Hoa thiền năm ấy

Nguyên Châu

Nguyên Châu

Chúng ta những người chưa giác ngộnhư cùng tử tự lưu đày, như kẻ lạc đường trong sa mạc hoang vu, bị ru ngủ trong những khúc hát ưu trầm, buông mình theo những giấc mộng hải hồ. đôi khi, chúng ta, cũng đã tự mình bỏ nhà ra đi để tìm những chốn phồn hoa phố thị, bước vàokhung cửa hẹp”, hay chạy theo những phù phiếm bên ngoài, bỏ quên căn cội mạch nguồn, kho tàng giá sẵn trong mình.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong vườn tâm của mỗi chúng ta, như đức Phật đã dạy, ai cũng hạt giống giác ngộ thương yêu, ai cũng thể trở nên một vị Phật, một vị toàn giác trong mai sau. (Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).

 

Thiền, thường được thực hành trong cuộc sống, giúp cho con người sống thấy được những nét mầu nhiệm của thực tại, chứ không phải để đi tìm kiếm một Thượng đế chúng ta chẳng bao giờ nhìn mặt, hay một giá trị đang còn ẩn náu bên chân trời xa vời sau những lớp mây đen những đám sương . Hầu như, đa phần chúng ta chẳng bao giờ sống vừa đủ với những mình đã nhìn thấy trước mắt, với những đã được nắm trong lòng bàn tay; chúng ta lại thích sống với cái sẽ hơn cái đang . Đời sống thiền đời sống giúp mình trở về với cái đang đó, giúp mình tiếp xúc với cái tinh anh của hoa sen. Hoa sen biểu thị cho đức Phật, bởi hoa sen một tính cách sinh từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không nhiễm mùi bùn. Đức Phật cũng thế, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời không nhiễm mùi đời. Như vậy, hoa sen Phật Phật cũng hoa sen; hoa sen tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh trong mỗi chúng sinh. Bản tánh giác ngộ ấy đang ẩn tàng dưới đáy bùn, tuy chưa đủ điều kiện vươn lên để trở thành một đóa hoa tuệ giác, song nó vẫn không mất đi, đến một lúc nào đó, khi nhân duyên hội đủ, thì nó sẽ đâm chồi nẩy lộc, mang đến hương thơm cho đời, như Văn học Dân gian Việt Nam  thường nói:

Trong đầm đẹp bằng sen

xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng bông trắng xanh

Gần bùn chẳng hôi tanh mùi bùn.

Biết được điều đó rồi, thì hành giả sẽ bước những bước chân vững chãi, trầm tĩnh và an nhiên giữa muôn ngàn cơn dông tố bão bùng, để đem giáo lý trí tuệ và từ bi đến chân trời, góc bể mà chẳng nệ hà, gian khổ, và nắng mưa... Xem mọi khó khăn trong cõi phù vân này như là: một bài học tự nhắc nhở chính mình, cuộc thử lửa của tâm hồn, một cuộc lịch nghiệm sóng gió giữa biển đời chao đảo để làm nên sức bật của một mùa xuân hào hùng. Rằng trong đời thường, không có giác ngộ nào không qua hiểm nguy, không có sự giải thoát nào không qua cay đắng. Và, sống với nhau, bên nhau trọn đời trong cuộc sống thường ngày sao tránh khỏi những lúc xô xát, bất hòa. Chính những khổ đau, những giọt nước mắt giữa đường trường mới hướng dẫn mọi người quay về với Đạo, giúp người ta thấy được giá trị chân thực và bức thiết của Đạo. Có một nhà văn, người Nga đã viết: “Hãy khao khát Chân Thiện Mỹ như đứa con thơ khao khát sữa mẹ. Hãy tìm kiếm Chân Thiện Mỹ như kẻ lạc đường tìm vì sao Bắc Đẩu. Hãy hướng về Chân Thiện Mỹ như hoa hướng dương vươn mình theo ánh mặt trời.

Nếu biết thực tập thiền quán, thì hành giả sẽ tiếp xúc được với mạch nguồn sinh động của sự sống, còn không, thì cũng dễ sinh đơn điệu, nhàm chán, khi mà nhịp sống đô thị hiện đại đang phát triển, ngoại trừ những hạng người thích trôi nổi giữa dòng đời định mệnh, trầm luân bên bờ phi hữu, như thi sĩ Vũ Hoàng Chương từng nói:

Lang thang từ độ luân hồi,

U minh nẻo trước xa xôi dặm về

Dù với cách nào đi nữa, đã dấn thân làm kiếp phù vân, thì mình cũng phải tự hướng đến cuộc đời bằng những hành động và nhận thức của mình đã chọn lựa. Đức Phật, Ngài đã hiện hữu như một con người, dùng nhiều phương tiện: con đường của Thanh văn, Duyên giác, và Bồ-tát (Tam thừa), là dựa trên trình độ nhận thức, trong điều kiện không gian và thời gian khác nhau. Con đường của Thanh văn và Duyên giác, là con đường chính do Ngài đã dùng nhiều phương tiện mà tạo ra; còn con đường của Bồ-tát, là con đường của những hành giả phát nguyện dấn thân để hành đạo, thích làm điều gì đó có ý nghĩa cho đạo, nhận thức rõ sự giải thoát không phải chỉ cho mình, mà cho tất cả mọi người chung quanh; đạo Phật bên ngoài, là những hình thức tín ngưỡng với nhiều hệ phái, tông môn, nhiều lễ nghi; và bên trong, là một rừng giáo lý vừa rộng lại vừa sâu, vừa cao lẫn vừa thấp, thật là đa diện và đa hướng. Rốt ráo chỉ có một con đường chung cho mọi người mà thôi, đó là con đường của Nhất thừa (Phật thừa) – con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của chư Phật. Và con đường này được gọi là Hiển tam quy nhất, nghĩa là mở ra ba, nhưng cuối cùng chỉ trở về một mà thôi, đó là cái Diệu Pháp, là Nhất thiết chủng trí mà chư Phật đã nói trong kinh Pháp hoa: “Xá-lợi-phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, những điều mê chấp, tôi tùy thuận theo căn cơ mà dùng các món nhân duyên, những lý lẽ, những thí dụ, dùng nhiều sức phương tiện, vì vị đó mà nói pháp. Xá-lợi-phất! Như thế vì để chứng đặng một Phật thừa, tức là cái Nhất thiết chủng trí.” (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phương Tiện, quyển 1, Hòa thượng Trí Tịnh (dịch), Nxb Tôn giáo, 2001, tr. 65-66). Đây là khía cạnh mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa mà tính chất này đã soi sáng, ảnh hưởng sâu đậm đến tâm hồn của người Phật tử Á Đông theo truyền thống Đại thừa.

Một ngày kia, hành giả sẽ tri nhận rằng, núi sông không còn gồ ghề, biển không còn sóng động, đất trời hòa nhập vào nhau, không còn thấy khoảng cách giữa không, cònmất, thì khi ấy tâm của hành giả sẽ hướng về với diệu pháp, và thiền lộ sẽ mở rộng mênh mông để đón nhận những bước chân trầm tĩnh và sáng suốt, trở về với bản tâm thanh tịnh của chính mình.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle