☸
Robert L. Brown
University of California,
Los Angeles
Los Angeles
County
Museum of Art
Bồ Tát
Di-lặc, Ma-thâu-la, thế kỉ 2.
Nền nghệ thuật Phật giáo sớm nhất ở Đông Nam Á được xác định
vào khoảng thế kỷ thứ 6 stl. Những tác phẩm điêu khắc này chủ yếu là các tượng
Phật, thể hiện theo phong cách và biểu tượng hình họa rất gần gũi với tượng Phật
Ấn Độ. Mối liên hệ giữa Đông Nam Á và Ấn Độ đã diễn ra sớm hơn, vào đầu kỷ
nguyên Tây lịch như được công nhận từ các nguồn tư liệu tiếng Hán và các hiện
vật đã tìm kiếm được, như tiền đồng và thuật chạm ngọc (glyptics) Ấn Độ. Động cơ
của mối quan hệ này là buôn bán, chủ yếu là giữa Ấn Độ và Trung Hoa.
Đối với Đông Nam Á, ban đầu chưa phải là điểm đến mà chỉ là điểm nghỉ chân trong
chuyến đi. Hai tôn giáo ở Đông Nam Á–đạo Phật và Ấn Độ giáo, trong tiến
trình này, không có ý nghĩa cải đạo, truyền giáo (proselytization) hoặc là thực
dân (colonization) mà từ sự hội tụ pha tạp giữa các thương gia cùng các thủy thủ
bản xứ và Ấn Độ. Trong khi điều này có thể giúp để giải thích sự xuất hiện về
sau của nghệ thuật Phật giáo ở vùng Đông Nam Á, nhưng nó không giải thích được
toàn bộ Phật giáo và nền nghệ thuật như thế nào từ thế kỷ thứ 6 trở đi khi nó
vốn đã được thừa nhận và quen thuộc trong địa phương.
Các thể chế chính trị quốc gia (nation-states) ở vùng Đông Nam
Á là một mô thức nghèo nàn về cơ cấu địa lý của nền nghệ thuật Phật giáo.
Những dân tộc tạo nên hình thái nghệ thuật Phật giáo sớm nhất là Pyu, Mon,
Khmer, và Cham ở chính quốc. Những phạm trù này này không rõ ràng, và về
mặt ngôn ngữ thì đặt nền tảng trên những văn bia (inscription) bằng ngôn ngữ bản địa.
Đảo Indonesia và Bbán đảo Malay cũng
hình thành một nhóm mang tính ngôn ngữ riêng.
Lục địa: Pyu, Mon, Khmer, và Cham
Dân tộc Pyu sinh sống ở miền Trung và miền Bắc Miến Điện (Burma), với dân tộc Śrī Ksetra (ngày
nay là Prome) cung hiến nhiều công trình thủ công nhất. Trong số này gồm có ba
ngôi tháp (stūpa) bằng gạch hình ống trụ (tháp Bawbawgui cao 150 feets khoảng 46
mét) và vài ngôi chùa nhỏ bằng gạch, trong thờ tượng Phật.
Thêm
vào đó, nhiều tượng Phật bằng kim loại và bằng đá, cùng hằng hàng ngàn bàn thờ
dâng lễ bằng đất sét. Sự phát hiện ra 20 tấm lá bằng vàng (mỗi tấm chừng 6 ½ x 1
¼ inches 16,5 cm x 3,2 cm), được kết lại với nhau thành một thủ bản, gồm
những chương trong A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma)1[1]
và Luật tạng (Vinayapiṭtaka) được khắc bằng tiếng Pāli,
chỉ cho thấy có mối quan hệ với truyền thống Thượng tọa bộ (Theravāda).
Thực vậy, một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là thủ bản Pāli sớm nhất hiện đang
còn.
Căn cứ vào khoa nghiên cứu hoa văn khắc trên đá, họ xác
định được niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 5 stl.
