Minh Đức TTA
Sớm hôm kia, không thông báo với ai,
đức Phật ôm bát đi khất thực một mình. Sau khi thấy vật thực vừa đủ dùng, ngài
ra phía ngoại ô, đi mãi về hướng Đông thành Vương Xá (Rājagaha). Tại làng
Ambasaṇḍā,
trên núi Vediyaka đức Phật ngồi dưới gốc cây độ ngọ. Vì trời mưa lất phất
và gió lạnh, ngài tìm vào hang động Indasāla
để nghỉ trưa, sau đó, trú sâu vào đại định – là nơi tĩnh cư của bậc thánh. Đức
Phật thấy có sự hữu duyên để hóa độ một chúng sanh lớn nên ngài tìm đến đây.
Trời Sakka vừa được Tứ đại Thiên
vương lên chầu kể lại là vừa xuống Veḷuvana để thăm viếng đức Phật, sau
đó tấu nhạc ca, rải hoa hương tán thán ngài như thế nào.
Trời Sakka mấy lúc này cơ thể
rịn mồ hôi, mệt mỏi, rã rời dường như không còn hơi sức, màu sắc thiên bào và
những tràng hoa mau phai nhạt, cảm giác chán nãn ngũ dục - biết đấy là dấu hiệu
sắp từ giã cõi đời – nên muốn xuống hầu Phật để nghe ngài giáo giới. Giấu chuyện
buồn của mình, trời Sakka cười vui rồi nói:
- Các vị đã phổng tay trên của ta! Ta
cũng đang muốn xuống đảnh lễ, tán thán ngài, sau đó sẽ hỏi ngài vài câu hỏi quan
trọng về sự sinh tử, về sự vui khổ của đời người. Một bậc Chánh Đẳng Giác xuất
hiện trên thế gian là khó lắm, chư vị biết không?
- Vâng! Hy hữu lắm! Vậy thì thiên chủ
cứ đi, thưa thiên chủ!
- Ừ, ta sẽ đi! Vậy thì ta cùng với
chúng chư thiên mang theo vị nhạc sĩ trưởng của thiên đình, có được không?
- Được lắm! Quý hóa lắm!
Sau khi Tứ đại Thiên vương đi rồi, trời
Sakka cho triệu tập chúng thiên nam, thiên nữ 33 tòa cung điện, nói lý do
cuộc thăm viếng này. Ai cũng hoan hỷ chuẩn bị sắc phục, mũ miện, trang điểm châu
ngọc sáng ngời, phướng lọng rực rỡ, hoa hương thơm ngát...
Đế Thích cho gọi viên nhạc trưởng phụ
trách ban ca vũ nhạc thiên đình là Pañcasikhā đến... Pañcasikhā là
ai?
Cả thiên đình, hầu như ai cũng cảm
thương chuyện tình của chàng nhạc sĩ tài hoa này. Các bậc có thắng trí kể lại
rằng, thời Phật Kassapa, chàng là một trẻ chăn bò lêu lổng, ham chơi, ca
hát líu lo suốt ngày như trẻ nít. Lớn lên, cái tính ham chơi, lêu lổng vẫn y như
cũ, không chịu làm người lớn. Được cái là chàng kính tin Tam Bảo, luôn luôn tìm
cách phục vụ đức Phật và chư Tăng. Nghiệp ấy, mệnh chung, chàng hóa sanh làm con
của càn-thát-bà nhạc sĩ trưởng của thiên đình. Vì không thích làm người lớn,
tính khí, thói quen sao thì nghiệp tạo như vậy - nên hình vóc chàng như chú tiên
đồng mũm mĩm, da dẻ hồng hào, với 5 chỏm tóc trên đầu, ai cũng gọi là pañca
sikhā , lâu trở thành tên . Do mầm giống cầm ca, nối nghiệp cha,
Pañcasikhā phụ trách ban vũ nhạc kịch của cung đình. Nghệ sĩ là giống đa
tình, chàng yêu si mê cô tiên nữ Suriya Vaccasā con của tiên ông
Timbaru; nhưng trái ngang thay, cô tiên này không yêu chàng - cậu tiên
càn-thát-bà con nít trông như trái đào có 5
chỏm tóc ấy – mà lại yêu thương Sikhaddhi,
là con trai của Mātali, người đánh xe thân cận của Sakka!
Đế Thích nói với viên nhạc sĩ trưởng:
- Này, Pañcasikhā! Con có chuẩn
bị sẵn được một bản nhạc, một ca từ nào tối thượng để dâng tặng bậc Chánh
Đẳng Giác không?
- Dạ thưa, có ạ! Một khúc nhạc ca tuyệt
vời!
Pañcasikhā nghĩ là tuyệt vời – vì thất tình, chàng
nhạc sĩ đã sáng tác một ca khúc, như tiếng nhạc lòng chưa thổ lộ với ai, chưa
tấu cho ai nghe! Hôm nay, chàng muốn dâng lên đức Thế Tôn nhạc khúc với ca từ vi
diệu ấy, như được chắt ra từ máu của trái tim chàng! Và đấy chính là biểu lộ sự
kính trọng tối thượng của chàng với đức Thế Tôn!
- Thế là tốt! Này Pañcasikhā!
Ta nhờ ngươi một việc có được không?
- Xin thiên chủ cứ nói!
- Đến viếng thăm đức Thế Tôn có vẻ
đường đột như thế này ta rất ngại. Các đức Chánh Đẳng Giác thường thích chỗ an
cư tĩnh lặng. Vậy thì làm thế nào, khúc nhạc ca của ngươi, khi lọt vào tai đức
Thế Tôn mà không quấy nhiễu ngài, lại còn như bước thăm dò, để rồi sau đó, ta
được ngài cho tiếp kiến, được chăng?
- Dễ dàng thôi, thưa thiên chủ!
Pañcasikhā tự tin đáp - Lời ca tiếng nhạc của con thì tảng đá cũng phải
nghiêng tai, gió bão đi qua cũng phải ngưng lại; và những đám mây lang thang
giang hồ kia cũng phải dừng chân giây lát để thảng thốt mà lắng nghe! Thiên chủ
cứ yên chí đi! Đức Thế Tôn sẽ tiếp ngài bởi lời ca, tiếng hát và khúc nhạc cầm
vi diệu của con!
- Ừ, vậy thì như thế này,
Pañcasikhā! Hiện giờ đức Thế Tôn đang ở tại làng Ambasaṇḍā,
núi Vediyaka, trong hang động Indasāla – phía Đông thành
Rājagaha. Khi xuống dưới đó, ta và hội chúng chư thiên sẽ ngự giữa làng,
xung quanh núi, còn ngươi thì tìm đến chỗ phải lẽ, không gần quá, không xa quá,
chỉ vừa đủ cho tiếng nhạc du dương của nhà ngươi lọt vào tai ngài mà không làm
phiền rộn ngài, được chăng?
Chú tiên đồng năm chỏm tóc tuân mệnh.
Thế là từng đám mây... từng đám mây đủ màu, sáng rực, chói ngời giữa không gian,
trong đêm, thoáng chốc đã bay đến nơi dự định. Họ ngự lác đác giữa làng và xung
quanh núi Vediyaka.
Lúc ấy, đêm chưa khuya. Dân chúng quanh
vùng hớt hải, ngạc nhiên vùng thức dậy. Họ ào ào ra sân, ra vườn:
- Núi Vediyaka có lẽ bị cháy?
- Núi Vediyaka có lửa sáng rực?
- Bên trên ngôi làng Ambasaṇḍā
cũng thế!
Có bậc thức giả nhiều kiến văn, chăm
chú nhìn hiện tượng lạ, nói rằng:
- Không phải đâu, chư vị! Giữa hư không
thế kia thì đâu có cỏ, có rác, có cây khô... mà lửa cháy!
- Đúng rồi! Vậy thì cái gì mà sáng rực
vậy?
