(Giảng luận về
kinh thương yêu)
Vân Pháp
I. Phần tựa
Kinh Thương Yêu vốn dịch từ Pāli là Mettā sutta: Trong đó, Metta: Từ (thương yêu); Sutta: Kinh.
Kinh này được trích từ tạng là
kinh bộ Sutta Nipata, phần I.
Thông thường, trong một kinh đều có Ngũ phần chứng tín, và
câu đầu tiên là "Như thị ngã văn" (tôi nghe thế này); nhưng trong Kinh thương
yêu này không có câu ấy và cũng không có Ngũ phần chứng tín.
Ngũ phần chứng tín, gồm: Thời gian, xứ sở, pháp chủ, pháp thuyết, và thính giả.
ảnh minh họa
II. Phần Chánh tông
Nội dung của Kinh này nói về lòng Từ bi.
1. Thế nào là Từ?
"Từ" tiếng Phạn là
Maitrī, Pāli gọi là
Mettā, tiếng Anh dịch là kindness hay benevolence.
Đây là một trong những đức hạnh chính của Phật giáo. Maitrī là lòng
thương, lòng lân mẫn không ràng buộc đối với đối tượng được thương yêu, lân mẫn.
Tâm Từ vô
lượng là yếu tố đầu tiên trong Tứ vô lượng tâm. Tâm từ, Pāli gọi là Mettā Citta, Phạn
gọi là Maitri Citta. Nghĩa là tâm đem lại niềm vui cho muôn loài một cách bình đẳng.
Tâm từ là tình thương không liên hệ đến tình ái, không liên hệ đến dục nhiễm, và
vượt hẳn tình thương của nhân loại. Vì tình thương bị lệ thuộc vào xác
thịt hay dục nhiễm, đó là tình thương thấp kém, ích kỷ, tình thương ấy sẽ dẫn
đến lo âu, sầu muộn, thất vọng và khổ đau. Tâm từ ấy vượt hẳn tình thương nhân loại. Vì, nếu tình thương
chỉ giới hạn trong nhân loại thì con người có thể tàn sát loài vật mà không một
chút thương tâm.
Vì vậy, nếu tâm từ là tình
thương chỉ thương trong nhân loại thì tình thương còn giới hạn và hẹp hòi. Tình thương của nhân loại là tình thương
ái chấp và chiếm hữu.
Mà ái chấp và chiếm hữu thì vẫn còn khổ đau và muộn phiền.
Vì thế, thi sĩ Tuệ Nguyên đã khuyên chúng ta:
“... Em cứ yêu nhưng em đừng
bắt đuổi
Vì đuổi bắt như gió đuổi mây
chiều
Em cứ yêu nhưng em đừng bắt
đuổi
Hễ đuổi bắt em sẽ khổ đau
nhiều
Em đau khổ bởi vì em vụng
dại
Đời ngu ngơ em bắt bóng tình yêu...
Em cứ yêu nhưng em đừng
chiếm hữu
Vì tình
yêu mầu nhiệm lắm em ơi.”
Tình thế gian, thông thường là
"bắt đuổi", và "chiếm hữu". Vì đó là hai chất liệu tạo nên tình yêu thế gian, chính hai chất
liệu đó mà tình yêu của thế gian có thương yêu, có ghen tuông, giận hờn và thù
hận. Thứ tình đó nó có thể đi tới sự bao bọc, che chở
và tận tâm giúp đỡ, nhưng nó cũng có thể đưa đến hận thù và chết chóc.
Thứ tình của thế gian như con dao hai lưỡi, càng yêu bao nhiều thì càng giận bấy
nhiêu. Và người ta rất thích là kẻ "bắt đuổi", vì nó đẹp, nó
lãng mạn và hấp dẫn. Ai đã từng yêu thì sẽ thấy nó cuốn hút biết dường
nào!.
Tình thương yêu nhân loại mà
không thương yêu chúng sanh, không thương yêu loài vật thì vẫn gây khổ đau cho
chúng, và nuôi lớn ác tâm nơi chính mình.
Bởi vậy, Tâm từ vô lượng là tâm thương yêu vượt hẳn mọi thứ tình ở trên, nó
không bị giới hạn trong một quốc gia, một xứ sở nào, hay bất kỳ một loài nào, dù
đó là chư thiên, loài người, hay các loài thấp kém hơn. Tâm ấy luôn luôn đem lại an lạc niềm vui và an lạc lâu dài cho họ.
