Giáo dục Việt Nam: "Cái đầu đầy" hay "cái đầu thông minh"?

giao duc

 

Quản lý giáo dục và nhận thức sai lệch về giáo dục không như là một sản phẩm công (public goods) là nguyên nhân dẫn đến điều này. Sự không ý thức rõ trách nhiệm còn nảy sinh từ phía cơ quan chủ quản thì sao có nhiều hy vọng đào tạo nên những lớp người trách nhiệm.

 

 

Lầm lẫn giữa bản chất và hiện tượng

 

 

Tư duy giáo dục trả lời cho câu hỏi: Chúng ta muốn đào tạo nên những con người như thế nào? Hầu như mọi ý kiến đã thống nhất ở những điểm căn bản- để Việt Nam có thể sánh vai với các nước khác trên thế giới, giáo dục đào tạo phải sản sinh ra những con người tự chủ, độc lập trong tư duy, có lương tâm và tinh thần trách nhiệm.

 

 

Tất nhiên, biểu hiện ra bên ngoài của những con người tự chủ ấy là khối lượng tri thức được trang bị và phẩm chất đạo đức cần thiết. Ấy vậy mà, những người có khối lượng tri thức và phẩm chất đạo đức lại chưa chắc đã là những con người tự chủ. Sự lầm lẫn trong quan điểm giáo dục của chúng ta bắt đầu ngay từ khâu mở đầu này: Chúng ta đã lầm lẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa căn cốt bề sâu và biểu hiện bề mặt.

 

 

Nói như Montaigne, nền giáo dục trong nhiều năm qua của chúng ta giúp đào tạo nên những "cái đầu đầy" hơn là những "cái đầu thông minh". Đó là những con người thụ động, bị lệ thuộc, không phát huy được tính chủ động sáng tạo và tinh thần phản biện của mình trong quá trình học tập và sinh sống. Sự hô hào đổi mới phương pháp dạy học (lấy học sinh làm trung tâm) trong bối cảnh không có sự thay đổi trong tư duy như thế không thể đem lại những biến chuyển khả quan.

 

 

Bên cạnh đó, ý hướng cung cấp đầy đủ và hệ thống tri thức ngày càng giàu có của nhân loại cho học sinh dẫn đến tình trạng quá tải trong nội dung chương trình giáo dục. Nói cách khác, giáo dục của chúng ta mới tồn tại ở khía cạnh truyền đạt tri thức và chuẩn tắc đạo đức chứ chưa tồn tại ở khía cạnh truyền dạy cách thức chiếm lĩnh tri thức và trau dồi năng lực làm người.

 

 

Một nền giáo dục như vậy là chưa công bình, thiếu trách nhiệm, không đảm bảo được tính chất dân chủ và tiến bộ. Song, vẫn có một nghịch lý nảy sinh từ thực trạng này: Giáo dục không đầy đủ, thiếu đồng bộ mà vẫn rất cồng kềnh, nặng nề.

 

 

Với bộ môn ngữ văn trong nhà trường, rất dễ dàng nhận thấy sự ôm đồm như thế. Nội dung chương trình sách giáo khoa càng sửa càng quá tải, tuy đáp ứng được mục tiêu tích hợp nhưng không tránh được chồng chéo.

 

 

Tác phẩm tuyển chọn có bài hay nhưng khó, trong khi ở chỗ khác lại quá thiên về tính chức năng khi cung cấp nhiều mẫu văn bản hành chính và văn bản nhật dụng. Cách bố trí khung chương trình nặng nề, việc hình thành hiểu biết về văn học sử, bố trí bài học có chỗ chưa phù hợp với năng lực học sinh,...

 

 

Việc đổi mới tư duy giáo dục vì vậy không thể bỏ qua việc cải tổ cách biên soạn sách giáo khoa, nhất là ở khâu nhận thức văn học như là nguồn nuôi dưỡng tinh thần, xúc cảm và các năng lực thẩm mỹ, nhân văn chứ không đơn thuần là sự hiểu biết kiến thức văn học nghệ thuật.

