● Thích Nữ Minh
Tâm
Tháng Năm vừa qua, tôi có phước duyên
được một vị sư Trụ trì tại Cali mời sang chỉ dạy Oai Nghi Giới Luật cho một số
tân ni sinh (tuổi đã quá 50) mới xuất gia tu học với chí hướng xuất trần
“Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”.
Thú thực là từ xưa tới nay, cá nhân tôi rất ngán chỉ dạy, góp ý,
nhất là không dám “độ” các bậc “trưởng lão tân ni xuất gia” vì tự nhận thấy sở
học sở tu của mình còn kém cỏi quá, còn quý vị cao niên kia dù sao cũng mang
trên lưng cả một quá khứ oai phong lẫm liệt, chẳng ông nọ thì cũng bà kia, cho
nên nể tình đồng đạo thì bấm bụng nhận lời nhưng trong lòng thì ngán ngẩm ngổn
ngang trăm mối!!
Ngày đầu bước vào lớp học, nhìn trên bàn thấy có một bình hoa tươi
đẹp như hoan hỉ đón chào, nhìn ngang chạm mắt vào các gương mặt nhăn nhó mệt mỏi,
mắt lơ đãng thất thần, dáng ngồi không ngay ngắn… có lẽ vì bắt buộc phải
“đi học khi kinh sử đã đầy một bụng”, tôi càng chua chát đến độ bật cười.
Giời đất thiên địa ơi! Phật Tổ ơi! Sao người tu ở cái xứ này
hiếm hoi đến thế nhỉ? Bói cả chục năm cũng không tìm ra được một đồng
chân hay niên thiếu xuất gia nữa.
- “Kính mời quý vị đứng lên cùng niệm Phật!”
Nhiếp tâm vào tiếng niệm Phật, lắng tai nghe dứt hồi chuông, tôi
dần lấy lại bình tâm và phát khởi lòng từ nhìn những vị “ni sinh cao niên” trước
mặt. Bỗng dưng tôi chợt nhớ một câu trong
Qui Sơn Cảnh Sách: “Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư
tuân, vô ngôn tiếp dẫn...” (Thế rồi không hiểu biết chi lại lóng cóng già yếu, gặp
việc thì như đối diện với tường vách, người học sau có thưa hỏi điều gì thì cũng
không biết thế nào để hướng dẫn...) và cảm thấy trong lòng dâng lên một niệm bi
thương kỳ lạ. Dù sao đi nữa, ít nhất ra họ cũng đã biết quay
đầu về với Phật, nương bóng từ bi, mong tìm được một chút tư lương tâm linh cho
quãng đời còn lại; ít nhất ra họ cũng biết tự gieo trồng cho chính họ một hạt
mầm giác ngộ.
Biết nói sao đây? Thôi có cũng còn hơn không!!
Tất cả những vị tân ni
sinh kia đều cư trú tại nước ngoài đã lâu năm, người ít nhất cũng đã hơn mười
mấy năm trời xa quê mẹ, và hầu như tất cả cũng chưa hề về chùa lễ Phật một lần
nào ngay khi còn sống tại Việt
Nam.
Họ nói, “Ngày xưa khi còn trẻ, chúng tôi chỉ
lo quay cuồng kiếm sống, vui chơi… Tôn giáo, đối với chúng tôi, như là một thứ
thuốc an thần cho người già, người bệnh”.
Và lẽ dĩ nhiên, qua thời gian sống khá lâu tại xứ người, họ cũng
thích ứng và hội nhập vào nếp sống văn minh hiện đại của Âu Mỹ nhiều hơn, vì thế
họ thích học giáo lý, giới luật, oai nghi, v.v… theo phương cách của thiền sư
Nhất Hạnh và tỏ vẻ khó chịu, buồn ngủ khi tôi đề nghị học cuốn
Giới Pháp Xuất Gia do
Hòa thượng Trí Quang dịch lại từ bản Hán văn của Tổ Vân Thê, Tổ Qui Sơn hay Tổ
Độc Thể.
Tôi cố thuyết phục họ học bản dịch này vì hai nguyên nhân chính:
1) Tôi rất thích và xúc động mỗi lần đọc lại những lời văn ẩn mật
thâm sâu của chư Tổ ngày xưa: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục,
thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu...” (Người xuất gia cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng,
tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của
Phật, làm cho quân đội của ma phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp
bốn ân, cứu vớt ba cõi).
2) Tôi cảm thấy như trở lại thời gian 30 năm qua, ngày tôi mới
xuống tóc, hí hửng vui cười trong chiếc áo năm thân ngộ nghĩnh, và ngày ngày
siêng năng say mê học thuộc lòng các thời khóa, các nghi thức cũng như vùi đầu
dùi mài suy tầm áo nghĩa thâm huyền trên từng trang Kinh ngọc.
Nhớ lại...
3 giờ rưỡi sáng. Hồi chuông thức chúng thứ nhất
vang lên báo hiệu.
Tất cả đại chúng trong ni
viện đều thức giấc.Tôi dật dừ ngái ngủ lồm cồm bò dậy theo, quơ khăn mặt bàn
chải đánh răng, vội vàng làm cho thật nhanh thật gọn các thủ tục vệ sinh cá
nhân, và lật đật mặc áo tràng theo chân các sư cô khác lên chánh điện tụng kinh.
Tôi xuất gia khi còn trẻ tuổi nên sức ăn sức ngủ còn khỏe mạnh, giờ nào cũng thấy rỗng ruột, phút
nào cũng có thể ngủ được, '63ó khi đứng mà cũng ngủ được đấy; vì thế thời khóa
Lăng Nghiêm buổi sáng sớm, đối với tôi, là cả một khổ nạn. Ngày đó, ôi, sao tôi
ghét cái tiếng chuông thức chúng đến thế!! Tuy nhiên nói đi nói lại cũng phải tự
khen thưởng cho tôi điểm mười, vì mặc dù bản tánh tôi rất lười biếng, tôi cũng
đã học thuộc lòng rất mau hai thời khóa công phu sáng chiều và các nghi thức chỉ
trong vòng hơn hai tuần lễ nhập chúng. Chưa hết đâu, chúng ngũ giới xuất gia như
chúng tôi còn phải chấp tác mọi công việc nặng nhọc trong tự viện, và phải học
cả Hán văn nữa vì ngày đó đa phần các bản kinh văn đều viết bằng Hán tự nên các
tăng sĩ phải nắm vững ít nhất phần cơ bản Hán văn để có thể lãnh hội ý nghĩa câu
kinh khi theo học các lớp do chư Tôn đức chỉ dạy. Tuy nhiên
chỉ là những khó khăn lúc đầu thôi. Sau một, hai năm
thì chúng tôi cũng đã kha khá lắm rồi và càng học càng say mê ý nghĩa của từng
lời kinh câu kệ. Tâm hồn tôi cũng dần mở rộng thăng hoa, đón nhận luồng
gió giáo lý thổi mát cõi lòng u ám trì độn, làm yếu dần đi những đốm lửa tham,
sân, si ngầm cháy từ bấy lâu nay; và từ đó tôi không còn cau có, rủa thầm tiếng
chuông cảnh tỉnh đêm khuya nữa mà đã biết lắng lòng rưng rưng khởi bi tâm cầu
nguyện cho loài ngạ quỉ hay súc sanh đang chịu đọa đày chốn A-tỳ địa ngục:
“Nguyện thử
chung thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn,
Văn trần thanh
tịnh chứng viên thông,
Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác.
Văn chung thinh, phiền não khinh,
Trí tuệ trưởng,
bồ đề sanh,
Ly địa ngục,
xuất hỏa khanh,
Nguyện thành
Phật, độ chúng sanh.
Án già ra đế
da tá ha!” (3 lần)
(Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, cõi thiết
vi u ám thảy đều nghe, căn cảnh thanh tịnh chứng hoàn toàn, hết thảy
chúng sanh thành chánh quả. Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ,
trí tuệ lớn, bồ-đề sanh, lìa địa ngục, vượt hầm lửa, nguyện thành Phật, độ chúng
sanh.
Án già ra đế da tá ha!)
Giọng hô đại hồng chung
của vị Sư cô hương đăng ngày đó sao tuyệt vời đến thế, như chuyên chở cả một
trời tình thương đến khắp vạn loài, như nhắc nhủ chúng sinh sớm thức tỉnh giấc
mộng dục lạc miên trường đầy đau khổ (nhưng mà phải hô chuông theo âm Hán Việt
mới hay cơ!)...
- “Mô Phật, xin sám hối quý vị, tôi đã thất niệm hồi tưởng
lại ngày xưa khi mới xuất gia vào chùa như quý vị đây nên đã kể lể dông dài
huyên thiên làm mất thì giờ quý vị.
Thôi để đền bù lại, chúng ta hãy cùng nhau học nghi thức hàng ngày
theo thiền sư Nhất Hạnh cho phù hợp...”
- “Dạ, không sao. Sư Cô cứ chỉ dạy chúng con
theo ý của Sư cô. Nghe Sư cô kể lại chuyện ngày mới xuất gia, chúng con
thấy vui quá và cũng buồn tủi vì chúng con đã già nua rồi mới biết Đạo”, một vị
tân lão ni bùi ngùi tâm sự.
Một vị khác lên tiếng:
- “Bây giờ thì quá trễ rồi, chúng con không thể nào học được Hán
văn đâu nhưng Sư cô hoan hỷ giải thích những lời dạy của chư Tổ để chúng con noi
theo học hỏi được chút nào thì cũng quí lắm rồi!”
Tôi cảm động rưng rưng nước mắt nhìn những gương mặt già nua ngây
thơ kia. Hình như có vầng ánh sáng tỏa chiếu rạng rỡ trên gương
mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười hóm hém hiền hòa của những người kém phước
duyên hơn tôi – xuất gia qui y theo Phật khi tuổi đã về
chiều.
Thôi dù sao đi nữa, có cũng còn hơn không, biết lối quay
đầu trở về nương tựa Phật, Pháp, Tăng là quý lắm rồi – biết nói sao đây, thôi
thì vạn sự tùy duyên.
Thế rồi, ngày qua ngày, các vị tân ni sinh kia rất siêng năng hòa theo tôi ê a tụng lại những
lời dạy của chư Tổ. Trông họ rất dễ thương như trẻ thơ vậy. Có lẽ họ, cũng như
tôi, đã và đang trở về thuở hồn nhiên chân thật trong sáng của mình!
Chúng tôi cùng học hỏi trao đổi với nhau thật vui, thật ấm áp tình
thầy trò '68uynh đệ, và cũng đã nghẹn ngào ray rứt như nhau khi đọc bài Sám Qui
Mạng:
“Qui mạng thập
phương Điều Ngự Sư,
Diễn dương
thanh tịnh vi diệu pháp,
Tam thừa tứ quả
giải thoát Tăng,
Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ.
Đệ tử chúng
đẳng tự vi chân tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sinh tử dĩ phiêu trầm, trục sắc
thanh nhi tham nhiễm, thập triền thập sử, tích thành hữu lậu chi nhân, lục căn
lục trần, vọng tác vô biên chi tội... phi mao đới giác, phụ trái hàm oan...”
(Quay về kính ngưỡng mười phương các Đấng Điều Ngự, cả
Pháp Phật nhiệm mầu thanh tịnh và các bậc Thánh Tăng chứng quả La Hán Vô Sanh,
cúi nguyện xin từ bi gia hộ cho chúng con. Lũ chúng con đây, trái ngược bản tâm, ngu xuẩn luân hồi trôi lăn
theo dòng si ám, rong ruỗi tham lam đắm nhiễm chạy theo âm thanh bóng sắc, nên
mười sợi dây phiền não trói buộc, mười thứ lôi kéo khiến sai, cấu kết chất chồng
thành mầm nhân đọa lạc, sáu căn sáu trần, huyễn hoặc tạo tác ra vô biên tội
lỗi... nên phải mang lông mọc sừng, đền trả lại các tội nghiệp đã gây ra...)
Ôi, từng lời nhắc nhủ dạy răn của chư Tổ
nghe sao khẩn thiết ngậm ngùi, thấm thía tận cùng xương tủy. Từng chữ, từng câu,
từng lời của chư Tổ truyền dạy cho chúng ta là tất cả sự chứng nghiệm tâm linh,
là tất cả quá trình gian nan hành trì tu học, là tất cả sự phấn đấu kiên cường
vượt qua mọi cám dỗ lợi danh, mọi thành lũy bản ngã cốt yếu đạt cho bằng được
giác ngộ tự tâm. Đúng vậy, nếu không thì không những uổng kiếp sống thừa mà còn
phải mang lông đội sừng đền trả lại cơm áo của đàn na tín thí.
Lớp học của chúng tôi đã kết thúc sau ba tuần lễ trong
niềm pháp lạc. Ai nấy đều hoan hỷ và hứa hẹn sẽ cùng
nhau cố gắng tu học theo lời Phật Tổ đồng thời rất mong
sẽ có ngày gặp lại để trao đổi Phật pháp sách tấn nhau. Trải qua kinh nghiệm chỉ dạy lần này, quan kiến cá nhân tôi cũng đã
thay đổi ít nhiều. Tôi nhìn cuộc đời, nhìn mọi người
với sự cảm thông sâu sắc hơn, với từ tâm hơn, hoan hỷ hơn. Tôi sẽ tùy duyên uyển chuyển linh động hơn, bớt cứng ngắc cố chấp
hơn trong từng trường hợp để giúp người giúp mình thêm phần lợi lạc hữu ích.
Thêm một người tu, bớt được một kẻ si mê tội lỗi.
Thêm một ngôi chùa, bớt được một ngục tù tra khảo đọa đày.
Nguyện cầu thế giới thanh bình, chúng sanh an lạc. ■