Cho nên, Từ vô lượng là tình
thương vô ngã, vì tình thương ấy không bị mắc kẹt, không phải là tình thương
chiếm hữu, tình thương ấy là tình thương chân thật, không thể phát sinh từ một
sự hiểu biết tà vạy, mà tình thương ấy phát sinh từ Chánh kiến, nghĩa là nó phát
sinh từ cách nhìn hợp lý, đó là cách nhìn thấy thực tại là duyên sinh, vô ngã.
Thấy sự thật đúng như nó là thì tình thương sẽ phát sinh đúng và đem lại lợi lạc
lớn. Chẳng hạn, làm từ thiện mà không thấy trực tiếp
hoàn cảnh của đối tượng cần giúp đỡ thì không thể trải tình thương đúng được, vì
chúng ta không biết đối tượng cần giúp mong ước điều gì.
Lại nữa,
Tình thương ấy phát sinh từ những lời nói đúng đắn, chân thật, đó là Chánh ngữ,
chứ không phải phát xuất từ lời nói hư vọng, dối lừa. Người có tình thương thì không thể dùng lời nói phi đạo
đức được, mà những lời nói của người đó phải là lời nói dễ thương, mang đến niềm
tin, hy vọng, và an toàn hạnh phúc cho người mình thương. Tình
thương ấy phải được phát sinh từ đời sống đúng giới luật, nghĩa là sống Chánh
mạng. Người có giới luật người ấy sẽ thương mà không bị
mắc kẹt, tình thương ấy có sự bảo hộ mà gây tổn hại cho người khác.
Thương con người vì thấy con người cần được thương, cần được sưởi ấm, thương
loài vật vì thấy loài vật cần được thương, cần được che chở, mà không làm cho
loài ấy phải lo sợ và bất an. Cũng thế, Tình thương vô lượng phải được phát sinh
từ sự tinh cần trong Chánh đạo, chứ không phải phát sinh từ sự biếng nhác.
Tình thương ấy phải được phát xuất từ tư tưởng thuần tịnh, lắng trong, và được
nuôi dưỡng bằng Chánh định, thì tình thương đó mới bền lâu.
Phật giáo có cụm từ diễn tả về lòng từ rất hay đó
là "vô duyên từ", nghĩa là lòng thương không có điều kiện, không vì bất cứ một
sự buộc ràng hay quy tắc nào trong lòng từ này. Thấy người
khác đau khổ thì lân mẫn giúp đỡ, thấy người khác khổ đau thì tìm cách để chia
sẻ và trị liệu nỗi đau cho họ, và không cần một lời cám ơn hay "hậu tạ".
Mẹ thương con với tất cả tấm lòng "mẹ già hơn trăm tuổi, còn thương con tám
mươi", tình thương ấy không có vụ lợi, không phân tích, so sánh hơn thua, không
có bất cứ một điều kiện đáp đền nào cả. Lòng thương chỉ là thương thôi, cho nên gọi là Vô duyên từ.
2. Thế nào là Bi?
"Bi" tiếng Phạn và tiếng Pāli đều
gọi là karunā, chuyển dịch sang tiếng Anh là compassion, gần như danh từ 'từ',
xuất phát từ lòng thương và muốn giúp đỡ người khác.
Trong Tứ Vô lượng tâm, thì tâm Bi vô lượng là yếu
tố thứ 2:
Tâm bi, tiếng Phạn là Kurunā
citta, nghĩa là tâm hồn hoạt động để cứu giúp kẻ khác thoát khỏi khổ đau. Bất cứ ai có tâm hồn như vậy thì người ấy
gọi là có Tâm bi.