- Có lẽ đấy là ánh sáng của chư
tiên ở cõi trời!
- Thế à? Họ hiện xuống đây làm gì?
- À, xem nào? Một người nói - Ở núi
Vediyaka chắc hẳn có bậc đại thánh nhân nào ngụ cư ở đấy rồi chăng? Đây là
hiện tượng chư tiên xuống chầu!
- Phải rồi! Nghe nói hồi trưa nay, có
Đại sa-môn Gotama đi sâu vào trong đó!
- Đích thị rồi!
- Vậy thì sớm mai, chúng ta hãy vào
đảnh lễ, cúng dường ngài cho có phước! Là vị Đại A-la-hán đấy!
Trong lúc ấy, Pañcasikhā
cầm cây đàn Beḷuva, cẩn trọng tìm chỗ vừa tầm, đứng không gần, không
xa hang núi Indasāla. Lựa tìm một chỗ ngồi, lắng nghe hướng gió, chàng
dạo đầu một khúc nhạc như âm thanh tự nhiên giữa đất trời: Đấy là tiếng lá reo
qua cành trúc, là tiếng suối chảy giữa khe sâu, là tiếng muôn chim hợp tấu giữa
rừng xuân! Chàng nhạc sĩ nghĩ thầm: “Ta không dám đánh lừa lỗ tai của đức Đại
Giác – nhưng ta phải lấy âm thanh tự nhiên ấy, chuyển mạch, chuyển tiết tấu để
đi vào khúc đàn lòng của ta mới không đột ngột!” Pañcasikhā bèn nghĩ tiếp
rằng:“Vậy cũng chưa đủ, chưa xứng với danh tài của ta! Bọn càn-thát-bà nhạc
sĩ “tỉnh lẻ”, thuộc hạ của Trì Quốc thiên vương kia, khi tấu nhạc, nhạc còn tỏa
mùi hương của lá, của hoa... thì ta cũng cho vào nhạc những hương liệu của cõi
trời mà nhân gian này không có được!” Thế rồi, khúc nhạc quyện lẫn với ca từ
vi diệu, quyện lẫn với những mùi hương lạ lùng - đã được tấu lên, được hát
lên... tha thiết... mê ly... say đắm làm xao xuyến cả trời đất, cỏ cây.
Đức Phật lúc ấy đã xuất định. Ngài biết
mọi chuyện. Ngài biết rõ khúc nhạc tình si mê của Pañcasikhā,
cả nhân và quả của nó, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đức Phật mỉm nụ cười
trong tâm, ngài lắng nghe từ đầu.
“- Ôi! Suriya Vaccasā!
Ta đảnh lễ Timbaru
Bậc thân phụ của nàng
Đã sanh nàng thiên nữ
Nguồn hạnh phúc của ta
Như gió cho kẻ mệt
Như nước cho kẻ khát
Nàng là tình của ta
Như Pháp với đức Phật
Như thuốc cho người bệnh
Thức ăn cho kẻ đói
Thiên nữ với nước mát
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu
Tắm mình hồ nước ngọt
Có cánh sen, nhụy sen
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng
Như voi bị xiềng xích
Hất móc câu, gậy nhọn
Ta điên vì ngực nàng
Hành động ta rối loạn
Tâm ta bị nàng trói
Tháo gỡ thật vô phương
Rút lui cũng bất lực
Như cá đã mắc câu
Hiền nữ hãy ôm ta
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta
Trong ánh mắt dịu
hiền
Hãy ghì chặt ấy
ta!
Thiên nữ, ta van
nàng!
Ôi! Hiền nữ suối
tóc!
Ái dục ta có bao,
Nhưng nay đã tăng
bội!
Như đồ chúng đức
Phật,
Mọi công đức ta
làm
Xin dâng lên đức
Phật!
Ôi! Kiều nữ toàn
thiện,
Nàng là quả cho ta
Công đức khác của
ta
Đã làm trên đời
này
Ôi! Kiều nữ toàn
thiện,
Nàng là quả của ta
Vị Thích tử thiền
tu
Nhất tâm và giác
tỉnh
Tầm câu đạo bất tử
Cũng vậy, ta cầu
nàng!
