Tâm Hà Lê Công Đa
Lịch sử Trúc Lâm
tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm Việt
Nam
có kể lại câu chuyện giữa Đệ nhị tổ Pháp Loa và Đệ tam tổ Huyền Quang như sau:
“Một hôm Thiền
sư đứng hầu lúc Đệ nhị tổ Pháp Loa bị bệnh, trong lúc Sư đang ngủ, ngài Huyền
Quang nghe Sư nói : “Hồng! Hồng!” Huyền Quang liền thưa:
- Tôn giả nói mớ
chăng?
Sư đáp:
- Ngủ thì nói mớ,
còn không ngủ thì chẳng nói mớ!
Huyền Quang
thưa :
- Không thể ngủ
với thức là một được?
Sư bảo :
- Ngủ với thức là một!”
Ở đây, tạm thời chúng ta không bàn đến cái triết lý sâu xa, những ý nghĩa thâm
trầm chứa đựng trong câu nói của Tổ Pháp Loa qua câu chuyện đượm màu sắc thiền
vị này. Điều mà chúng ta muốn nói đến là nỗi ngạc
nhiên của Tổ Huyền Quang –và có thể cũng là của tất cả chúng ta- khi thấy một vị
tổ đã đắc đạo, đã được ấn chứng của một phái Thiền mà khi ngủ vẫn còn nằm mơ và
nói mớ như tất cả con người thế gian trần tục. Như vậy phải chăng câu trả
lời của Tổ Pháp Loa, “Ngủ thì nói mớ, còn không ngủ thì chẳng nói mớ!” có thể
được diễn giải một cách đơn giản rằng, nếu ta còn mang xác thân tứ đại, ta vẫn
có những hoạt động tâm sinh lý của một con người: Hễ còn ngủ là còn nằm mơ?!
Phải chăng đó là một chân lý ngàn đời như ca dao Việt
Nam
đã khẳng định, “Đố ai nằm ngủ không mơ?” và
như vậy, một câu hỏi được đặt ra: Những giấc mơ nói lên điều gì, đóng vai trò
như thế nào trong đời sống con người? Người thế gian khi ngủ nằm mộng thế còn những bậc chân tu đắc đạo,
những bậc giác ngộ, và ngay cả Đức Phật khi ngủ có nằm mộng hay không?
1. Phật Giáo Và Những Giấc Mơ Nổi Tiếng
Có thể nói không
ngoa rằng lịch sử Phật giáo được khởi đi từ một giấc mơ, đó là giấc mơ “con voi
trắng sáu ngà” nổi tiếng của Hoàng hậu Ma Gia. Giấc mơ này đã được ghi lại trong
rất nhiều các kinh sách Phật giáo như Phổ Diệu Kinh (Lalitvistara), Phật
Bản Hạnh Tập Kinh (Abiniskramanasutra), Phật Sở Hành Tán (Buddhacarita),
Đại Sự (Mahavastu) và đặc biệt là trong bộ Nhân Duyên Truyện (Nidana
Katha) được coi như là bộ tiểu sử chính thức về cuộc đời Đức Phật theo
truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy:
“Thành Ca Tỳ La Vệ đang ở vào khoảng giữa của Thánh Lễ Mùa
Hè … Hoàng hậu Ma Gia đã tham dự lễ hội này trong suốt bảy ngày trước ngày trăng
tròn. Đến ngày thứ bảy, bà thức dậy sớm, tắm rửa bằng nước thơm, bố thí thức ăn cho mọi người… Trang phục bằng y phục
đắt tiền, dùng những thức ăn chay tịnh, bà đã dâng lên những lời nguyện của ngày
thánh lễ. Xong trở về phòng, bà thiu thiu ngủ và nằm thấy giấc mộng như sau.
Bốn vị thiên
vương xuất hiện nâng chiếc giuờng ngủ của bà lên, khiêng
đến dãy núi Hy Mã Lạp Sơn và để xuống dưới một tàng cây long thọ lớn… Và rồi các
tiên nữ đã đến tắm rửa cho bà, thay trang phục của thiên giới, xức dầu
thơm
và phủ lên bà những vòng hoa lớn. Họ để bà nằm trên chiếc giường của thiên đình,
đầu quay về hướng đông. Bồ Tát (tiền thân của Đức Phật) trong hình dạng của một
con voi trắng hiên ngang, xuất hiện từ hướng bắc tiến đến gần bà. Cầm giữ một
đoá sen trắng trên chiếc vòi của mình, ngài đi quanh bà ba vòng, xong nhẹ nhàng
gỏ vào hông phải của bà và nhập thai.”
Con voi trắng này
trong một số sách sử khác đã ghi rõ là có sáu ngà. Giấc mộng này dĩ nhiên đã gây
xôn xao không ít trong chốn cung đình Ca Tỳ La Vệ và vua Tịnh Phạn đã phải triệu
thỉnh những vị thầy Bà la môn đoán mộng giỏi nhất đương thời đến để lý giải giấc
mơ. Câu trả lời còn được ghi lại trong sử sách Phật giáo như mọi người đều biết,
là Hoàng hậu Ma Gia sẽ sinh ra một vị Hoàng tử mà tương lai sẽ làm vẻ vang giòng
họ Thích Ca. Nếu ở lại thế gian ngài sẽ là một vị Chuyển Luân Thánh Vương, còn
nếu xuất thế gian, ngài sẽ là một vị Thiên Nhân Đạo Sư, một vị Thầy của khắp ba
cõi. Giấc mộng này chắc chắn đã có tác động lên những thao thức, suy nghĩ của
Thái tử Tất Đạt Đa sau này, tạo nên một thôi thúc, khát vọng đi tìm chân lý.
Giấc mộng này, lành thay, đã được ứng nghiệm, và từ đó một vị Phật đã ra đời làm
ngọn đuốc soi sáng thế gian còn mãi đắm chìm trong giấc ngủ dài bất tận.
Nói lịch sử Phật giáo khởi đi từ một giấc mơ là như thế.
Bởi vì nếu không có giấc mơ của Hoàng Hậu Ma Gia thì đã không
có Đức Phật ra đời và dĩ nhiên, không có Phật giáo. Trên một bình diện
khác, khi truyện tích này đã được lưu lại trong những bộ kinh sách quan trọng
của Phật giáo, nó cho chúng ta thấy thêm một điều rằng, Phật giáo đã chia xẻ một
số niềm tin của các truyền thống tín ngưỡng đương thời và trước đó, đặc biệt là
giáo thuyết Bà La Môn, vốn tin rằng giấc mộng đến với con người như một điềm báo
trước. Điềm báo trước này như chúng ta sẽ thấy, không phải chỉ là điềm lành như
đã xảy ra trong giấc mơ của Hoàng Hậu Ma Gia mà còn là những điềm dữ báo trước
những chuyện bất tường cho những người thân cận nhất của Đức Phật trong đó có
phụ vương Tịnh Phạn và người vợ thân yêu của ngài, Công chúa Da Du Đà La.