Đối tượng của Tâm bi cứu độ chính là những chúng
sanh khổ đau hoặc vì người nghèo, đói khát, hoặc vì ngu si, vô trí. Người cần miếng cơm manh áo, cần điều kiện
vật chất thì người có tâm bi sẽ giúp đỡ trên phương diện vật chất, người nghèo
đói về tri thức, hiểu biết thì người có tâm bi sẽ giúp đỡ về tri thức hiểu biết,
người cần thực nghiệm tâm linh, tu tập chứng quả thì người có tâm bi vô lượng sẽ
giúp đỡ về phương diện chứng ngộ tâm linh. Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mong cầu của đối tượng cần giúp
đỡ mà người có tâm bi vô lượng sẽ tuỳ cơ cứu giúp, có nghĩa là ở đâu có mong cầu
giúp đỡ thì ở đó có sự ứng hiện cứu giúp (thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng). Và lẽ
tất nhiên, Tâm bi vô lượng không thể phát sinh từ sự hiểu biết sai lầm, suy tư
sai lầm, từ những lời nói sai lầm, hay từ những hành động tà vạy, không thể phát
sinh từ tâm tư tán loạn. Nếu không có Chánh kiến thì không có
tâm bi. Nói cách khác, không có trí tuệ thì không thể có tình thương chân
thật, và không có sự cứu giúp hợp lý theo
tình thương ấy.
Cũng như tình thương, sự cứu
giúp phải đặt trên nền tảng của Vô ngã, vì nếu còn phân biệt thân thù, thì không
thể cứu giúp hết lòng được.
Chúng ta phải biết rằng, dù Từ hay Bi thì đều lấy
tâm làm cơ sở để phát triển lòng thương, lòng cứu giúp. Căn cứ theo thuật ngữ
chữ hán hai chữ từ (慈) và bi (悲) đều có bộ "心" (tâm) ở dưới. Nghĩa là muốn phát triển tình
thương và thực hành sự cứu giúp đều phải lấy tâm mà làm.
Vì thế, đức Dalailama đã định nghĩa Từ bi một cách dung dị rằng: "Từ bi có
thể được định nghĩa đơn giản là trạng thái tinh thần không hung ác, không gây
hại cho mọi người và không công kích. Đó là một thái độ tinh thần được đặt trên
nền tảng là niềm ao ước cho mọi người thoát ra được những đau khổ và người đó
luôn quan tâm, kính trọng, lễ phép với mọi người xung quanh"2
Vì thế, chúng ta hãy thực tập Từ
bi và hãy đem Từ bi mà xâu thành từng chuỗi ngọc, cho đến khi nào chuỗi Từ bi mà
chúng ta xâu thành một chuỗi dài vô tận, có nghĩa là lòng Từ bi của chúng ta đạt
tới Từ bi vô lượng.
3. Từ bi trong kinh Thương Yêu
Người có
lòng Từ bi là người luôn nghĩ đến người khác, nhất là những người đang gặp nhiều
khó khăn trong cuộc sống. Cuộc sống mà không có
chất liệu Từ bi thì cuộc sống sẽ trở nên cõi chết và con người sẽ đến với nhau
chỉ gây thêm vết thương và hận thù cho nhau mà thôi. Nhưng may thay,
trong bản chất của con người vẫn còn tính người, nên dù ít hay nhiều, trong loài
người vẫn có những người biết thương yêu giúp đỡ, cũng còn có những "cánh tay Từ
bi nâng đỡ". Vì thế, người có lòng Từ bi, theo
Kinh Thương yêu, luôn tâm niệm rằng:
(+) Nguyện cho mọi người và mọi loài được sống
trong an
toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Muốn có đời sống an toàn và hạnh phúc thì chúng ta phải nỗ lực tu tập phước
đức, vì tu tập phước đức thì chúng ta sẽ gặp nhiều may mắn không bị đói khổ,
không bị nghèo hèn về vật chất và tinh thần. Người có tu tập
phước đức luôn hướng đến điều thiện, tu bồi thiện nghiệp. Người có tu tập
là người luôn nghĩ đến người khác, loài khác được sống trong môi trường tốt,
được an toàn, được hạnh phúc. Người có Từ bi luôn mong muốn những
người khác biết ươm hạt giống thuần thiện vào tâm, nuôi lớn hạt giống thiện,
không để hạt giống bất thiện dấy khởi và gây khổ đau hệ luỵ; luôn mong muốn mọi
người biết thực tập thâu nhiếp lục căn để không tạo ác nghiệp, vì ác nghiệp sẽ
làm con người chết dần chết mòn trong dằn vặt và tuyệt vọng.
(+) "Nguyện cho tất cả các loài sinh vật trên trái
đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài
mạnh, những loài cao, những loài thấp....." đều thương yêu và giúp đỡ.