Như người tu sung
sướng
Chứng bồ-đề tối
thượng
Kiều nữ, ta sung
sướng
Được nhập một với
nàng!
Nếu thiên chủ
Sakka
Cho ta một ước
nguyện
Ta ước nguyện được
nàng
Vì ta quá yêu nàng
Như ta-la sanh quả
Tuệ nữ, phụ thân
nàng
Ta sẽ đảnh lễ ngài
Vì sanh nàng toàn vẹn!”
Khúc nhạc tình si chấm dứt mà nước mây
núi rừng Vediyaka còn bồi hồi, xao xuyến. Cả không gian chợt lắng lại như
còn chìm sâu trong âm hưởng mộng mị.
Đức Phật cất giọng phạm âm, nghe rõ mồn
một trong tai hội chúng chư thiên, nhất là với chàng nhạc sĩ:
- Này Pañcasikhā! Âm thanh những
sợi giây đàn của ngươi hòa điệu tuyệt vời với ca từ, với giọng hát của ngươi, và
ngược lại. Cầm đàn không thêm sắc màu gượng ép cho ca từ mà ca từ cũng không phô
trương, cường điệu so với cầm đàn. Đúng là nhạc sĩ trưởng tài hoa của thiên
đình! - Tiếng của đức Phật chợt như đi xuyên vào tâm não của chàng nhạc sĩ
hơn - Nhưng mà này Pañcasikhā! Ngươi sáng tác khúc ca ấy lúc nào,
duyên cớ bởi sao mà ngươi dám ví nàng ấy và ngươi giống như Pháp với Như Lai?
Ngươi tầm cầu nàng lại đem so như hành giả tầm cầu đạo bất tử? Ngươi sung sướng
nhập một với nàng lại xem như Thích tử chứng bồ-đề tối thượng?
Pañcasikhā cất giọng sầu não:
- Đúng vậy! Đức Thế Tôn la rầy con là
đúng lắm! Con sáng tác khúc ca ấy vào thuở ngài thành đạo dưới cội bồ-đề, nghĩa
là vừa mới đây thôi. Biết sao hơn, đối với con, nàng là tối thượng. Ca từ và
nhạc điệu vừa rồi là tiếng lòng vi diệu nhất của con. Vậy sự so sánh, ví von ấy,
đối với con, bây giờ đây - là chân thật nhất, là tối thượng nhất, bạch đức Thế
Tôn!
Rồi, anh chàng nhạc sĩ “cả gan”
kể lại chuyện tình của mình cho đức Phật nghe!
Đế Thích thiên chủ tự nghĩ: “Đức
Phật không đuổi Pañcasikhā mà chăm chú lắng nghe, còn tỏ vẻ thông cảm với anh
chàng nhạc sĩ si tình này nữa! Ta có cơ hội rồi!”
Pañcasikhā, sau đó, không quên nhiệm vụ của mình:
- Bạch đức Thế Tôn! Thiên chủ Sakka,
đình thần và thuộc hạ thiên chúng mong được diện kiến, đảnh lễ, vấn an sức khỏe
của Người; sau đó được học hỏi về giáo pháp.
Đức Phật im lặng nhận lời. Thế rồi, khi
thiên chủ Sakka
và hội chúng được phép đi vào; họ dùng thần lực làm cho chiếc hang sáng và rộng
thêm ra. Ai cũng đến đảnh lễ đức Phật và tìm đứng nơi phải lẽ.
Đức Phật nói:
- Thật là đột ngột khi thiên chủ ghé
thăm Như Lai! Thật là kỳ diệu khi thiên chủ có nhiều trách nhiệm để gánh vác –
mà còn có thì giờ vân du đến hang núi này.