Dân tộc Mon sinh sống ở miền
Trung và miền Nam Miến Điện (Burma) và ở Thái Lan. Họ cũng như
dân
tộc Pyu, phần lớn là Phật tử, họ còn khắc trên đá những bài thơ tiếng Pāli vốn
rất gần gũi với kinh luận. Sự hiện hữu của một số hình tượng Bồ-tát và hình khắc nổi từ truyện
Bản sanh (Jātaka) cho thấy rằng dân tộc Mon cũng hiểu biết khá biết thông thạo
các truyền thống Phật học có nguồn gốc ngôn ngữ Sanskrit. Dân tộc Mon ở
Thái Lan
(có ‘vương quốc’ thường được xem là Dvāravatī), đã có một truyền thống kiến trúc
rực rỡ và để lại một số lớn các tượng Phật bằng đá, bằng đồng, và đất nung. Thêm
vào đó, họ làm ra vài biểu tượng độc đáo, gồm biểu tượng Chuyển pháp
luân2[2] bằng đá được gắn trên những thân cột, cũng
như mô tả hình ảnh Đức Phật cưỡi trên loài sinh vật có cánh, vốn vẫn chưa giải
thích được. Hàng tá khu vực di tích của dân tộc Mon, như Nakhon Pathom và Ku Bua,
đã được nhận dạng, nhưng không còn một công trình kiến trúc nào tồn tại. Từ
những chứng cứ về khảo cổ học, chúng ta biết đó là kiến trúc bằng gạch, và kiến
trúc ấy gồm tháp Chula Phatom Chedi ở Nakhon Pathom [Vùng Đông Nam Á gọi tháp (stūpa)
là chedi (chi-đề)], tháp ấy được trang trí bằng vữa stucco và hình đắp nổi bằng
đất (terra-cotta), lấy nội dung trong truyện Bản sanh, xác định niên đại vào
khoảng thế kỷ thứ 8.
Dân tộc Khmer sinh sống
ở Kampuchia (Cambodia), cũng
như ở miền
bắc Thái Lan và vùng châu thổ (delta) Việt Nam. Không như
dân tộc Pyu và Mon, phần lớn họ là người theo Ấn Độ
giáo từ thế kỷ thứ 12, dù đạo Phật cũng đã lưu hành ở đó.
Người Khmer dựng lập vương triều Angkor
nổi tiếng vào năm 802 stl. Họ không chỉ cai trị Cambodia mà còn nhiều quốc gia trong
lục địa hầu như đến 500 năm. Thế nên thời kỳ tiền Angkor phát sinh một số những kiến trúc Phật giáo và Ấn Độ
giáo nổi tiếng nhất chưa từng có. Các hình tượng Phật
giáo chủ yếu gồm tượng Phật và tượng hai vị Bồ-tát Quán Thế Âm và Di-lặc.
Điêu khắc bằng đá, được
xác định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 7 và thứ 8, có khuynh hướng cắt thành ba
chiều, nên các cánh tay được tạc bằng đá, duỗi thẳng vào không trung. Đặc trưng
nghệ thuật điêu khắc ba chiều của Khmer kéo dài hằng hàng thế kỷ, một phần phản
ánh cách thờ các tượng này ở giữa chánh điện nhỏ, nơi tượng có thể được nhìn
thấy từ nhiều phía. Văn bia và nghệ thuật cho thấy rằng
đạo Phật ít quan trọng hơn Ấn Độ giáo từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12. Quốc
vương Khmer, Vua Jayavarman VII (trị vì 1181–1220), đã tạo một sự thay đổi cơ
bản sự hộ trì của Hoàng gia từ Ấn Độ giáo sang Phật giáo của Hoàng gia.
Dưới triều đại Vua
Jayavarman VII, đế chế Khmer cai trị lục địa Đông Nam Á rộng hơn trước
nhiều, từ miền duyên hải Việt Nam lên đến biên giới Thái Lan-Miến Điện.
Vua Jayavarman cật lực xây dựng các tượng đài.