Bộ Phật Bản Hạnh
Tập Kinh kể lại rằng, ngày mà Thái Tử Tất Đạt Đa khởi sự chuyến du hành lần đầu
tiên ra khỏi hoàng cung, ngay đêm hôm đó vua Tịnh Phạn đã nằm mộng thấy bảy giấc
mơ liên tiếp: “Ngài thấy ngọn cờ biểu tượng của hoàng gia bị mang ra khỏi cửa
đông thành; rồi thái tử cởi ngựa đi ra cửa nam thành; thái tử cởi ngựa ra khỏi
cửa tây thành; môt chiếc dĩa bay ra khỏi cửa bắc thành; Thái tử đang ngồi ở giữa
đường đánh một chiếc trống lớn; Thái tử đang ngồi trong một toà tháp và liệng bỏ
ngọc ngà châu báu xuống cho mọi loài sinh vật; và cuối cùng, sáu người đàn ông
đang đứng ở ngoài cửa thành bứt tóc, than khóc.” Trong một lần khác, vua Tịnh Phạn đã nằm mơ thấy một con voi phủ đầy
trang sức ngọc ngà châu báu bỏ chạy ra khỏi kinh thành.
Voi như ta biết là một biểu hiệu của sức mạnh, vương quyền. Tất cả những giấc mơ này của vua Tịnh Phạn đều đã báo trước sự chia
lìa, mất mát.
Còn Công chúa Da
Du Đà La, vào đêm mà Thái tử chuẩn bị để trốn khỏi hoàng cung lên đường tìm đạo,
bà đã nằm mơ thấy cả một cơn ác mộng dài:
“Bà thấy mặt
đất, biển cả và núi non đều rúng động và cây cối đổ ngã trong một cơn gió lớn.
Rồi mặt trời, trăng sao đều rơi rụng khỏi bầu trời. Kế đến bà thấy mình dùng bàn
tay trái cắt đi mái tóc, chiếc vương miện rơi xuống đất và cả tứ chi cũng
bị cắt lìa. Bà thấy mình bị trần truồng, chuổi ngọc trai và châu báu trang sức
bị bể vỡ, rơi vung vải.
Rồi thì chiếc
giường ngủ của hai người gãy đổ sụm xuống nền nhà, chiếc lọng che của vua cha
cũng vỡ tan ra, các vật trang hoàng trên chiếc lọng rơi lả tả xuống dòng sông và
bị nước cuốn trôi đi. Những đồ trang sức của chồng, y phục, vương miện nằm vung
vải trên chiếc giường ngủ.
Kế đến bà
thấy ánh sáng rời khỏi hoàng cung, tất cả chìm dần vào bóng tối.
Chiếc màn ngủ làm bằng vải quý rách tả tơi cùng với chuổi ngọc trai rơi xuống.
Cả đại dương đang trong cơn biển động và núi Tu Di rúng động đến tận chân.” (1)
Công chúa Da Du Đà La kinh hoàng thức giấc, đem nội dung của giấc mộng này kể
lại cho chồng nghe. Mặc dù Thái tử Tất Đạt đã dùng mọi lời lẽ rất lạc quan để
trấn an vợ, giải thích rằng đó là một giấc mộng lành, nhưng theo niềm tin của
truyền thống Ấn giáo, giấc mơ này đã báo trước rằng rồi bà sẽ mất chồng, bởi vì
theo phong tục của Ấn Độ vào thời đó, những người goá phụ thường không để tóc và
không mang đồ trang sức. Giấc mơ này là một điềm báo trước cho thấy rằng Thái Tử
Tất Đạt Đa sẽ từ bỏ gia đình, vợ con, ngôi báu để lên đường tìm đạo, điều mà
ngài luôn ấp ủ trong lòng nhưng vẫn luôn dấu kín ngay cả đối với những người
thân.
Giấc mơ như một
điềm báo trước là một niềm tin của con người kể từ thời cổ đại cho đến nay, được
chia xẻ bởi mọi nền văn minh từ Hy Lạp, La Mã cho đến Ấn Độ, Trung Hoa… Lịch sử
đã ghi lại không biết bao nhiêu những giấc mơ nổi tiếng đã làm thay đổi cục diện
thế giới của những vĩ nhân, danh tướng. A Lịch Sơn Đại
Đế chiến thắng thành Tyre, Caesar chiếm thành La Mã, Thành Cát Tư Hãn lập nên đế
nghiệp đều có những điềm mộng báo trước. Và gần đây nhất là những cơn ác mộng
của Tổng Thống Lyndon Johnson, một vị tổng thống mà tên tuổi hầu như đã gắn liền
với cuộc chiến Việt
Nam.
Tổng Thống Johnson
luôn luôn nằm mơ thấy mình bị tê liệt, hoặc bị trở ngại không thể cử động được
theo ý muốn. Năm 1961, khi trở thành Phó Tổng Thống, ông nằm mơ thấy mình
đang ngồi ký giấy tờ trước bàn làm việc, khi công việc hoàn tất ông định trở về
nhà thì không thể nào di chuyển được vì đôi chân của mình đã bị xiềng vào ghế
bởi một sợi dây xích nặng. Giấc mơ loại này càng gia tăng cường độ sau khi ông
trở thành Tổng Thống, đặc biệt là sau trận chiến Mậu Thân 1968.
Có một lần ông mơ thấy mình nằm tê liệt, bất động trên chiếc giường ngủ tại Toà
Bạch Ốc, ngay cả không thể nói ra lời. Trong mơ ông thấy chiếc đầu là đầu của mình, nhưng thân thể là lại
là thân thể ốm o của vị Tổng Thống bán thân bất toại Woodrow Wilson trước đây.
Thức dậy trong đêm, để thoát khỏi cơn ám ảnh của giấc mộng này, ông đã cầm chiếc
đèn bấm đi dọc theo hành lang của Toà Bạch Ốc, tìm đến nơi treo bức chân dung
của TT Wilson, sờ vào đó, để tin chắc rằng mình không phải là TT Wilson.
Khi cuộc chiến
Việt
Nam
ngày càng trở nên khốc liệt, ông nằm mơ thấy mình đang chơi vơi ở giữa dòng sông,
cố gắng vùng vẫy để bơi về phía bờ bên kia nhưng thất bại. Ông cố gắng một lần nữa
để lội trở ngược về phía bờ khác nhưng cũng không thành công, và cứ mãi loay
hoay ở giữa giòng.