® Những loài mạnh, những loài cao: như con người, A-tu-la,
chư thiên
Thương chư
thiên vì biết rằng, chư thiên khi hết phước cũng rơi xuống các cõi thấp, vì chư
thiên vẫn nằm trong vòng sanh tử.
Thương loài A-tu-la vì cõi này
sống trong sân hận, thù oán, lửa luôn bốc cháy và có thể đốt cháy công đức tu
niệm của họ.
Thương loài người, vì loài người thiện ác lẫn lộn,
khi thân khi thù, khi thân thiết tận tâm, lúc bạc bẽo lạnh nhạt, khi yêu đó lại
ghét bỏ đó, lúc thích thì chung tình mà lúc không thích thì phụ bạc.
Giàu có thì kiêu ngạo, ngã mạn, nghèo khó thì cúi lòn, khiếp nhược.
Cho nên, loài người cần thương yêu và giúp đỡ.
® Những loài yếu, những loài thấp, như: loài trong địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh.
Thương yêu và giúp đỡ loài
súc sanh vì loài này luôn sống mất tự chủ, mất quyền tự do, sống trong sự thụ
động và theo bản năng.
Loài này không có khả năng hiểu biết, nên luôn bị sai khiến.
Người có lòng Từ bi thì không khởi tâm sát hại và gây thương tích cho loài này,
vì chúng tội nghiệp hơn loài người.
Thương yêu và giúp đỡ loài ngạ
quỷ, vì loài này thường sống trong sự đói khát, thiếu thốn. Chẳng những đói về ăn, đói mặc, đói tri
thức, mà còn đói cả tâm hồn lẫn tình thương.
Thương yêu và giúp đỡ loài địa
ngục, vì loài này hết sức đau khổ và tăm tối, không có lối thoát. Loài này đang bị bao phủ bởi khổ đau, cô đơn, thất vọng.
Loài này, đối với vấn đề an lạc, và hạnh phúc là một sự mơ ước hão huyền.
Chúng ta phải biết rằng, các
loài thuộc địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh có mặt ngay trong đời sống của chúng
ta. Nếu tâm chúng ta mê mờ không biết đâu
là thật, đâu là giả, đâu là chân đâu là vọng, thì lập tức địa ngục có mặt; tâm
chúng ta luôn bị bao phủ bởi những hạt giống như ích kỷ, bỏn sẻn, ghen tuông, đố
kỵ thì lập tức ngạ quỷ xuất hiện; và nếu tâm chúng ta ngu si, không biết nhân
nghĩa, phụ bạc, phỉnh phờ thì loài súc sanh có mặt.
Do đó, người có tâm Từ bi luôn thương yêu và giúp
đỡ những loài đang sống trong cảnh tối tăm ấy.
® Những loài lớn, những loài nhỏ: Đây chỉ cho loài vật, loài
lớn như sư tử, cọp, beo, cá sấu, voi, ngựa; những loài bé, như nai, thỏ, gà,
vịt,.... Nhìn sâu hơn vào thế giới loài người, chúng ta thấy, những người
có quyền lực, giàu sang, có địa vị cao đều thuộc vào thế lớn, mạnh; trong khi đó
người không có quyền lực, không có địa vị, chức quyền, nghèo khó, bần cùng, túng
thiếu đều thuộc thế yếu, nhỏ. Người có quyền lực cũng là người
mang nhiều đau khổ và lo lắng, người không có quyền lực thì luôn bị chèn ép,
cũng có nhiều khổ đau, sợ hãi và lo lắng. Vì thế, quyền lực, giàu sang,
nghèo hèn và thất thế đều nằm trong vòng xoáy của khổ đau và sợ hãi. Cho nên,
người có tâm Từ bi luôn mong cho loài có thế mạnh và yếu hãy cùng chung sống hòa bình với nhau, đừng ai vì tư lợi mà sát hại
mạng sống của nhau, đừng ai ỷ vào thế lực của mình mà gây thương tích cho nhau.
® Những loài có thể nhìn thấy, những loài không thể nhìn thấy:
Những loài có thể nhìn thấy như các chúng sanh sống quanh ta, những loài ở rừng
thẳm, biển sâu, là những loài không thể nhìn thấy được. Có thể hiểu thêm, những
loài ta có thể nhìn thấy là những sinh vật còn sống; còn những loài ta không thể
nhìn thấy là nhưng sinh vật đã ẩn thân, đã chết. Người có tâm Từ bi cũng cần
khởi lên tâm niệm thương yêu và giúp đỡ những sinh vật này dù là hữu hình hay vô
hình.
® Những loài ở gần,
những loài ở xa: khi người có tâm Từ bi thì dù những loài ở xung quanh mình,
xung quanh người thân, người thương mình hay những loài không ở gần mình hay ở
xa mình, đều nên khởi tâm thương yêu và giúp đỡ. Khi có tâm thương yêu và giúp
đỡ thì ở gần hay ở xa đều có thể thực hiện được.
® Những
loài đã sinh hay những loài sắp sinh: Đối với loài đã sinh, người có tâm Từ bi
nên thương yêu và giúp đỡ để đối tượng nhận sự thương yêu ấy luôn được cảm thấy
ấm áp, che chở. Đối với loài chưa sinh thì luôn thương yêu và
giúp đỡ để cho loài đó được nuôi lớn trong tình thương và cũng được bao bọc che
chở bởi hơi ấm của tình thương ấy.
(+) Nguyện đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai
coi thường tánh mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai bị
đau khổ và khốn đốn3.
Thực tập sống bao dung, tử tế
nghĩa là biết che chở, và nâng đỡ người khác. Nghĩa là biết thương chính mình, rồi thương người mình thương và tập
thương cả những người mình ghét, những người mình không thích.
Khi chúng ta biết thương mình và chúng ta nhận ra sự sống còn của mình là một
tặng phẩm quý báu thì sự hiện hữu của những người khác và loài khác cũng như
thế. Nếu chúng ta biết đau thì người khác cũng biết
đau, nếu ta biết hạnh phúc là điều rất quý thì người khác cũng mong được như
thế.
Nghĩ như thế thì tình thương của chúng ta sẽ lớn thêm, trái
tim của chúng ta biết nói lời thương yêu và chia sẻ. Đồng thời chúng ta tập nhận diện những hạt giống tốt đẹp ở nơi người
mình ghét để thấy rằng không có người nào hoàn toàn là xấu cả, mà trong mỗi
người đều có tốt và xấu, tích cực và tiêu cực. Chúng ta
phải khơi dậy trong người khác những hạt giống tốt và tích cực mà đừng để những
hạt giống xấu và tiêu cực biểu hiện.
Thực tập cách sống lương thiện, không tranh đua, cướp đoạt,
không oán hận, thù oán và gây đau khổ cho người khác. Người có tâm Từ bi thì trong hoàn cảnh nào cũng không khởi ác tâm và
giận hờn để gây đau khổ cho người khác. Bởi vì giận hờn
là hạt giống có độc tố gây chia rẽ và hận thù chứ không thể mang lại hòa bình
được. Nếu gặp hoàn cảnh khổ đau và khốn đốn mà tâm
trạng của chúng ta sẽ rất bực bội và ngột ngạt vô cùng, thì chúng ta không nên
tạo ra hoàn cảnh khổ đau và ngột ngạt cho người khác. Người có tâm Từ bi phải là người luôn nghĩ như thế.
4. Từ bi là nguồn năng lượng
vĩ đại
Người có tâm Từ bi là người có nguồn năng lượng
vĩ
đại, có thể hàng phục tất cả các ma chướng. Ma chướng là những hạt giống bất
thiện luôn có mặt và gây trở ngại trong tâm thức chúng ta; những hạt giống ấy
luôn là chướng ngại vật khiến chúng ta không thực hiện được lý tưởng và đạo
nghiệp của chúng ta, hay những ước muốn bình dị nhất của chúng ta.
Chúng ta muốn thương người bạn đó, nhưng hạt giống tham hoặc sân hay si khởi
lên, bảo rằng nếu thương mà có lợi thì nên tiếp cận.
Chỉ đơn giản vậy thôi, nhưng nó đã cản đường và không đưa chúng ta đến một tình
bạn tốt đẹp và lâu dài.