Ông xây dựng đền Bayon, một ngôi đền được trùng tu ba lần
trong thời gian ông trị vì tại kinh đô Angkor Thom. Mỗi vị vua của thời
đại Angkor
đều kiến lập một ngôi chùa trên núi với hình chóp nhọn nhiều tầng bên trong có
thể tôn trí tượng các thần Ấn Độ giáo, thường là thần Śiva3[3]
để thiết lập mối quan hệ vương vị với thần. Bayon là ngôi chùa trên núi của vua
Jayavarman, và vị thần mà vua thờ ở trung tâm ngôi đền không phải là Śiva, cũng
chẳng phải là Viṣṇu,4[4] mà là
Đức Phật ngồi kiết già trên mình cuộn của con rắn thần (nāga) bảy đầu. Vua cũng
xây dựng hai ngôi chùa để hồi hướng cho cha mẹ mình, một ngôi chùa cho mẹ nhân
danh Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa,5[5]
và một ngôi chùa cho cha nhân danh Bồ-tát Quán Thế Âm. Thực vậy, ba hình tượng
này này (Đức Phật ngồi trên mình rắn thần, Bát-nhã ba-la-mật-đa, và Bồ-tát Quán
Thế Âm) được thể hiện thường xuyên trong nghệ thuật như một bộ ba, và là biểu
tượng trung tâm của Phật giáo dưới triều Jayavarman.
Chùa Bayon có một vòng
cung gồm các điện thờ vây quanh một ngôi tháp trung tâm cao 140 feet khoảng 42
mét, trong đó tôn trí tượng Phật ngồi trên rắn thần. Trên các
điện thờ là những tượng của các vị thần bản địa được mang đến kinh đô từ các địa
phương trong suốt thời kỳ các đế chế. Các vị thần này
được tôn trí phụ thuộc vào tượng Phật của vua Jayavarman.
Ngôi chùa có 54 ngôi tháp được đặt trên đỉnh tháp bởi những khuôn mặt khổng lồ.
Những khuôn mặt này này, đếm được chừng hai trăm cái, được sắp đặt để được có
thể trông thấy chung quanh một trục. Chính thành phố Angkor Thom cũng được
bao quanh bởi một bức tường chừng hai dặm hơn 5 kilomet vuông với 5 cổng, mỗi
cổng được dặt đặt trên đỉnh gồm bốn khuôn mặt quay về bốn hướng.
Mặc dù các học giả đã cố gắng giải thích các khuôn mặt này này, nhưng chưa có
một thuyết nào hoàn toàn đứng vững. Một thuyết có thể chấp nhận được,
gương mặt ấy là của Bồ-tát Quán Thế Âm, là vị Bồ-tát có khả năng quán sát khắp
thế gian với con mắt từ bi (karuṇā). Tâm lượng từ bi ấy của vua Jayavarman đối với các loài
hữu tình được biểu hiện qua các bài văn bia của ông và việc ông xây dựng 102 bệnh viện suốt trên khắp
vương quốc của mình. Thêm vào đó, chùa Bayon có một số lượng lớn các điêu khắc
nổi trong các phòng trưng bày chung quanh. Những điêu
khắc nổi này, tuy vậy, không mô tả các truyện từ kinh Phật mà phần lớn là những
cảnh trong các trận chiến của vua Jayavarman chống lại quân Cham, cũng như các
thể loại phong cảnh đáng chú ý, như cảnh đá gà và chợ. Những điêu khắc nổi này
cũng cho thấy hai vị thần Śiva và Viṣṇu đều được thờ.
Trong số hàng trăm tượng đài khác mà vua Jayavarman tạo dựng,
tượng Neak Pean (rắn cuộn) là đáng chú ý nhất. Công trình gồm một cái
hồ hình vuông, mỗi cạnh 230 feet 70 mét, mặt hướng về các bậc cấp bằng đá,
và một đảo nhỏ bằng đá vây quanh một đền thờ ở chính giữa. Hai con rắn được chạm
khắc quấn vào nhau ở dưới nền của hòn cù lao nhỏ. Có
bốn hồ nhỏ hơn vây quanh và hướng về hồ lớn; những hồ này thông với những con
kênh để nước có thể chảy vào hồ chính rồi chảy sang bốn hồ nhỏ. Nước chảy qua
cái đầu bằng đá của con người (phía đông), đầu cọp (nam), đầu ngựa (tây), đầu voi (bắc). Chủ nghĩa tượng trưng này này rõ ràng cho thấy
cái hồ được xem như một bản sao của hồ A-nậu-đạt (Anavatapta) trên núi
Hy-mã-lạp-sơn (Himalaya), từ đó bốn con sông thiêng Ấn Độ chảy ra.