Giấc mơ này đã phản ảnh đúng tình trạng tấn thối lưỡng nan
của TT Johnson lúc đó và ít lâu sau, ông quyết định rút lui không tái tranh cử
vào nhiệm kỳ mới, dù ông có rất nhiều cơ may để thắng cử. Quyết định rút lui của
TT Johnson đã ảnh hưởng không ít đến cuộc rút lui của Mỹ không can dự vào cuộc
chiến Việt
Nam
sau này.
2. Tâm Lý Học Phương Tây và Phật Giáo Trong Vấn Đề Lý Giải Giấc Mơ
Nếu con người ai
ngủ cũng đều nằm mơ thì tính trung bình –theo khuyến
cáo của giới y khoa- mỗi ngày một người cần phải ngủ đủ tám giờ đồng hồ cơ thể
mới có thể hồi sức để tiếp tục chức năng làm việc. Như vậy,
không cần phải giỏi tính toán cho lắm, ta cũng thấy được rằng, một người đã dành
suốt cả một phần ba đời người của mình để ngủ, có nghĩa là để sống trong những
giấc mơ.
Giấc mơ đã tác động đến đời sống con người một cách sâu đậm như thế cho nên từ
xưa đến nay đã có rất nhiều lý thuyết được đưa ra để lý giải, trong đó Phật giáo
có những đóng góp nổi bật, đặc biệt không những đã đưa ra những lý thuyết nhằm
lý giải giấc mơ mà còn có khả năng vận dụng giấc mơ vào đời sống tâm linh, tu
tập. Sau đây, chúng ta sẽ thử tìm hiểu xem khoa học và Phật giáo đã lý
giải về giấc mơ như thế nào.
2a. Tâm Lý Học Phương Tây Nói Gì Về Giấc Mộng?
Giấc mơ đã được
các triết gia phương Tây đề cập đến từ lâu với những tên tuổi nổi tiếng như:
Hippocrates (469-309 B.C.), Plato (427-347 B.C), Aristotle (384-322 B.C)… nhưng
mãi cho đến thế kỷ thứ 19, song song với sự phát triển của khoa học, ngành Tâm
lý học mới bắt đầu có những bước đi chuyên sâu vào lãnh vực này với hai nhân vật
kiệt xuất là Sigmund Freud (1856-1939) và Carl Jung (1875–1961). Ở đây, chúng
ta sẽ đặc biệt chú ý đến Freud bởi vì ông được xem như là một nhân vật tiêu biểu
cho ngành Tâm lý học phương Tây đương đại, là người đầu tiên đã có những khám
phá sâu sắc về lãnh vực vô thức, đã sử dụng những gì liên đới đến người nằm mơ
để lý giải giấc mơ một cách có hệ thống, và đồng thời cũng là cha đẻ của bộ môn
Phân tâm học, một ngành tâm lý trị liệu những chứng bệnh tâm thần đang được áp
dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay.
Tâm lý học và đặc biệt ngành Phân tâm học trước tiên là một khoa học nghiên cứu
về tâm, thế nên trước khi đi vào việc tìm hiểu lý thuyết của Freud về giấc mơ,
chúng ta không thể không biết đến quan niệm của Freud trong việc phân chia khu
vực sinh hoạt tinh thần, tức tâm thức của con người như thế nào. Cấu trúc tâm
thức của con người, theo
Freud, bao gồm ba tầng: ý thức, tiền ý thức và vô thức. Tiền ý
thức là tầng lưu trữ những chất liệu tuy không còn ở trong khu vực ý thức nhưng
chưa chìm khuất hẵn vào tầng vô thức, nghĩa là nơi chứa đựng những ký ức có thể
gợi nhớ lại. Còn vô thức là một khu vực bao la, bí hiểm mà ta không thể biết được
một cách trực tiếp. Nó bao gồm tất cả những gì thuộc về bẩm sinh, di
truyền, và bản năng, đặc biệt là bản năng tình dục –libido, danh từ của Freud-
trong mỗi con người nhưng đồng thời cũng là những tác động của môi trường xã hội
bên ngoài lên hoàn cảnh sống, cùng với những biến cố, kỷ niệm và những ước muốn,
khát vọng chưa thành tựu của họ. Nó cũng bao gồm luôn cả những
dồn nén, ẩn ức vốn thuộc tầng ý thức nhưng đã bị dồn đẩy vào tầng vô thức mà con
người không hề hay biết. Hiểu được khái niệm phân chia
này ta có thể dễ dàng đi vào lý thuyết của Freud trong việc lý giải giấc mơ.
Nền tảng của lý
thuyết Freud được đặt cơ sở trên sự phân biệt hai cấp độ của giấc mộng do người
nằm mơ có thể nhớ lại được nội dung của nó hay không. Ông gọi là nội dung
biểu hiện (manifest content) là loại giấc mơ mà ta có thể nhớ và kể lại nội
dung cho người khác và ngược lại là nội dung ẩn tàng (latent content) tức
là những sự thực nằm ở phía sau hậu trường. Theo Freud, loại nội dung biểu
hiện này không mang một ý nghĩa quan trọng nào vì chỉ là bề mặt ngụy trang
của những ý nghĩ trung thực ẩn chứa trong giấc mơ. Chính những ý nghĩ này đã tạo
thành cái nội dung ẩn tàng bao gồm những ước mơ, hay là những hoang tưởng
mà một người đã không bao giờ thoả mãn, vươn tới được. Đây chính là phần vô thức, bao gồm những chất liệu bẩm sinh, và
những gì thuộc về bản năng mà ý thức không thể nhận biết. Thế rồi chúng
phải tìm lối thoát, tìm phương cách xì hơi bằng cách hoá thân, biến dạng thành
những dạng thù khó nhận ra và xuất hiện trong những giấc mơ có nội dung biểu
hiện. Biên giới giữa ý thức và vô thức, theo Freud, được duy trì bởi một
“nhân viên kiểm duyệt” có chức năng như một người lính biên phòng, với nhiệm vụ
trấn áp không cho các thành phần thuộc bản năng vô thức tràn vào khu vực ý thức,
đồng thời tống xuất các thành phần “bất hảo” -những ý tưởng được xem là không
lành mạnh sản sinh ra trong khu vực ý thức- vào vô thức. Tuy nhiên vào ban đêm,
trong giấc ngủ, người lính biên phòng này đôi lúc bị mất cảnh giác, mất
khả năng phân biệt, thế nên đã để cho bộ phận vô thức mang “thông hành giả” lọt
qua biên giới. Tiến trình mà phần vô thức, cũng như phần không được ý thức chấp
nhận của nội dung ẩn tàng chuyển hoá biến
dạng thành nội dung biểu hiện được Freud gọi là sự vận hành của giấc
mơ
(dream work).