 

 

Nguy cơ cho an sinh xã hội

 

 

Cần có những thay đổi tư duy mang tính cách mạng: Bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc (EQ) mới là nhiệm vụ căn bản của giáo dục văn học. Vì thế, sẽ là rất phí phạm thời gian và làm quá tải việc dạy học văn học theo hướng tích hợp ngữ và văn, cảm thụ tác phẩm và nhận thức lịch sử văn học, văn chương kinh điển và văn nhật dụng,... như trong sách giáo khoa hiện nay.

 

 

Để đáp ứng được các đòi hỏi về giảm tải, về nguyên lý học đi đôi với hành theo hướng bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc, có thể thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa theo hướng: Trả phân môn làm văn về cho phân môn tiếng Việt với tư cách là phân mục đào tạo cách thức tạo lập văn bản. Môn văn học chuyển đổi theo hướng giới thiệu tinh hoa văn học trong nước và thế giới theo các chuyên đề từ dễ đến khó (như văn học Việt Nam hiện đại, văn học dân gian, văn học lãng mạn và hiện thực phương Tây, văn học Hy La, thơ Đường,...).

 

 

Điểm mấu chốt dẫn tới sự ôm đồm của môn ngữ văn là yêu cầu về khả năng viết bài luận (nghị luận văn học, nghị luận xã hội chứ chưa nói đến nghị luận văn - triết) của học trò, thậm chí của sinh viên- một vấn đề không thể do một mình môn ngữ văn có thể giải quyết mà từ trước đến nay đều riêng trút lên vai môn ngữ văn trong nhà trường.

 

 

Đó là lý do mà vai trò của các khoa học xã hội nhân văn cơ bản ("humanities" hay "liberal arts") luôn được giáo dục phương Tây nhấn mạnh và nhờ đó mà đào tạo được các lớp người mang ý thức cá nhân sâu sắc, giàu tinh thần trách nhiệm. Điều tưởng chừng như mâu thuẫn ấy lại là một thực tế ở các xã hội lấy sự tự chủ của cá nhân làm căn bản.

 

 

Trong khi ở một nước có nền tảng cố kết cộng đồng như ở ta, ý thức trách nhiệm lại vắng bóng trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng, từ xây dựng gia đình, đoàn thể xã hội đến các hành vi sống, thậm chí, nhỏ nhặt như cách đi lại trên đường phố... Phải chăng, đó không phải là sản phẩm của một nền giáo dục còn nhiều lầm lẫn và bất cập?

 

 

Vậy từ đâu mà học sinh qua giai đoạn giáo dục cơ bản vẫn không có khả năng viết bài luận như là 1 yêu cầu của việc sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ và có hiểu biết cơ bản về những kiến thức nhân sinh? Ngoài lý do cách xây dựng chương trình giáo dục văn học, vấn đề cơ bản nằm ở nhận thức vai trò của các khoa học xã hội nhân văn (humanities) trong việc kiến tạo nên năng lực người.

 

 

Chương trình giáo dục phổ thông (và cả đại học) của ta khiến học sinh hầu như hẫng hụt về các kiến thức căn bản này. Theo GS Cao Huy Thuần, ngoại trừ nền giáo dục Pháp đang phân vân giữa việc chuyên môn hóa từ đầu vào đại học hay từ năm thứ 2 của đại học trở đi, hầu hết các nền giáo dục Âu - Mỹ đều dành 2 năm đầu của giáo dục đại học để tiếp tục bồi dưỡng cho sinh viên các kiến thức văn hóa cơ bản, tức các môn triết học và khoa học xã hội nhân văn, nghệ thuật.

 

 

Thậm chí, ở nhiều nước tiên tiến, mô hình đại học cộng đồng với 2 năm giáo dục kiến thức văn hóa căn bản để bồi dưỡng tâm hồn và nhận thức người dân là rất hữu ích cho việc nâng cao dân trí. Trong khi đó ở ta, giáo dục cơ bản chưa thể nói là đồng bộ đã tính đến phân ban.