Điện thờ trung tâm có ba cánh cửa ảo khắc hình Bồ-tát Quán Thế Âm, nhân vật mà
đền thờ này này tôn kính.
Một tượng ngựa đá ba mặt được gắn với hình người đặt trên nước, đây là hóa thân
Bồ-tát Quán Thế Âm trong hình tướng con ngựa Balaha, người đã nỗ lực cứu thoát
các thuỷ thủ bị đắm thuyền. Chúng ta biết qua các du khách Trung Hoa từ thế kỷ
thứ 13 rằng, nước từ tượng Neak Pean được tin là có thể rửa sạch mọi tội lỗi.
Đền
Khmer Bayon
Temple ở Angkor Thom,
Cambodia
vào thế kỷ thứ 12, có 52 (gốc là 54) ‘tháp hình khuôn mặt’.
Mỗi tháp có bốn tượng, như biểu tượng cho tâm từ bi rộng khắp của Bồ-tát Quán
Thế Âm, khi ngài đang quán sát khắp thế gian.
Các khu di tích của dân
tộc Cham là ở miền trung và nam Việt Nam (Vương quốc xưa tên là Champa).
Văn bia khắc trên đá có mối liên hệ với Ấn Độ sớm nhất, bằng tiếng Sanskrit, ở
Đông Nam Á là từ làng Võ Cảnh6[6]
ở miền Nam Việt Nam,
xác định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 3 stl.
Những tượng Phật
có đường nét mang sác sắc thái Ấn Độ sớm nhất
hiện đang còn xuất hiện sau trễ hơn nhiều, từ thế kỷ thứ 7, và hoàn toàn thuộc
về Ấn Độ giáo. Một ngôi chùa Phật giáo, tuy vậy, được kiến trúc ở Đồng Dương,7[7]
trung phần miền Trung Việt Nam vào thế kỷ thứ 9 và 10, thuộc Phật giáo Đại thừa
với những yếu tố Mật giáo (tantric), nhìn bên ngoài như một ngôi trường làng.
Các tác phẩm điêu khác khắc đá gồm hình tượng các nhân vật thể hiện những điệu
bộ, y phục, và đồ trang sức độc đáo. Bồ-tát Quán Thế Âm và Nữ thần Tara
đều là trọng tâm, và vào năm 1978, một pho tượng nữ thần Tara bằng kim loại được
phát hiện, cao chừng 50 inches 127 cm, cho thấy rằng các tượng lớn bằng kim loại
cũng được thực hiện cùng lúc đó. Phong cách điêu khắc Đồng
Dương được đánh giá cao trong truyền thống nghệ thuật Đông Nam Á, với những đặc
điểm như lông mày dài và mảnh, và dùng biểu tượng như sâu kèn để trang trí tóc
và hào quang.
Indonesia và Bán đảo
Mã Lai
Nghệ thuật Phật giáo càng trở nên đa dạng hơn khi truyền
bá đến Indonesia
và bán đảo Mã-lai. Cũng như ở trong lục địa, cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều được
đồng thời truyền từ Ấn Độ sang như là kết quả của việc giao thương. Hai vương
quốc có liên quan đến Ấn Độ sớm nhất trong vùng Đông Nam Á được thành lập vào
thế kỷ thứ 5 trên đảo, một ở Borneo và một ở Java. Các bia được khắc bởi lệnh
của ‘Vua’ do sự chú ý đến nghi lễ của Bà-la-môn và biểu thị sự tuyên bố rằng Ấn
Độ giáo đối với các thủ lãnh địa phương ở Đông Nam Á như là một phương tiện gia
tăng quyền lực của họ thông qua việc vận dụng sự chia sẻ vốn từ vựng trong tín
ngưỡng Ấn Độ.
