấy, và nó có đem lại lợi ích cho con người hay không
thì là một điều khác biệt. Nét khác biệt ấy cho thấy cái riêng của từng tôn
giáo.
Đức Như Lai, kẻ đến đi như sự thật, không nhiễm
trước những gì có được trong đời, không mong cầu sự ngưỡng vọng tôn bái. Bậc
dũng sĩ mạnh mẽ nhất có thể chiến thắng được phiền não của sanh tử chúng
sanh, người có khả năng quăng bỏ một cách dứt khoát cái tôi và cái của tôi
trong tinh thần vô ngã tuyệt đối. Bậc vô thượng sỹ chân thật như thế mới có
thể tạo nên sự đồng vọng tôn sùng của nhân loại suốt chặng đường xuyên lịch
sử con người. Để từ phẩm chất ấy mà hàng đệ tử viết thành câu chuyện đản
sanh như Phật giáo đồ chúng ta đang có hôm nay.
Khải Tuệ
phapluanonline
|