Khi đưa ra quan
niệm về sự vận hành và hình thành của giấc mơ như thế, theo Freud, việc lý giải
giấc mơ phải được đi theo một tiến trình đảo ngược, có nghĩa là người phân tích
phải dùng nội dung biểu hiện như là điểm khởi đầu để từ những hình ảnh
méo mó, mơ hồ không rõ nét này đi ngược trở lại, truy tìm dấu vết cội nguồn của
những ý tưởng được cất dấu trong nội dung ẩn tàng, tức là từ ý thức đi
trở ngược lại vô thức. Kỹ thuật này được Freud gọi là liên tưởng tự do
(free association) -tức là để cho người nằm mơ nói ra bất cứ cái gì chợt đến với
họ một cách tự phát liên quan đến bất kỳ yếu tố nào xảy ra trong giấc mơ-, mà
ông đề cao như là một “nguyên tắc thiêng liêng” và xem đó là nguyên tắc cơ bản
của ngành Phân Tâm Học. Vì xem giấc mơ như là một thể thống nhất gói ghém một ý
nghĩa, thông điệp nào đó, trong cuốn “Lý Giải Giấc Mơ” Freud cũng đã đề cập đến
hai phương cách cổ điển đã từng được người xưa sử dụng trong việc giải mộng, thứ
nhất là lý giải tính cách biểu trưng của hình tượng được thấy trong giấc mơ và
thứ hai là dùng phương pháp giải mả, căn cứ trên một chìa khoá với lời giải đáp
nhất định (2). Freud phủ nhận cả hai phương pháp này, cho rằng
đó không phải là phương cách tiếp cận khoa học trong việc trị liệu.
Một cách tóm tắt,
Freud cho rằng giấc mơ chỉ đóng vai trò thuần túy như là một kẻ bảo vệ giấc ngủ,
để cho giấc ngủ không bị gián đoạn, thế nên đừng nên tìm kiếm ở giấc mơ như một
lời giải đáp cho một vấn nạn nào đó. Động lực chính tạo nên giấc mơ,
theo Freud, chỉ là để giải toả, làm thoả mãn những ước mơ chưa thành tựu.
Những ước mơ đó có thể là những ước mơ được khởi dậy ở trong ngày mà chưa hoàn
tất được, hoặc vì thuộc lãnh vực “cấm kỵ” nên bị dồn nén vào vô thức; cũng có
thể là những ước mơ khởi dậy trong đêm do nhu cầu của thể xác (như đói bụng,
buồn tiểu chẳng hạn,…), hay là những ước mơ bắt nguồn từ vô thức mà không có khả
năng vượt qua được bức tường kiểm duyệt để chen vào khu vực ý thức.
Với cách nhìn này của Freud, giấc mơ một phần nào cũng là bộ mặt cải trang của
những ước mơ, những dồn nén tình dục được dấu kín. Như vậy nói chung,
ngành Tâm lý học phương Tây mà Freud là đại biểu đã xem giấc mộng như là một
phản ứng tâm-sinh-lý của con người, không những phản ảnh những khát vọng che dấu
mà còn là một hình thức giải tỏa những ẩn ức tâm sinh lý đã chìm sâu trong vô
thức (3). Lý thuyết của Freud tuy có thể được xem là mới mẻ nhưng thực ra cũng
chỉ là sản phẩm mang tính thời đại của xã hội phương Tây lúc bấy giờ, và sự xuất
hiện của ông như là một con chim báo bảo về một cuộc cách mạng tình dục đang
manh nha hình thành vào đầu thế kỷ hai mươi.
Khi nghiên cứu về
giấc mơ, Freud đã cố ý hay vô tình quên đi hai loại giấc mộng vốn có ảnh hưởng,
tác động lớn lao đến đời sống con người, đó là loại giấc mộng xảy ra như một
điềm báo trước và loại giấc mộng trong đó một số người với năng lực tâm linh đặc
biệt có khả năng tiếp xúc với các cảnh giới khác (4). Với cái
nhìn phiến diện như thế, các nhà tâm lý học phương Tây cho đến nay cũng vẫn chưa
cho ta những giải đáp thỏa đáng liên quan đến giấc mộng. Đó là lý do mà
hiện nay họ đang tìm về với phương Đông để học hỏi, làm giàu có thêm ngành tâm
lý trị liệu của mình.
2b. Phật Giáo
Và Vấn Đề Lý Giải Giấc Mơ
Không ai có thể
phủ nhận rằng giấc mơ đã gắn liền với con người và qua đó với cộng đồng xã hội
từ thời nguyên thủy. Chắc chắn là con người thời xưa cũng như thời nay mỗi lúc
gặp nhau, nếu có đủ thân tình, sẽ rất sẵn sàng để chia xẻ với nhau những giấc mơ
mà họ đã gặp. Và bởi vì, “đố ai nằm ngủ không mơ”, nên giấc mơ cũng đã tác động
đến cả đời sống của những người xuất gia, tu hành, cụ thể như cái cộng đồng Phật
giáo nhỏ bé lúc vừa mới hình thành. Một vấn đề đã từng gây thắc mắc không ít cho
cộng đồng tăng già vào thời đó là vấn đề liên quan giữa mộng và nghiệp, hay nói
một cách cụ thể hơn, người tăng sĩ có chịu trách nhiệm đạo đức về những gì đã
xảy ra trong giấc mơ không? Thắc mắc này chắc chắn không phải là chuyện nhỏ, vì
Đức Phật đã phải nhúng tay
vào can thiệp, được phản ảnh đầy đủ trong tạng Luật Pali.
Thí dụ điển hình
nhất là trường hợp của một tăng sĩ nằm mơ và xuất tinh trong giấc mơ. Vấn đề này
bị xem là hành vi cố ý xuất tinh và đã được đưa ra trước cộng đồng
Tăng già để phán xét mà kết quả là vị Tăng sĩ này đã bị phạt tội. Thế rồi Đức
Phật đã can thiệp vào nội vụ, cho rằng vị tăng này không phạm tội vì câu chuyện
chỉ xảy ra trong giấc mơ. Theo cách giải thích này chúng ta cũng có thể hiểu
được rằng, không ai có thể tạo ra được giấc mộng, thế nên trong cơn mộng chúng
ta không trách nhiệm về những gì đã xảy ra và do đó, không tạo nghiệp, vì như ta
biết nghiệp phải do tác ý tạo nên. Tuy nhiên sau này, một trường hợp tương tự
lại tái diễn với một tăng sĩ khác, điều này đã làm cho Đức Phật quan tâm sâu xa
hơn về vấn đề giấc ngủ và nằm mơ nên nhân đó đã ban một thời pháp đặc biệt cho
cộng đồng tăng già về năm điều lợi, hại của một người biết thế nào là ngủ trong
tĩnh thức và chánh niệm hay không.
Thế nhưng phải đợi
đến thế kỷ thứ năm, khi ngài Phật Hộ (Buddhaghosa), một luận sư và cũng là nhà
học giả lừng danh của Phật giáo xuất hiện thì việc nghiên cứu và lý giải giấc mơ
mới trở thành có hệ thống. Trong hai tác phẩm nổi tiếng của mình, “Luận về Giới
Luật” (Samantapasadika) và “Luận Về Tăng Nhất Bộ Kinh” (Manorathapurani), ngài
Phật Hộ đã nêu ra bốn nhân duyên chính tạo thành giấc mơ, đó là: những xáo trộn
của các yếu tố, bộ phận trong cơ thể; những kinh nghiệm đã trải qua; những ảnh
hưởng của thần thánh, chư thiên, và cuối cùng, đó là điềm báo trước.
Ngài Phật Hộ giải
thích rằng, những người có tính tình cáu gắt thường hay nằm mộng những giấc mơ
đại loại như thấy mình đang bay trên không, bị rơi xuống từ núi cao, hay bị thú
dữ tấn công,… Ngài cho rằng những
giấc mơ loại này là không thật và không ảnh hưởng gì đến đời sống của người nằm
mộng. Loại giấc mơ thứ hai gây ra bởi những kinh nghiệm hay biến cố xảy
ra trong quá khứ -chẳng hạn như chúng ta được nghe những thuyền nhân vượt biên
sau đó thường hay nằm mơ thấy tàu chìm hoặc bị công an rượt đuổi,…- loại giấc mơ
này theo ngài Phật Hộ, cũng không thật và không có tác dụng. Loại thứ ba là do
thần thánh, chư thiên tạo ra. Giấc mơ loại này có thể
thật mà cũng có thể giả và có ảnh hưởng tốt hay xấu đối với con người tùy thuộc
vào ý muốn của những chư thiên đã tạo ra giấc mơ. Về giấc mơ loại này, kinh điển
Phật giáo đã kể lại câu chuyện như sau:
“Cách thức chư
thiên gây ra những ảnh hưởng xấu vì sự thù ghét .
Vào thời xưa ở Celon (
Srilanka), một thượng tọa già trú trong tu viện Nāga ở Rohana đã ra lệnh hạ một
cội cây tên là Thiết mộc thuộc giống Ấn độ không có xin phép chư Tăng trước. Vị
chư thiên hộ trì cội cây đó nổi giận với vị thượng tọa già và cho một
giấc mơ có thực lần đầu để khiến cho vị thượng tọa tin tưởng những giấc mơ.
Lần thứ hai vị
chư thiên cho một giấc mơ khiến cho vị tỳ khưu già này bất an, "Bảy ngày
từ hôm nay, thí chủ ủng hộ của ngài là đức vua sẽ chết". Vị thượng tọa già được
báo trong giấc mơ, nghĩ rằng việc ấy sẽ xảy ra nên kể tin này cho những cận
thần, tất cả đều rất lo lắng cho vua và than khóc.
Khi vua yêu cầu họ cho biết lý do ưu bi, họ trả lời rằng theo
vị thượng tọa già, vua sẽ qua đời vào ngày thứ bảy từ đây. Và đó là lý do họ
than khóc. Vua tính các ngày trôi qua cho đến ngày thứ bảy không có qua đời, vua
nói rằng vị thượng tọa đã tiên đoán sai và làm mọi người kinh sợ. Nhà vua liền
truyền lệnh chặt tay chân của vị thượng tọa. Do vậy, vì
giấc mơ vị chư thiên cho thấy là giả nên vị tỳ khưu phải chuốc lấy họa.”(5)
Loại giấc mơ thứ
tư, điềm báo trước, theo ngài Phật Hộ là do công đức hay ác nghiệp của mỗi cá
nhân tạo ra ở trong đời sống này hay từ những kiếp trước. Giấc mơ loại này là
thật và thường có tác dụng tốt, chẳng hạn như giấc mơ của Hoàng hậu Ma-Gia hay
là mười sáu giấc mơ của vua Kiều Tất La (Kosala) đã được Đức Phật giải thích
trong “Bản Sinh Kinh”. Những giấc mơ loại này, theo
ngài Phật Hộ, chính là sự tiên báo trước của những cái quả đã chín mùi sẽ được
biểu hiện ra trong đời sống thật trên cơ sở của luật nhân quả và nghiệp báo.
Và ngài đi đến kết luận, “Bốn loại giấc mơ này chỉ xảy ra với những con người
bình thường; những người đã chứng ngộ thì không còn thấy bất cứ mộng mị nào nữa.”
(6) Niềm tin này được lưu truyền cho đến nay trong cả hai truyền thống Nguyên
Thủy và Đại Thừa.
Nằm mơ thấy ác
mộng là một kinh nghiệm không mấy thích thú cho con người, thế nên trong rất
nhiều kinh điển Đại thừa đều có lời hứa khả rằng, nếu hành giả chuyên trì tụng
một bộ kinh nào đó thì đêm ngủ sẽ không còn nằm mơ thấy ác mộng nữa. Như vậy,
giấc mơ một phần đã được Phật giáo lý giải dưới lăng
kính của luật nhân quả và nghiệp báo. Niềm tin này đã được khẳng định, củng cố
trong
một số kinh sách Đại Thừa, cụ thể như Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện:
“Như những
chúng sanh đời sau, hoặc trong giấc ngủ, hoặc trong chiêm bao thấy các hạng Quỷ,
Thần nhẫn đến các hình lạ, rồi hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu
rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt…
Đó đều là vì
hoặc cha mẹ, con em, hoặc chồng vợ, quyến thuộc trong một đời, mười đời, hay
trăm đời nhìn đời về thuở quá khứ bị đọa lạc vào ác đạo chưa được ra khỏi, không
biết trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt nỗi khổ não, nên mới về mách
bảo với người có tình cốt nhục trong đời trước cấu mong làm phương tiện gì để
hầu được thoát khỏi ác đạo.” (7)
Tóm lại, gần một ngàn năm trăm năm trước đây, Phật giáo đã đưa ra những lý giải
về giấc mơ vừa mang tính khoa học vừa phản ảnh những thực tế tâm linh vẫn còn
giá trị trong thời đại ngày nay. Ngài Phật Hộ phải có một cái nhìn tuệ giác mới thấy được
rằng những xáo trộn trong cơ thể cũng như những biến cố để lại dấu ấn sâu đậm
trong tâm thức con người đã tạo nên những giấc mơ; đồng thời cũng phải có những
thực chứng tâm linh mới có thể lý giải được nguyên nhân gây ra những giấc mơ xảy
ra như một điềm báo trước. Như thế, trên một số lãnh vực, cho đến bây giờ khoa học phương Tây
vẫn đã phải nhường bước cho minh triết phương Đông. Từ nhận định này, ta
không khỏi suy nghĩ rằng, nếu Freud có đôi chút hiểu biết về Phật giáo chắc có
lẽ ông đã không tự hào và đại ngôn, khi duyệt xét lại những thành tựu của khoa
học về lãnh vực này, cho rằng mình là người duy nhất nghiên cứu về giấc mơ một
cách thấu đáo, như đã viết trong phần mở đầu của tác phẩm quan trọng, “Lý Giải
Giấc Mơ” – The Interpretation of Dreams- của ông: “Mặc dầu trải qua hàng
ngàn năm nỗ lực, những hiểu biết mang tính khoa học về giấc mơ chỉ đạt được
những tiến bộ rất mực khiêm nhượng… rất ít oi hoặc chẳng bao giờ đụng đến cái
bản chất cốt lõi của giấc mơ.”
3. Trở Về Với Bài Kệ Nổi Tiếng của Kinh Kim
Cang
Ở trên
chúng ta biết được rằng con người đã dành hết một phần ba đời mình để ngủ, tức
là để sống trong những giấc mơ. Thế nhưng hai phần ba còn lại của đời người,
dưới mắt nhìn của các bậc giác ngộ, con người cũng chỉ sống trong một cơn mộng
dài! Như thế, cái mà chúng ta gọi là “thức” thật ra cũng chỉ là một giấc ngủ
ngày tiếp nối và trong cơn mộng du này, thế gian bao gồm những con người đang
xây mộng, dệt mộng, mua mộng và bán mộng! Giấc mơ vì thế cũng là một hình tượng tiêu biểu cho cuộc đời, thường
được nêu lên trong văn chương đời thường cũng như trong triết học, tôn giáo.
Về những
giấc mơ đời thường, chúng ta chắc đã từng nghe qua câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng
của nhà thơ Pháp La Fontaine: Chuyện “Cô Bê-Rét.” Cô Bê-Rét là
một cô bé nhà nghèo, làm công, đang đội một liễn sữa trên đầu mang ra chợ bán.
Trên đường đi, cô bắt đầu tính toán, xây mộng: Với số tiền công bán sữa ít oi
này cô có thể mua được một lố trứng gà. Từ lố trứng này chúng
sẽ nở ra cho cô cả một đàn gà.
Rồi bầy gà này sẽ sinh sôi nẩy nở cho đến một lúc nào đó cô có thể bán đi và mua
được một con bê con. Nuôi nấng chăm sóc con bê con này đến lúc khôn lớn, cô tha
hồ vắt sữa của nó mang ra chợ bán mà không cần phải đi làm công cho ai nữa.
Thích thú trước viễn tượng này, cô Bê-Rét đã nhẩy cẩng lên và vấp chân té, làm
đổ luôn cả liễn sữa đang đội trên đầu! Thật tội nghiệp cho cô bé Bê-Rét của
chúng ta, giấc mộng vàng đã hoàn toàn sụp đổ.
Một giấc mơ nổi tiếng khác của Trung Hoa cũng được nhiều
người biết đến là “Giấc Mộng Nam Kha”. Chuyện kể rằng một nho sinh đang trên
đường về kinh ứng thí. Dọc đường khi đi ngang qua trấn Nam Kha, gặp lúc
tuyết đổ, vì đói và lạnh chàng đã xin vào tá túc ở một cái am của một vị đạo sĩ.
Thương tình, vị đạo sĩ này đã cho chàng ngồi sưởi ấm bên bếp lửa và bắc lên một
nồi cháo kê để đải khách. Chàng nho sinh trong lúc ngồi
canh thức chờ nồi cháo chín đã thiu thiu đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Và rồi một giấc mơ đã đến với chàng: Chàng thấy mình thi đỗ Trạng Nguyên, được
vua yêu quý gả công chúa cho, rồi danh vọng quyền uy của chàng lên đến tuyệt
đỉnh khi được vua trao cho chức tể tướng trong tay.
Nhưng rồi không bao lâu sau đó, triều thần ganh ghét đã vu cáo chàng dính líu
vào âm mưu phản loạn và chàng bị
kết tội tử hình. Trên đường đi ra pháp trường thọ án, chàng kinh hoàng thức
giấc, để rồi thấy mình vẫn còn là chàng nho sinh nghèo ngồi bên bếp lửa, cạnh
đó, vị đạo sĩ nhìn chàng nở một nụ cười tinh quái và trên bếp, nồi cháo kê vẫn
còn chưa chín:
Giấc Nam
Kha khéo bất bình,
Bừng con
mắt dậy, thấy mình tay không!
Từ giã những giấc mơ đời thường, chúng ta quay trở về với
câu chuyện của Đệ nhị tổ Pháp Loa. Lúc bấy giờ Tổ đang lâm trọng bệnh và
biết rằng mình sắp từ giả cõi đời. Trong truyền thống
thiền môn, một vị thiền sư trước giờ lâm tử thường lưu lại những lời nói sau
cùng dưới hình thức một bài kệ. Đó là một tác phẩm xuất
thần, rất mực ý nghĩa. Cái chết trở nên đẹp đẽ như một bài thơ, một lời chúc tụng, một bài
ca tuyệt vời. Khi một vị Thiền sư sắp ra đi, khi ông ta nói lời từ giã
với tất cả những người quen biết, những người đã từng làm việc cùng nhau, những
người đã được ông giáo huấn -tất cả những môn đồ pháp quyến- ông ta để lại một
di sản cuối cùng như một bài ca. Có thể nó chỉ gồm hai câu, có thể bốn câu nhưng
đấy là món quà tặng quý giá của vị thầy trước giờ chia tay. Các môn nhân đệ tử
của Tổ Pháp Loa cũng không đi ra ngoài thông lệ này:
“Đệ tử đồng
đến thỉnh:
- Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử sao riêng Thầy không
có ?
Sư quở trách họ. Giây lâu bèn ngồi
dậy bảo đem giấy viết lại. Sư viết một bài kệ:
Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm giấc mộng
tràng
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
(Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
Trân trọng chư nhơn hưu tá vấn
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.)
Viết xong, Sư ném bút, an nhiên thị tịch, thọ 47 tuổi.”
Những bài kệ của những Thiền sư Việt Nam thời Lý Trần luôn
luôn là những áng văn chương tuyệt tác mà ngay cả Thiền Tông Trung Hoa và Nhật
Bản cũng không thể nào sánh kịp. Nó không những đã trình bày một cách trung thực
và sáng tỏ nội dung của giáo lý Phật đà mà còn phản ảnh được tinh thần lạc quan
của thời đại lồng trong mặt tích cực của giáo lý này.
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian –Hơn bốn mươi năm giấc mộng
tràng.
Tổ Pháp Loa muốn nói với chúng ta điều gì đây? Phải
chăng cuộc đời chỉ là một cơn trường mộng? Cái nhìn như thế phải chăng đã phản ản một nhân sinh quan tiêu cực
của Phật giáo?
Bây giờ chúng ta xem một bài kệ của một vị Thiền sư lỗi lạc
khác của Phật giáo Nhật Bản, Đại sư Trạch Am (1573-1645).
Ngài sắp lìa trần, và bởi vì là một vị thầy rất được môn đệ yêu mến yêu, thế nên
đồ chúng cũng đã thỉnh cầu Thiền sư Trạch Am để lại cho họ một bài kệ. Ngài đã từ chối. Nhưng rồi trước sự khẩn
khoản của môn đệ, cuối cùng ngài đã viết lên một chữ duy nhất, yume –có
nghĩa là “giấc mơ”- rồi qua đời. Đã có không biết bao nhiêu bài kệ đã
được viết lên trước giờ lâm tử, nhưng không có bài nào có thể so sánh được với
bài kệ một chữ của Thiền sư Trạch Am: yume –giấc mơ.
Tất cả đều chỉ là giấc mơ. Sống và chết đều chỉ là những giấc mơ: đó là
nhận định cuối cùng của Thiền sư Trạch Am. Rất mực dứt khoát. Nói
theo
Duy Thức, vạn pháp do tâm tạo, nó không hề có ở đó, nó có ở đó là vì ta muốn nó
có mặt. và bởi vì cái tâm rất mực sáng tạo, nó không ngừng dựng lên,
tiếp tục dựng lên bất cứ cái gì mà ta muốn, nó tạo ra mọi chuyện trong tầm tay
với của ta. Ta chỉ cần đi vào giấc mơ thôi, thế là thực tại chung quanh bắt đầu thay đổi.
Cũng
chẳng khác gì ta đi xem chiếu bóng và trông thấy một giấc mơ hư cấu được phóng
chiếu lên màn ảnh. Màn ảnh trống trơn, không có gì cả -chỉ có ánh đèn và bóng
tối. Thế nhưng ta đã bị dính mắc, bị cuốn hút vào đó không
rời. Đôi lúc ta chảy nước mắt ra, đôi lúc tim
đập loạn xạ. Có lúc ta cười ngất, có lúc ta cảm thấy rất mực căng thẳng, nhưng
cũng có lúc rất thoải mái thư giản. Ta biến chuyển
theo câu chuyện và trở thành một bộ phận của câu chuyện. Ta biết rất rõ
rằng tất cả chỉ là chuyện hư cấu nhưng rồi lại tiếp tục quên đi để đắm chìm vào
đó. Một cuốn phim hay là cuốn phim không tạo cho người xem bất cứ ấn tượng
nào rằng đó là chuyện giả tạo. Người viết chuyện, người kể chuyện hay là người
mà câu chuyện của y khi được kể ra, giống y như thật –nó làm cho ta hồi hộp
theo dõi, sống theo với câu chuyện. Nếu khi xem phim mà
ta vẫn giữ mình ở vị trí của một khán giả, ta sẽ không hề bị cuốn phim tác động,
bởi vì người khán giả sẽ tiếp tục biết rằng đó chẳng là gì cả, chỉ là hư cấu, sẽ
không bao giờ xảy ra trong đời sống thực. Tuy nhiên bất cứ khoảnh khắc
nào khi ta trở thành một kẻ tham dự, có nghĩa là
ta không còn tỉnh thức, trên màn hình giấc mơ hư cấu trở thành hiện thực. Rồi
đến khi ta sực
tỉnh trở lại thì trên màn hình giấc mơ hư cấu lại trở thành giấc mơ hư cấu!
Cuộc
sống này cũng vậy, thế nên câu hỏi nguyên vẹn được đặt ra là: Ta đang làm gì
trên thế gian này? Tham dự vào đó hay chỉ đóng vai trò một khán giả? Nếu ta là
người tham dự, ta trở thành người mang thực tại vào thế gian này và rồi thế giới
này biến thành thực, nhưng rồi ta cũng có thể thu
hồi nó lại, lúc đó ta trở nên tỉnh giác, và rồi thế giới bắt đầu trở nên hư vọng.
Thực tại của thế gian hoàn toàn tùy thuộc vào vị trí của ta, bao nhiêu phần ta
là người tham dự và bao nhiêu phần ta là kẻ chứng nhân.
Trong những khoảnh khắc hiếm hoi của một chứng nhân đó, ta sẽ thấy Thiền sư
Trạch Am đã rất đúng khi bảo rằng tất cả chỉ là giấc mộng, là bào ảnh nhấp nhô -sự
sống và nỗi chết. Thông điệp cuối cùng của Thiền sư
Trạch Am cũng là thông điệp đầu tiên.
Hai bài kệ của Tổ Pháp Loa và Thiền sư Trạch Am là hai lời
chú giải tuyệt vời của bài kệ nổi tiếng trong Kinh Kim Cang mà nhiều người đã
biết:
Nhất thiết hữu vi
pháp,
Như lộ diệc như điện
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Ưng tác như thị quán.
TẤT CẢ PHÁP HỮU VI
NHƯ SƯƠNG CŨNG NHƯ ĐIỆN
NHƯ MỘNG, HUYỄN, BỌT, BÓNG
NÊN KHỞI QUÁN NHƯ THẾ!
Giáo lý nhà Phật
trên bình diện Chân Đế, như bài kệ trong kinh Kim Cang xem mọi pháp hữu vi đều
là huyễn mộng, bởi vì đều do năm uẩn cấu thành, cho nên tất cả kinh nghiệm của
ta trong cõi thế này hay sau khi chết trong dòng sinh tử luân hồi bất tận do lôi
cuốn của nghiệp lực đều là giấc chiêm bao. Nhận thức như thế mà một vị Tổ sư
lừng lẫy vào bậc nhất của Mật Tông Tây Tạng, Thánh Sư Naropa của Bố Y phái,-
vị thầy của thánh sư Marpa người sau này đã đào tạo nên một vị Thánh sư lừng lẫy
khác, ngài Milarepa- đã chỉ ra một phương pháp được gọi là “thiền quán về
mộng” , bao gồm các kỹ thuật về quán tưởng, thiền định và thở.
Phương pháp
“thiền quán về mộng” được đặt trên một căn bản nhận thức rằng, mọi sự vật mà
ta nhận thức bằng cảm quan đều là không thực và như thế, cuộc sống mà ta xem là
thực và giấc mơ chẳng qua cũng chỉ là một giấc mộng nối dài. Chỉ có những bậc
đại giác như Phật hay Bồ Tát mới hoàn toàn tỉnh thức và thoát ra khỏi giấc mơ
đó. Ngài Naropa sau đó cũng hướng dẫn cách thở, cách nằm trong
khi ngủ, và cách quán tưởng để hành giả có thể kiểm soát được tâm thức.
Với phương pháp này, khi ta ngủ mơ thấy ác mộng,
ví dụ như nằm thấy mình bị hỏa tai, hành giả có thể đi vào quán tưởng biến lửa
thành nước, v.v... Như vậy, tuy rằng ta không làm chủ được giấc mộng, không có
khả năng sáng tạo ra giấc mộng, giấc mộng đến với ta một cách tự nhiên trong
giấc ngủ, thế nhưng đối với những bậc đạo sư, hoặc những người tu tập thiền định
đến một mức nào đó khi hành trì theo phương pháp này, hành giả lần hồi sẽ tiến
đến một trình độ cao hơn, có khả năng điều khiển, chuyển hoá được giấc mộng,
biến mộng dữ thành mộng lành. Khả năng này rất quan trọng đối với người tu vì nó giúp ta làm chủ
được thần thức và nhờ vậy trong giờ lâm tử ta có thể đưa thần thức của mình đến
các cảnh giới mong cầu. Điều này chẳng có gì là bí mật đối với những vị
đã đạt đạo, ví dụ như các vị Đạt Lai Lạt Ma, trước khi viên tịch thường để lại
những lời hướng dẫn cho người sau biết mình sẽ thác sanh về đâu. Họ cũng có cả
khả năng đưa tâm thức của mình đến được các cảnh giới Tây phương của Phật
A Di Đà, hay Đâu Suất của Phật Di Lặc, nghe Phật giảng thuyết và ghi lại
những lời giảng trong các bộ kinh còn được lưu truyền.
Cách nhìn và
phương pháp tu tập của Thánh sư Naropa cho ta thêm một cái nhìn về bài kệ của
Kim Cang: Nhìn các pháp hữu vi đều LÀ mộng hay NHƯ mộng
đều đúng. Nhìn LÀ mộng là nhìn theo Chân Đế, như cách nhìn cuả Ngài Naropa. Nhìn NHƯ mộng là
nhìn thấy tính cách vô thường
của vạn hữu, có đó rồi mất đó theo qui luật thành, trụ, hoại không. Nhưng cả hai cách nhìn,
kể cả của Kim Cang xem các pháp hữu vi như huyễn mộng
đều là cái nhìn đưa ta đến TRUNG ĐẠO. Điều này khác xa một
trời một vực với tư tưởng Lão Trang mà một thí dụ khá nổi tiếng là giấc mộng Nam
Kha như đã nói ở trên. Tư tưởng Lão Trang cũng xem cuộc
đời chỉ là hư ảo, như một giấc chiêm bao. Cụ thể là Trang Tử, người được
coi như là nhân vật tiếp nối tư tưởng Lão Tử, sau này còn nâng tính cách hư ảo
cuộc đời lên một mức cao hơn qua chuyện Trang Chu hóa bướm.
Ông nằm mơ thấy mình hoá bướm và khi thức giấc băn khoăn tự hỏi, không biết là
mình nằm mơ hoá bướm hay là bướm nằm mơ hóa ra mình?
Tuy nhiên khi đã
nhìn cuộc đời như vậy, thái độ của người theo khuynh
hướng Lão Trang là xuất thế, hưởng nhàn, theo đuổi một triết lý sống tiêu cực,
bi quan:
“xử thế nhược đại mộng,
hồ vi lao kỳ sinh?”
(Đã xem cuộc đời như một giấc mộng lớn thì tội gì phải
lao
nhọc cho khổ thân?)
Tinh thần xuất thế
của Lão Trang như thế, mang nặng màu sắc bi quan, tiêu cực, yếm thế trong khi
cái nhìn của Phật giáo là cái nhìn xuyên suốt bản chất của hiện tượng,
đưa con người vào TRUNG ĐẠO, do đó tinh thần xuất thế của Phật giáo mang
nặng tính chất tích cực, và năng động được thể hiện qua tinh thần Bồ Tát đạo của
Phật giáo Đại Thừa, có ly gia xuất thế thì cũng với tâm nguyện được trọn thành
Phật đạo để rồi lăn xả vào đời sống, kể cả địa ngục, nhằm cứu độ chúng sinh
thoát khỏi những khổ đau, đưa chúng sanh ra khỏi cơn mê dài đến bến bờ giác ngộ.
Tâm Hà Lê Công Đa
GHI CHÚ:
1.
Phổ Diệu Kinh (Lalitvistara) ed P. L. Vaidya. 140.16-141.2. Mivhila
Institute.
1958. Theo bộ kinh này người vợ của Thái tử Tất Đạt Đa nằm mộng thấy giấc mơ nói
trên mang tên là Gopa. Chúng tôi cho rằng đây có thể là một tên gọi khác của
Công chúa Da Du Đà La, vì trong lịch sử chính truyền về cuộc đời của Đức Phật
được
ghi lại một cách chính thức thì chỉ có Công Chúa Da Du Đà La là vợ Thái tử Tất
Đạt Đa, thân mẫu của La Hầu La, và sau này xuất gia tu hành theo Ni bộ.
2.
Cụ thể như những người đánh số đề ở Việt
Nam
nằm mơ thấy một con vật nào đó tương ứng với một con số nhất định.
3.
Cũng cần mở một dấu ngoặc ở đây, vô thức
theo
quan niệm của Freud không phải là vô minh theo quan niệm Phật giáo hay là Tàng
Thức của Duy Thức Học Phật giáo.
4.
Cụ thể như giấc mơ của Giáo chủ Mohammed đạo
Hồi ghi chép lại kinh Koran. Cũng có thể kể đến những trường
hợp ngoại cảm nổi tiếng tại Việt
Nam
như cô Phương tại Hà Nội và ông Năm Chiến tại Đà Nẳng.
5.
Ashin Kuṇḍalābhivaṃsa. "Dreams and their Causes" (Dhamma
Padetha II). Tỳ Khưu Giác Lộc dịch.
6.
Buddhaghosa. “Luận Về Tăng Nhất Bộ Kinh” (Manorathapurani),
v.xx.6, p.317.
7.
Xem kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.
Phẩm Thứ Sáu. Như Lai Tán Thán. Thích Trí Tịnh dịch.
SÁCH THAM KHẢO:
- Kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện. Phẩm Thứ Sáu.Như Lai Tán Thán.
Thích Trí Tịnh dịch.
- Carl Jung. Dreams. MJF Books. 1974.
- Francisco J.
Varela, Ph.D. Sleeping, Dreaming, and Dying –An exploration of Consciousness
with The Dalai Lama. Wisdom Publications. 1997.
- Osho. Zen, the path of paradox. Vol. II.
India.
1979.
- Robert Van
DeCastle, Ph. D. Our Dreaming Mind.
Ballantine Publications. 1994.
- Serenity Young.
Dreamming in the Lotus. Wisdom
Publications. 1999.