Hai vương quốc này này
hầu như đã biến mất, với sự xuất hiện trở lại của
các tín ngưỡng Ấn Độ ở Trung Java vào thế kỷ thứ 8. Trong suốt thời kỳ hơn
200 năm (730–950), hàng trăm tượng đài bằng đá và gạch được xây dựng và
hàng ngàn tượng được làm bằng đá và kim loại. Chính trong thời kỳ Trung Java này này mà tượng đài Phật giáo
Borobudur
được xây dựng (800–830).
Một
vài tượng đài Phật giáo đã được nghiên cứu sâu rộng như Borobudur. Đó là một kiến trúc vĩ đại, chừng 370 feet và 113 feet 35 mét chiều cao. Xây
dựng trên một ngọn đồi nhỏ, gồm hàng triệu tảng đá khối cắt từ nham thạch, nổi
lên như một kim
tự tháp với bốn khối vuông và ba tầng hình tròn. Có 1300 tấm panel đắp nổi minh họa một loạt các truyện tích Ấn Độ,
gồm truyện Bản sanh (jJātaka) và truyện cuộc đời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni rút
trong Kinh Phổ Diệu 8[8] (Lalitavistara). Trong các hốc tường
và trong các tháp là 504 pho tượng Phật lớn như người thật, mỗi tượng đều cắt
theo hình tròn. Thêm vào đó, khoảng 1.472 ngôi tháp nhỏ, 72 ngôi tháp lớn
theo dạng khoét thủng, và riêng một tháp lớn đóng kín, đặt nằm trên đỉnh để
trang trí cho toàn bộ cấu trúc.9[9]
Là một tượng đài của
Phật giáo Đại thừa, có lẽ với những khía cạnh
thuộc Tan-tra thừa (Mật giáo–tantric), Borobudur đã bất chấp mọi kiến giải đơn giản về ý nghĩa và
cách dùng của nó. Như với Phật giáo Đồng Dương và nghệ thuật của nó đã trình bày
ở trên, hoặc các tượng Phật cưỡi trên loài chim của vua Dvāravatī, nghệ thuật
Phật giáo Đông Nam Á ở Borobudur đã phát triển thành một dạng Phật giáo mang bản
sắc địa phương và độc đáo. Không như Phật giáo ở vùng Đông Á, Phật giáo Đông Nam
Á không qua thời kỳ phiên dịch các kinh điển cổ Ấn Độ sang ngôn ngữ bản địa, và
như chúng ta được biết, họ cũng không tạo ra những kinh điển mới cho riêng mình.
Họ dùng kinh điển Ấn Độ từ bản gốc tiếng Sanskrit hay Pāli.
Kết quả là chúng ta có kinh điển Ấn Độ nhưng nghệ thuật lại là Đông Nam Á, nghệ
thuật có liên quan Ấn Độ nhưng phù hợp với bản địa trong kiểu thức và sự mô tả
qua hình tượng (iconography).
Tóm lại, chúng ta thường chẳng có cách nào để biết mức độ mà
tầm kiến giải của bản địa có được ẩn dấu giấu sau lớp áo Ấn Độ.
Còn có những tượng đài Phật giáo quan trọng khác ở
Trung Java. Đó là Candi Sewu, có lẽ được xác định
niên đại vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8, nơi tôn thờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.
Nó có một nội điện trung tâm với gắn liền với bốn điện thờ phụ có định hướng, và
được bao quanh bởi 250 điện thờ nhỏ hơn. Kết cấu Mạn-đà-la này này cũng
được thấy ở Borobudur, với sự cấu trúc các tượng Phật thành một hệ thống 7 tượng
Phật khác nhau bởi các thủ ấn (mūdra) và hướng tôn trí. Vào thời kỳ Trung
Javanese, cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều cùng tồn tại, với phức hợp tượng đài
Loro Jonggrang, thờ thần Śiva, Viṣṇu, và Phạm thiên (Brahma), được xây dựng cùng thời với tượng
đài Borobudur.
