Nguyễn Khôi
Đến Tô Châu ai cũng
háo hức đi thăm Hàn San tự. Đó là ngôi chùa do Thiền sư Hy Thiên, pháp danh là
Hàn Sơn Tử giả xây vào khoảng năm Thiên
Giám, đời
Lương, thuộc Nam Triều (thế kỷ VI), tại trấn Phong Kiều bên ngoài Xương Môn,
phía Tây thành Cô Tô (nay là Tô Châu). Thiền sư lấy tên hiệu (pháp danh) của
mình đặt tên cho chùa là “Hàn San Tự” để làm kỷ niệm. Từ đây, Thiền sư lại
vân du Núi Lạnh, đó là núi Thiên Thai (nơi phát sinh tông phái Thiên
Thai), kết bạn với Thiền sư Thập Đắc Phong Can. Bức hoành phi với 4 chữ lớn:“Hàn
San Thập Đắc”, có nghĩa là chùa Hàn San lấy tên hai nhà sư Hàn San và Thập Đắc
mà lưu danh.
Trải qua nhiều biến động của các triều
đại, chùa Hàn San bị binh lửa đời Thanh đốt cháy (năm 1860), đến năm Quang Tự
thứ ba (1904), chùa được xây dựng lại với quy mô dáng dấp như còn thấy ngày nay,
gồm có: đại điện, tàng kinh lâu (lầu chứa kinh), chung lâu (lầu chuông), phong
giang lâu (lầu ngắm rừng phong bên sông), bi lang (hành lang đặt bia)... Trong
chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá, trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng
Phong Kiều Dạ Bạc của thi sĩ Trương Kế, đời Đường Huyền Tôn (khoảng năm 754):
楓僑夜泊
月 洛嗚啼霜滿天
江楓漁 火 對 愁 眠
bến phong kiều, chùa Hàn San
姑蘇城外寒山寺
夜半鍾聲到客船
Nguyệt lạc
ô đề sương
mãn thiên
Giang
phong
ngư hỏa
đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán
chung
thanh
đáo khách thuyền
Dịch thơ:
Ban đêm thuyền đậu bến Phong Kiều (*)
Trăng tà,
tiếng quạ kêu sương,
Lửa
chài,
cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai
đậu bến Cô-Tô,
Nửa
đêm
nghe tiếng chuông chùa Hàn
San.
Tản Đà
dịch
(*) chú thích của BBT
Sự ra đời của bài thơ: theo
giai thoại, thì Trương Kế (người Tương Châu, tỉnh Hồ Bắc) một lần đi thi trượt (tiến sỹ), theo dòng Vận
Hà Bắc Nam, đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều (bến cây phong),
bên chùa Hàn San (Hàn San đây là tên
chùa, chứ không có Núi
Lạnh như một số dịch giả suy diễn qua văn bản thơ)... Vào thời bấy giờ (đời Đường), người
ta có “phân
dạ chung”
(chuông chia đêm) đánh vào lúc nửa
đêm... Nhà thơ buồn (vì thi trượt),
nằm trong thuyền chập chờn bên ngọn lửa của ngư ông (lão đánh
cá) giữa trời sương, trăng lặn lẫn tiếng quạ kêu cùng
tiếng chuông chùa Hàn San, do nhà sư đánh
lên lúc
nửa
đêm, đã vẳng đến bên khoang
thuyền,
khiến Trương
Kế tức cảnh sinh tình, hạ bút hồn cất
cánh thơ để lại một Phong-Kiều Dạ Bạc lưu truyền hậu thế. Cũng nhờ có thơ
Trương Kế mà Hàn San Tự
trở nên nổi tiếng, hấp dẫn khách năm châu bốn biển, được các thi nhân
viết thăm đề vịnh. Xin dẫn một
vài ví dụ
với đôi câu thơ hay:
Ô đề
nguyệt lạc kiều biên tự
(Quạ
kêu trăng xế chùa bến
cầu)
Tần
Thục-đời
Tống
Lãnh tận
Hàn San cổ tự phong
(Lạnh
đến cả cây phong bên
ngôi chùa cổ Hàn San)
Khang Hữu
Vi-đời Thanh
Tôi,
nhân
có may mắn được viếng thăm Hàn San tự, đi qua cầu đá ở bến Phong Kiều trên dòng Vận Hà, tựa đình
chiết liễu ngắm rừng phong bên thành
Cô-Tô xưa... cảm khoái nảy đôi khúc diễn ca nôm na, xin
chép ra
để
bạn đọc cùng chia sẻ
nỗi niềm:
Thăm Hàn San Tự bến
Bài 1
Chùa cổ, thơ
đề, vắng tiếng chuông,
Ngàn năm ngưỡng
vọng đến Hàn San;
“Cô Tô thành
ngoại” in bóng nguyệt,
Để khách đa tình
phải vấn vương.
Bài 2
Nắng gắt, người
chen, ánh
chiều tà
Bờ phong xòa
bóng, liễu thướt tha
Chuông động hồn
xưa Hàn San Tự
Lên tháp vời
trông sóng Vận Hà
Dạo phong kiều lộ
Chiều sương dạo phố Phong Kiều
Tựa đình “chiết
liễu” gió reo đôi bờ
Thuyền ai về
bến Cô Tô
Lửng lơ nghe tiếng
chuông chùa Hàn San. (NK) ¢