Lại nưa, người có Từ bi là người có Phật tâm, vì tâm Phật mới
có chất liệu Từ bi vĩ đại, bởi vì tâm của Phật là tâm vô nhiễm không còn bị mặc
kẹt bởi bất cứ một tác động nào, cho nên dù biết thế gian là nơi nguy hiểm, là
nơi đau khổ mà Ngài vẫn vào để cứu khổ "Phật tại thế gian thường cứu khổ, Phật
tâm vô xứ bất Từ bi". Do đó, người có tâm Từ bi là người cao quý nhất trong loài
người. Vì bản chất của loài người là tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, cáu bẩn; nhưng
sống trong loài người như thế mà biết thương yêu cứu giúp loài người, biết vượt
qua những ham muốn nhỏ nhen và tầm thường, sống vị tha và hy sinh để đem hạnh
phúc và bình an tới cho mọi người, đó là người cao quý trong loài người. Người có tâm như thế phải là người không có tâm phân biệt người cao
hơn mình là ai, thấp hơn mình là người nào. Lòng Từ bi bao trùm cả thế
gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Do vậy, người có tâm
Từ bi là người có tâm rộng lớn, có khả năng dung nhiếp và che chở người khác,
loài khác; ví như một bà mẹ đang đem thân mạng che chở cho đứa con duy nhất. Cho nên, Từ bi là bà mẹ tuyệt vời nhất trong thế gian này.
5. Con đường đạt tới Từ bi
Để đạt tới Từ bi, người ấy phải thực tập sống: Mọi động thái
trong sinh hoạt hằng ngày như đi, đứng nằm ngồi, ngay cả khi thức hay ngủ đều
duy trì lòng thương và sự giúp đỡ. Người ấy đi không vội vàng,
không đẩy xô người khác để đi, không "đạp" trên người khác, loài khác để đạt
được ý thích của mình.
Không vì tư lợi mà dẫm lên nỗi đau của kẻ khác, không dùng thủ đoạn hại người
khác để được "ngồi" vào chỗ cao sang, quyền thế; không nằm trong trạng thái hân
hoan đắc chí của kẻ thắng cuộc và cũng không yên giấc khi biết rằng "muôn loài
còn chìm trong khổ nạn".
Trong kinh Thương yêu cũng nói rằng, để đạt tới an lac, đạt
tới Từ bi thì người ấy phải biết "học hạnh thẳng thắn, khiêm cung, biết sử dụng
Ái ngữ". Người thẳng thắn là người ngay thật, không che giấu,
không bị thế lực bức ép mà phải che dấu sự thật, không vì lợi dưỡng mà quên đi
đạo nghĩa. Nhưng nếu thẳng thắn mà không khiêm cung thì
không phải là người có Từ bi thật sự. Tính khiêm cung sẽ giúp người thẳng
thắn điềm tĩnh hơn, chọn đúng thời điểm, đúng đối tượng để khuyên bảo và răn dạy
cũng như giúp đỡ. Biết sử dụng lời nói hòa ái, lời nói dễ
nghe, lời nói gây thiện cảm là điều cần thiết để chinh phục và giúp đỡ đối tượng
cần giúp đỡ. Tùy vào đối tượng cần giúp đỡ mà chúng ta
sử dụng ngôn ngữ từ ái. Người hay sân giận phải dùng ngôn ngữ gì để thu
phục, người hay cố chấp phải dùng ngôn ngữ thế nào để cải hóa,...
đó là phương cách mà người muốn đạt tới Từ bi và thực hiện tinh thần Từ bi cần
biết. Và để đạt tới Từ bi có hiệu quả thì người đó cần sống đơn giản, điềm đạm,
từ hòa, ít ham muốn, và không đua đòi. Những yếu tố đó là cơ sở, là căn bản cho
những ai muốn thực hiện và đạt tới tình thương và sự cứu giúp.
6. Hiệu quả của Từ bi
Người có tâm Từ bi thì người ấy phải luôn
dùng trí tuệ để phán xét vấn đề thương yêu và cứu giúp của mình để không lạc vào
tà kiến. Vì một khi cái thấy của mình sai lệch
chẳng những gây thương tổn cho bản thân mà con gây khổ đau cho nhiều người, loài
khác. Vì thế kinh Thập thiện nghiệp đạo, phần Công đức
xa lìa tà kiến, nói rằng "nhược ly tà kiến, tức đắc thành tựu thập công đức
pháp.