Giữa
thời kỳ Trung Java, nhiều tượng Phật và tượng các thần của Ấn Độ giáo được
mạ đồng, vàng và bạc. Sự gần gũi về phong cách và hình
tựợng mô tả của những pho tượng bằng kim loại này này có một phần của các pho
tượng thời kỳ Pāla (thế kỷ thứ 8-12) mà di tích ở Ấn Độ đã được khảo sát. Quốc
vương Pāla là một trong những vị hộ pháp chính của Phật giáo sau cùng ở Ấn Độ,
và nhờ ông ta mà Tu viện phức hợp ở miền Đông Ấn Độ như
Nālanda10[10] được hưng thịnh. Còn có những chứng
cứ lịch sử và văn bia về sự giao hảo thường xuyên giữa
các tu viện này này ở Ấn Độ và các tu viện ở Indonesia.
Khoảng vào giữa
thế kỷ thứ 10, Trung Java dường như bị lãng quên,
các công trình nghệ thuật bị đình chỉ. Nguyên nhân là do sự bộc phát núi
lửa ở Merapi.
Triều đình Trung
Java phải dời đô qua miền Đông Java, với loại hình kiến trúc và nghệ thuật rất
lạ, vốn đã phát triển ở đó qua vài vương triều khác nhau. Vào
khoảng thế kỷ thứ 16, Hồi giáo trở nên có ảnh hưởng lớn suốt cả các đảo Indonesia, ngoại trừ đảo Bali.
Đạo
Phật tiệp tiếp tục truyền bá suốt thời kỳ Đông Java (từ thế kỷ thứ 10 - thế kỷ
thứ 15), nhưng không quan trọng như bằng đạo thờ thần Thấp-bà (Śaivism). Tín ngưỡng và nghi thức Mật giáo (Tan-tra thừa–Tantric) trở
nên trội vượt trong cả Phật giáo lẫn tín ngưỡng Thấp-bà, và cả hai tín ngưỡng
đều pha
trộn nhiều phương pháp. Pháp điểm đạo11[11] (Kalacakra) được hình thành,
và các quốc vương được đồng nhất với thần Thấp-bà hoặc Đức Phật sau khi chết.
Hình tượng trong các chùa theo hình thức các vị Hộ thần
Phật giáo, như Bát-nhã ba-la-mật-đa, với ý biểu tượng cho vua và hoàng hậu sau
khi chết sẽ trở nên được nhiếp dẫn trong các thần. Thực vậy, cách dùng hình
tượng các thần như là ‘chân dung’ của cả thần và nhân danh hoàng gia là điều đã
diễn ra trong thời của vua Jayavarman VII ở Angkor vào cùng thời điểm, và cũng
thấy ở vương quốc Champa. Hoàng gia Khmer, Cham, và Javanese đã dùng hình tượng
các thần này theo cách tương tự, về mặt thực tiễn có lẽ từ sự thừa nhận
sớm nhất về mối liên hệ với nghệ thuật Ấn Độ.