- Bạch đức Thế Tôn! Quả thật vậy, cõi
trời 33 thật quá nhiều việc phải làm. Nay bị ngăn trở việc này mai bị ngăn trở
việc khác nên không thể đến hầu đức Thế Tôn thường xuyên được!
Đức Phật biết tâm tư và nguyện vọng của
Sakka nên bắt đầu chuyển hướng câu chuyện:
- Ừ, Như Lai biết thiên chủ có đức tin
– nhưng nhiều thuộc hạ của thiên chủ chưa có đức tin.
- Quả thật vậy, bạch đức Thế Tôn! Có
nhiều việc lợi ích hiện tiền, thấy rõ trước mắt nhưng con cũng chưa thuyết phục
được thuộc hạ của con. Con đã từng nói với họ rằng, lúc nào một đức Chánh Đẳng
Giác xuất hiện thì thiên giới tăng thịnh còn A-tu-la suy giảm. Rồi con kể ví dụ
cụ thể cho họ nghe. Thuở đức Thế Tôn về thăm Kapilavatthu,
có Thích nữ Gopakā đã già, kính tin Tam Bảo, đầy đủ quy giới, khi thân
hoại mạng chung, được sanh thiên giới, làm một vị thiên tử, là con trai của con,
được thọ hưởng phú túc năm món dục lạc. Ngược lại có ba vị tỳ-khưu mà Thích nữ
kia thường hộ độ, do tu hành mà còn lơ là, còn quá ham chơi nên được sanh làm
càn-thát-bà hạ đẳng, phải hầu hạ vị thiên tử kia. Xét như vậy, Tam Bảo là phước
điền vô thượng, ai không có đức tin, không có quy giới, không biết bố thí, cúng
dường, không lo tu tập thì thật uổng phí một đời!
Từ tâm và trí của Đế Thích được dọn
sạch như vậy; và những câu hỏi của ông ta liên hệ những ác pháp, tương duyên
phát sanh như thù nghịch, ác ý, tật đố, xan tham, ưa ghét...vọng tưởng, hý
luận... rồi nào là hỷ, ưu, xả trên lộ trình tiến tu như thế nào - đức Phật đã
cặn kẽ từng điểm một, giải thích chu đáo cho Đế Thích nghe hiểu. Cuối buổi vấn
đáp, Đế Thích thâu hái được những điều lợi ích sau đây: Thấy được tái sanh, sáng
suốt chọn thai bào, sống với chánh niệm, tỉnh giác, tương lai sẽ gặt quả bồ-đề,
hết thân cõi trời sẽ hóa sanh vào sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭha)
rồi Niết-bàn ở đấy không trở lại trần gian nữa! Nói cách khác, Đế Thích hân hoan
quá khi biết mình đã thấy pháp, đã đắc quả Nhập Lưu! Còn nữa, còn điều kỳ diệu
nữa, ngoài trừ đức Phật, không ai thấy, là Đế Thích mạng chung rồi hóa sanh ngay
tức khắc trở lại làm Đế Thích với sinh lực cuồn cuộn như được thay da đổi thịt,
thay thân hoán cốt.
Hỷ lạc đầy ắp cả người, Đế Thích nói:
- Này Pañcasikhā! Ngươi đã giúp
ta quá nhiều việc; và tối thượng nhất là nhờ ngươi mà ta được diện kiến đức Thế
Tôn, được nghe những lời pháp bất tử! Để đền ơn ngươi, thứ nhất là từ bây giờ,
ta đặc phong cho ngươi làm vua càn-thát-bà với đầy đủ mọi danh vọng và mọi danh
xưng, uy nghi, hiển hách! Thứ hai, ta sẽ đóng vai thân phụ ngươi rồi ta sẽ tìm
cách cưới nàng Suriya Vaccasā làm vương hậu cho ngươi, được chưa?
Vậy là chuyện tình si của chàng nhạc sĩ
Pañcasikhā chấm dứt, từ rày về sau, ta chỉ còn được biết đến, Pañcasikhā
–ông vua càn-thát-bà cao sang mà thôi!
Trích “Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt” tập III, chưa
in.