Hà dẳng vi thập? Nhất đắc chân thiện ý lạc, chân thiện
đẳng lữ; Nhị thâm tín nhân quả, ninh quyên thân mạng chung bất tác ác; Tam duy
quy Phật, phi dư thiên đẳng; Tứ trực tâm chánh kiến, vĩnh ly nhất thiết cát hung
nghi võng; Ngũ thường sanh nhân thiên bất tiện ác đạo; Lục vô lượng phước tuệ
chuyển chuyển tăng thắng; Thất vĩnh ly tà đạo hành ư thánh đạo; Bát bất khởi
thân kiến xả chư ác nghiệp; Cửu trú vô ngại kiến; Thập bất đoạ chư nạn" (Nếu
xa lìa tà kiến thành tựu được mười pháp công đức. Mười công đức ấy, gồm: Một là
được ý vui chân thiện, gặp bạn chân thiện; Hai là thâm tín nhân quả, thà bỏ thân mạng, quyết chẳng làm
ác; Ba là chỉ quy
y Phật, không quy y các thiên thần; Bốn là Tâm ngay thẳng, chánh kiến, xa hẳn các ngờ vực, cát hung;
Năm là thường sanh nhân thiên, không sa vào đường dữ;
Sáu là có vô lượng phước huệ, ngày càng tăng thêm nhiều;
Bảy là xa hẳn đường tà, tu tập Thánh đạo;
Tám là không khởi thân - kiến, bỏ các ác nghiệp;
Chín là an trú trong kiến giải vô ngại; và Mười là chẳng bị các tai nạn.)
Người có tâm Từ bi là
người biết loại dần ham muốn, lấy ham muốn của mọi người làm ham muốn của mình,
lấy ý thích của mọi người làm ý thích của mình. Người ấy không mong
cầu một đời sống hứa hẹn, hão huyền. Người đó luôn thấy
hạnh phúc ở ngay trong tâm của mình, người ấy luôn có trách nhiệm với chính bản
thân mình và mọi người. Người ấy luôn thể hiện sống nếp
sống lành mạnh, luôn thể hiện hai chữ "vị tha" mà không phải hai chữ "tự kỷ". Ngạn ngữ Nga có câu rằng "người ta thường đi tìm cái gì đó rất xa
khi nó ở rất gần". Thông thường người ta hay đi tìm cái bên ngoài
mình mà quên đi "gia trung hữu bảo" trong chính mình. Có lẽ, nhìn thấy mọi người
trong cuộc đời là như thế, nên vua Trần Thái Tông đã nói:
“Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày vắng quê xa vạn dặm trình”
Người có tâm Từ bi là người chỉ cho người
khác thấy đâu là quê hương đi về của mỗi người, đâu là con đường mà mỗi khi đặt
chân bước đi là càng cách xa với quê nhà.
Vì thế, người có tâm Từ bi luôn được các bậc thức giả tán
dương và ca ngợi, người đó chắc chắn sẽ vượt qua con đường gập ghềnh sanh tử một
cách an toàn. Cho nên, kinh nói người
có chất liệu Từ bi là người "không lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống
nếp sống lành mạnh, và đạt thành trí giác, hành giả chắc chắn vượt khỏi tử
sinh".
7. Từ bi theo quan niệm của thế
gian
Theo quan niệm thông thường của thế gian, cho rằng người Từ
bi là người nhu nhược mềm yếu, hiểu như thế là hoàn toàn sai, vì bao giờ trong
Phật giáo khi đề cập đến Từ bi cũng nhắc đến Trí tuệ. Nếu Từ bi mà không có Trí tuệ soi chiếu thì Từ bi ấy không phải là
Từ bi của Phật giáo.
Phải có hiểu biết mới thương, phải có trí tuệ mới cứu giúp thì
tình thương và sự cứu giúp ấy mới đưa tới kết quả tốt đẹp. Lấy một ví dụ về một nữ y tá bắt đầu ngày làm việc đầu tiên giữa một
nhóm bác sĩ phẫu thuật của một bệnh viện nổi tiếng. Cô
ấy chịu trách nhiệm về các dụng cụ và thiết bị trong ca phẫu thuật vùng bụng.
Cô nói với bác sĩ:
- Bác sĩ chỉ lấy ra mười một bông thấm,
trong khi chúng ta đã dùng mười hai miếng. Chúng ta cần phải
tìm miếng còn lại.
Bác sĩ đáp: Tôi lấy ra hết rồi. Giờ chúng ta bắt đầu may lại
vết thương.