Có một sao lục về nghệ
thuật Phật giáo tìm thấy được ở đảo Sumatra, nhưng chủ yếu là ở các khu vực mà
ngày nay gọi là miền nam của bán đảo Thái; nghệ thuật này được tạm gán cho nhãn
hiệu Śrīvijaya12[12]
về mặt phong cách, được xác định niên đại vào khoảng từ thế kỷ thứ 7 đến
thế kỷ thứ 13. Śrīvijaya đi vào lịch sử vào thế kỷ thứ 7 với vài bức
văn bia ở đảo Sumatra. Cùng thời gian đó, nhà chiêm bái Trung Hoa Nghĩa
Tịnh13[13]
(Yijing; 635–713), cho chúng ta biết rằng ông đã trải qua vài năm ở Śrīvijaya,
bắt đầu từ năm 671 để học tiếng Sanskrit trên đường sang Ấn Độ, và rồi trải qua
hai thời kỳ từ 685 đến 695 (với một thời gian ngắn sang ở Trung Hoa năm 689) để
dịch kinh và viết hồi ký. Śrīvijaya tiếp tục hiện hữu hầu như 500 năm, và văn bia trên bán đảo có đề cập chuyện ấy. Vấn
đề ấy đã tìm ra được. Nơi mà ngài Nghĩa Tịnh lưu trú có lẽ là
Palembang14[14]
ở đảo Sumatra, nhưng chỉ đến cuối những năm
1970, mới có tìm thấy được những chứng cứ khảo cổ học mới tìm thấy được. Phần lớn các công trình ở Śrīvijaya được làm bằng tranh và tre, và
những người sống trên thuyền không để lại tông tích.
Model of Borobudur Temple, Java
A model of Borobudur, a
Hindu-Buddhist temple on the island of
Java in Indonesia, reveals in this aerial
view the eight stone terraces built in steps, one on top of the other.
Constructed in the 9th century and abandoned in the 11th century, Borobudur influenced the design of many other temples.
Phần lớn nghệ thuật Phật
giáo có liên quan với Śrīvijaya đã được tìm thấy ở bán đảo Thái Lan từ những khu vực như Chaiya và Nakhon Si Thammarat.
Nghệ thuật góp phần vào những đặc tính chung như đề tài
theo Đại thừa Phật giáo, với hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm rất là phổ biến.
Nhưng đúng hơn là nhìn những chất liệu này này, vốn rất
đa dạng trong phong cách, như các tượng của Śrīvijaya, nó sẽ có ích hơn
khi sắp đặt và thảo luận về chúng theo vùng vì sự hiện hữu của đế chế trị vì ở
Śrīvijaya là một vấn đề của ngày nay.
Miến Điện, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Bên cạnh ngôn ngữ Khmer
của Cambodia
ngày nay, còn có các nhóm ngôn ngữ khác trội vượt trên lục địa Đông Nam Á ngày
nay: Miến Điện, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Mỗi một nhóm ngôn ngữ này, và các quốc gia mới mà chúng vừa hình
thành chủ yếu đều là Phật giáo. Miến Điện xuất hiện
trong lịch sử vào khoảng thế kỷ thứ 11, nhưng dân tộc Mon vẫn tiếp tục một thời
gian chia sẻ quyền lực với người Miến Điện. Miến Điện hướng đến Sri Lanka
để đón tiếp chư tăng và kinh điển Phật giáo Thượng tọa bộ, và họ đã xây một dựng
một thánh tích Phật giáo lớn nhất trên thế giới ở Pagan trên bờ sông Irrawaddy.
Được kích thích bởi
nhiệt tâm thực sự trong việc tạo công đức qua sự cúng dường Tăng-già, có đến
2000 tượng đài bằng gạch (chùa và tháp) được xây dựng qua một thời kỳ dài 200
năm. Mặc dù ngày nay, những công trình này đã bị lãng quên, những nhưng còn một
số khác, như Tu viện A-nan-đà, vẫn được tiếp tục thờ phụng chu
đáo.
Tu viện A-nan-đà
ở Pagan,
Myanmar (Burma), màu
trắng với những tháp nhọn mạ vàng. Tháp có độ cao đến 172 feet 52 mét.
Ảnh của Robert D.
Fiala, Concordia University, Seward, Nebraska. Reproduced by per- mission.
Tu viện A-nan-đà
được vua Kyanzittha xây dựng do vua Kyanzittha vào đầu thế kỷ thứ 12.
Như công trình Bayon and và Borobudur, Tu viện
A-nan-đà có ấn tượng vì kích thước và tính đa dạng của nó. Tu viện có
mô hình pha tạp kiến trúc Hy-lạp, với cổng hướng ra bốn phía, mỗi cổng
dẫn đến một tượng Phật đứng bằng gỗ. Các pho tượng Phật đứng này này đứng dựa
vào một khối đá xây ở trung tâm chừng 175 feet 17 mét vuông. Các tượng Phật, mỗi
tượng cao 31 feet 9,5 mét, được đồng nhất với bốn Đức Phật đã thị hiện trên đời,
Đức Phật Câu-lâu-tôn Câu-lưu-tôn (俱留孫) ở phương Bắc,15[15]
Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni ở phương Đông,16[16] Đức Phật Ca-diếp ở
phương Nam, 17[17] Đức Phật Cồ-đàm18[18] ở phương Tây. Có
hai gian trưng bày phía trong, sát trong hốc tường, nơi được tôn trí những tác
phẩm điêu khắc bằng đá, và bên ngoài toà nhà là một dãy dài đá lát bằng men, gồm
912 tấm mô tả những câu chuyện Bản sanh (Jatakas) được sắp xếp theo từng tầng
trên mái, với chiều cao đến 172 feet 52 mét.
Miến Điện, cũng
như Thái Lan, ngày nay là một quốc gia Phật giáo, và Phật giáo ở đây được chính
thức bảo trợ bởi chính phủ. Ngôi chùa tháp nổi tiếng Shwedagon, ở Ngưỡng Quang
(Rangoon) thường đông đúc người đến chiêm bái, vì có các tượng đài Phật giáo
khắp nơi, và tượng Phật phần lớn bằng đồng, đều được đúc với khối lượng lớn.
Đương thời Thái Lan chia sẻ nhiều truyền thống Phật giáo cùng với Miến Điện,
gồm cả Phật giáo Thượng toạ bộ. Không rõ khi nào thì dân tộc Mon ở miền Trung
Thái Lan (Dvāravatī) không còn làm tượng nữa, có lẽ là vào khoảng thế kỷ thứ 9,
nhưng dân tộc Mon lại có một vương quốc ở miền bắc Thái Lan, vùng Haripunchai
cho đến thế kỷ thứ 13. Thời kỳ này tương đương với giai đoạn
mà dân tộc Thái xuất hiện trong lịch sử, khi cuộc cách mạng chống lại lãnh chúa
Khmer và lập nên vương quốc Sukhothai đầu tiên của người Thái. Cũng như
Miến Điện, họ hướng về dân tộc Mon ở miền hạ Burma
và
Sri Lanka
để tiếp thu Phật giáo.
Dân tộc Sukhothai ở miền
Bắc Thái Lan có nhiều tượng đài Phật giáo, nhưng không có tầm vóc như các tượng
ở Pagan hay Angkor, và đến nay phần lớn đã bị
tiêu trầm. Nhưng vùng này này phát triển một phong cách tượng Phật mới nổi tiếng
do nét uyển chuyển, đường lượn xuôi chảy, vốn còn lưu lại phong cách ưa chuộng
của người Thái, vẫn tiếp tục sản xuất hàng ngàn pho tượng Phật
theo kiểu này này. Quyền lực chính trị của Sukhothai tàn lụi nhanh chóng,
vì vương triều Ayutthaya, một vương quốc Thái khác được hình thành năm 1350,
chẳng bao lâu chiếm ưu thế ở phần lớn Thái Lan, và cũng kiểm soát cả phần lớn cả
Cambodia. Dân tộc Khmer rời bỏ thủ đô Angkor năm 1431 vì sự tấn công của người Thái. Phật
giáo Thượng tọa bộ đến lúc đó đã được lưu truyền từ triều đại Jayavarman VII, đã lan rộng suốt khắp Cambodia và Lào.
Ngôi đền Angkor Wat nổi tiếng được xây dựng vào thế kỷ thứ 12, như là ngôi đền
trên núi của Suryavarman II để thờ thần Viṣṇu của Ấn Độ giáo, đến thế kỷ thứ 14 được chuyển thành một
ngôi chùa Phật giáo.®
Thích Nhuận Châu
dịch từ Encyclopedia of Buddhism.
Mac
Millan Refference. USA. 2003.
Do R.E. Buswell chủ
biên.