 

 

Sự sụp đổ của ban C trong những năm qua là một bài học cần được lưu tâm: Sự coi thường ban C vẫn là nguy cơ tiềm tàng cho sự thiếu hiểu biết và trau dồi trí tuệ cảm xúc trong khi ngay ở ban này, chúng ta vẫn chưa xóa đi quan niệm môn chính môn phụ dẫn tới tình trạng học văn mà vẫn thiếu các kiến thức liên ngành để hoàn thiện bài luận.

 

 

Tất nhiên, giáo dục hướng nghiệp là cần thiết nhưng không thể tổ chức theo chiều hướng phân hóa ngay từ trong chương trình giáo dục cơ bản. Đó là nguy cơ thực sự cho an sinh xã hội, cho dù việc phân hóa có xuất sắc đến đâu, tức khả năng trí tuệ (IQ) có hoàn thiện đến thế nào thì xã hội cũng chỉ tạo ra được nhiều cỗ máy lý trí, vận hành hiệu quả và nghiêm ngặt chứ không phải những con người có rung cảm, yếu tố quan trọng nhất để kết cấu xã hội trách nhiệm và tình người.

 

 

Trí tuệ và tâm huyết các bậc thức giả

 

 

Rõ ràng, theo quan niệm trên, thì nhiệm vụ "nâng cao dân trí" như là nền tảng xây dựng 1 xã hội lành mạnh phải thực sự được chú ý bên cạnh 2 nhiệm vụ "đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài" như là khâu then chốt để phát triển đất nước.

 

 

Bởi thứ nhất, trên nền tảng dân trí cao sẽ có nhiều cơ hội nảy sinh nhân tài. Thứ 2, trong điều kiện đất nước còn nghèo, nâng cao dân trí chính là đảm bảo cơ hội được tiếp cận với các hoạt động giáo dục cho toàn dân, tránh nguy cơ gây ra sự phân hóa xã hội trong tương lai bởi sự phân hóa giàu nghèo và các cơ hội học tập trong hiện tại.

 

 

Thay đổi phương pháp từ nhận thức mới là vô cùng khó khăn: Làm sao có thể thay đổi tư duy của bao thế hệ giáo viên bằng các lớp bồi dưỡng ngắn hạn mà cả giảng viên và cơ quan chủ quản vẫn chưa thể đổi mới tư duy chính mình? Do đó, thay đổi hoàn cảnh dạy học sẽ giữ vai trò đột phá; nội dung chương trình khác, cách thức kiểm tra đánh giá khác dễ thực hiện hơn với sự góp sức của một đội ngũ chuyên gia.

 

 

Không quá khó để có thể bồi dưỡng được số lượng hạn chế các chuyên gia như thế ở cấp sở và phòng giáo dục. Đồng thời, ở bộ phận đại học, hình thành các lớp chuyên đề và tái hoạt động phong trào hướng đạo sinh và trại hè cho học sinh với nòng cốt là các sinh viên đã được đào luyện. Đây là việc chúng ta có thể làm được nếu có quyết tâm cải tổ nền giáo dục. Để rồi, từng bước cải tổ đồng bộ cả hệ thống, từ các cấp quản lý đến quy hoạch trường lớp theo chiều hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa.

 

 

Bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc (EQ) mới là nhiệm vụ căn bản của giáo dục văn học

 

 

Cải tổ cả một hệ thống giáo dục trên đà khủng hoảng là không dễ dàng, cần huy động trí tuệ và tâm huyết của nhiều bậc thức giả. Nền giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục "hàn lâm" như Pháp, Nga, còn nay lại đang có xu thế ngả theo chiều hướng giáo dục Mỹ.