- Bác sĩ không được làm như thế! - cô
y tá nghiêm giọng - Hãy nghĩ đến bệnh nhân.
Với nụ cười trên môi, bác sĩ
nhón chân lên và chỉ cho cô y tá miếng bông thấm thứ mười hai. Rồi bác sĩ nói với cô y tá rằng:
- Tôi tin rằng cô sẽ trở nên xuất sắc trong nghề này4.
Cho nên, Từ bi phải dựa trên trí tuệ và
lập trường hợp lý của mình, chứ không phải Từ bi có
nghĩa là sao cũng được. Lại nữa, the đạo Phật, Từ bi không
đồng nghĩa với sự ái chấp, lưu luyến.
Đề cập vấn đề này, đức Dalailama cũng nói rằng5: "Loại thứ nhất gần giống với lòng lưu
luyến - cảm xúc yêu thương một người nào đó và người đó sẽ yêu ngược lại mình.
Đây là loại lòng Từ bi thiên vị và lệch lạc. Và một mối quan hệ dựa trên nền tảng như vậy sẽ không vững chắc.
Mối quan hệ này có thể giúp người ta cảm thấy ấm áp, thân thiện, gần
gũi, ví dụ như mối quan hệ bạn bè... Nhưng có hoàn cảnh nghịch, mối quan
hệ này sẽ không tồn tại, thay vì cảm thấy yêu thương và lo lắng, giờ đây cảm
thấy căm thù và tức giận. Vậy nên, lòng Từ bi đặt trên cơ sở là lòng luyến ái,
luôn gắn liền với thái độ thù hận. Loại thứ hai là lòng Từ bi
đích thực. Lòng Từ bi thực sự này dựa trên nền tảng là 'tất cả mọi người
đều có bản năng khao khát được hạnh phúc và vượt qua đau khổ, giống như mình...
Dựa trên nền tảng này, bạn có thể cảm thấy yêu thương tất cả mọi người, bất chấp
họ là bạn bè hay kẻ thù của bạn".
Qua đó chúng ta thấy, Từ bi,
theo Phật giáo, là nền tảng của mọi thứ tình thương trên thế gian và vượt
lên trên thế gian, Từ bi ấy phải được soi chiếu bởi trí tuệ. Và Từ bi ấy là lối
thoát, là con đường mang đến niềm vui, sự bình an và
hạnh phúc cho mọi người và mọi loài.
III. Phần Lưu thông
Một định lý trong cuộc
sống mà nhiều người đồng tình "Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi.
Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười.
Bàn tay có mở trao bạn tâm hồn mới tràn ngập vui sướng". Thật bất hạnh cho những ai suốt cuộc đời chỉ biết "nhận" mà không
biết "trao tặng". Có câu chuyện rằng: Ở Palestin có hai biển hồ.
Biển hồ thứ nhất gọi là Biển chết, vì trong biển này không có sinh vật nào sống
sót cả, ngay cả con người uống nước này cũng bị ngộ độc.
Biển hồ thứ hai gọi là Biển hồ Galiê. Đây là biển hồ
thu
hút nhiều khách du lịch. Nước của hồ lúc nào cũng xanh trong,
các sinh vật đều tập trung sinh sống ở đây. Một điều kỳ lạ là cả hai biển hồ ấy đều đón nhận dòng nước từ sông
Jordan.
Nước từ sông Jordan chảy vào biển chết.
Biển chết tiếp nhận và riêng giữ cho mình mà không chia sẻ, nên nước trong biển
chết trở nên mặn chát.
Biền hồ Galiê cũng tiếp nhận nước sông Jordan, nhưng lại chia sẻ cho các dòng
sông, cũng như các con kênh, rạch khác nên nước trong biển Galiê không mặn mà
xanh mát, mang lại sức sống cho con người và muôn vật. Vì thế, khi biết chia sẻ
thì chẳng những chúng ta không mất mát mà còn thêm giàu có, còn nếu chỉ biết
'nhận' mà không biết 'san xẻ' thì trước sau gì chúng ta cũng sẽ chết dần chết
mòn và mọi người, muôn vật xa lánh như biển chết vậy. Thế nên, kinh dạy rằng:
Nếp sống Từ bi là nếp sống cao đẹp nhất.¡