 

 

Khi nền tảng giáo dục của chúng ta thua rất xa so với Pháp (giáo dục Pháp vẫn đang phải đối mặt với các nguy cơ bất ổn tiềm tàng) thì hướng tới nền giáo dục Mỹ với nhiều điểm khả thủ là một tham chiếu hợp lý. Tuy vậy, đã theo học thì phải học tập đến cốt lõi của vấn đề.

 

 

Chúng ta vẫn coi việc xây dựng trường tư, tạo điều kiện cho sự hình thành các trường ngoài công lập để xã hội hóa học tập mà không đặt ra các thiết chế (cùng với các quyền lợi) nhằm ngăn chặn việc đầu tư kinh doanh vị lợi, khuyến khích tinh thần trách nhiệm từ hình thức cổ phần giáo dục hiện tại thì không khi nào chúng ta có được các trường tư "theo kiểu Mỹ" (tồn tại chủ yếu với tư cách các trường, công ty vô vị lợi) một cách đúng nghĩa, vì sự phát triển giáo dục.

 

 

Quản lý giáo dục và nhận thức sai lệch về giáo dục không như là một sản phẩm công (public goods) là nguyên nhân dẫn đến điều này. Sự không ý thức rõ trách nhiệm còn nảy sinh từ phía cơ quan chủ quản thì sao có nhiều hy vọng đào tạo nên những lớp người trách nhiệm.

 

 

Ở Mỹ, ngay từ những nhà giáo dục nền tảng khởi xướng Tân giáo dục như John Dewey, giáo dục luôn được coi là bản thân sự sống chứ không phải sự chuẩn bị đơn thuần cho cuộc sống tương lai, còn học tập là niềm vui chiếm lĩnh sự sống chứ không phải một gánh nặng trau dồi tri thức nhọc nhằn.

 

 

Vai trò của khoa học xã hội và nhân văn

 

 

Vậy vai trò của giáo dục văn học, rộng ra là khoa học xã hội và nhân văn, được cắt đặt như thế nào? Theo Dewey, giáo dục phát triển ở cá nhân cả thuộc tính tự nhiên, xã hội và văn hóa (hiểu như là căn bản kiến thức để sống một cách có phẩm giá). Giáo dục đem lại lợi ích cho cá nhân, nhưng đem lại nhiều lợi ích hơn cho xã hội bởi hiệu quả xã hội, sâu xa cũng chính là mục tiêu giáo dục.

 

 

Vai trò xã hội của giáo dục sau này được các lý thuyết gia kinh tế hiện đại phát triển và áp dụng vào việc minh bạch tài chính trong hoạt động giáo dục, nên trách nhiệm xã hội từ phía Nhà nước đối với giáo dục cơ bản là bắt buộc. Ngược lại, từ cơ hội được hưởng thụ giáo dục, người học phải có trách nhiệm với cá nhân mình và toàn xã hội, trước nhất là ở mức độ căn bản đạo đức và văn hóa.

 

 

Đó là lý do mà vai trò của các khoa học xã hội nhân văn cơ bản ("humanities" hay "liberal arts") luôn được giáo dục phương Tây nhấn mạnh và nhờ đó mà đào tạo được các lớp người mang ý thức cá nhân sâu sắc, giàu tinh thần trách nhiệm. Điều tưởng chừng như mâu thuẫn ấy lại là một thực tế ở các xã hội lấy sự tự chủ của cá nhân làm căn bản.

 

 

Trong khi ở một nước có nền tảng cố kết cộng đồng như ở ta, ý thức trách nhiệm lại vắng bóng trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng, từ xây dựng gia đình, đoàn thể xã hội đến các hành vi sống, thậm chí, nhỏ nhặt như cách đi lại trên đường phố... Phải chăng, đó không phải là sản phẩm của một nền giáo dục còn nhiều lầm lẫn và bất cập?

 

 

Theo Văn nghệ Trẻ

 

 

*Đầu đề và các đề mục nhỏ là của Tuần Việt Nam

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle