Quảng
Anh
Một bức tượng Phật ảnh hưởng điêu khác Hi Lạp
Không
còn bao lâu nữa Thế Vận Hội Olympics sẽ khai diễn tại thủ đô Athens của Hy Lạp, từ ngày 13 - 29/ 8/ 2004. Khởi sự từ thời xa xưa mỗi 4
năm một lần, Olympics được xem đã bắt đầu vào năm 776 trước Công nguyên và kéo
dài trong hơn 1000 năm tại vùng đất thiêng Olympia là nơi diễn ra các cuộc tranh
tài. Olympia
được đặt tên theo
ngọn núi Olympus, là nơi ngự trị của các thần
linh mà đứng đầu là thần Zeus.
Olympia là khu đền thiêng ở vùng quê từ khoảng năm 1000 trước Công nguyên,
dùng để thờ thần Zeus. Trong sự mịt mờ của các huyền
thoại, nguyên ủy nào đưa đến cuộc tranh tài Olympics đầu tiên, đã bị nhận chìm
trong chiều sâu của thời tiền sử, cho nên nguồn gốc của cuộc tranh tài Olympics
đã hòa nhập với đặc tính huyền thoại và tôn giáo của Hy Lạp.
Tôn giáo thấm nhuần mọi khía
cạnh của đời sống tại Hy Lạp cổ đại, nên thể dục
thể thao không nằm ngoài yếu tính ấy.
Việc
tranh tài thời cổ Hy Lạp mang nặng tính tôn giáo qua sự kiện các lực sĩ thắng
cuộc đã dâng hiến phẩm vật đoạt giải lên thần Zeus. Nhờ thế mà vào thế kỷ 21 này,
chúng ta còn chiêm ngưỡng được những phẩm vật bằng đồng của các lực sĩ dâng hiến
tại đền thờ thần Zeus vào mấy thế kỷ trước Công nguyên. Đế quốc Hy Lạp
ngày xưa thật rộng lớn và cuộc tranh tài tại Olympia dành cho dân chúng ở tất cả
các nước trong đế quốc, cũng như cuộc tranh tài không chỉ có giới yêu chuộng thể
thao tham dự, mà các nhà triết học nổi tiếng của Hy lạp như Thales, Platon,
Aristotle cùng với các sử gia, thi hào cũng đều dự khán.
Nói đến
văn hóa cổ thời của Hy Lạp là nói đến rất nhiều khía cạnh, nào là thơ của
Homer, nhạc Hy Lạp xưa và nay, phim ảnh, hội họa, tôn giáo xưa, các vị thần linh
và những huyền thoại của Hy Lạp. Tuy nhiên, điểm đặc biệt đáng chú ý nhất đó là:
nghệ thuật điêu khắc của Hy Lạp và nghệ thuật điêu khắc lúc ban đầu của Phật
giáo có mối liên hệ với nhau.
Người ta cho rằng mỹ lệ của Hy
Lạp đã biến thể sang đường nét căn bản trong các
hình tượng của Phật giáo, khởi đi từ một vùng mà nay, một phần thuộc về
Afghanistan, một phần thuộc về Pakistan. Xưa kia nơi đây là vương
quốc Gandhara với những triều đại kéo dài từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3 sau
Công nguyên và việc giao thương qua vương quốc nầy theo đường Tơ Lụa (Silk Road)
đến Trung Hoa rồi sang tận Nhật Bản. Tại Nhật Bản, hình tượng của nghệ thuật
Gandhara là mẫu mực chính cho các hình tượng nghệ thuật của Phật giáo trong
nhiều thế kỷ cho đến khi Thần đạo Shinto tại Nhật phát triển thì tiêu chuẩn mỹ
lệ của Hy Lạp mới hòa nhập dần vào mỹ thuật của Nhật. Vậy thì nghệ thuật của Hy
Lạp được truyền đi như thế nào đến tận phương Đông?
Nghệ
thuật Hy Lạp đã truyền đi dọc theo đường Tơ Lụa từ Hy Lạp qua nhiều
thành thị đến miền Bắc Ấn Độ, rồi sang Trung Hoa và Nhật Bản bằng 2 đường chính
yếu: một là đường ngang qua Ấn Độ, một đi lên phía Bắc tới Hắc Hải, nơi có một
số bộ lạc của dân du mục với nếp sống khác biệt. Các nhóm du mục nầy thường tới lui vùng Trung Á và Trung Hoa.
Họ trao đổi giao thương với các cộng đồng định cư trên đường du mục, mua bán đổi
chác các vật dụng với Hy Lạp. Bằng vào cách đó họ đã đem tiêu chuẩn mỹ lệ trong
nghệ thuật Hy Lạp vào nghệ thuật của chính họ. Những cổ vật đào xới được ở Trung Á và Hắc Hải như các tượng người,
ngựa, v.v… cho thấy đã chịu ảnh hưởng của Hy Lạp rất rõ.
Vì thế khi nhìn vào các cổ vật của dân du mục nơi đây, đó là nhìn vào sự biến
thể của nghệ thuật Hy Lạp lan đi trên đường Tơ Lụa cùng với dân du mục qua việc
mua bán hàng hóa mà họ mang theo bên mình. Đây là những món
nhỏ và quí bằng vàng, có giá trị thương mại hoặc để đeo trên người làm đồ trang
sức, hoặc giữ làm của gia bảo, hoặc dùng để trao đổi lấy món khác. Những
cổ vật tìm thấy được là kiếng, lược, đồ trang sức bằng vàng chạm trổ tinh
vi. Chứng tỏ hình ảnh khắc trên cổ vật có đường nét mỹ thuật thấm nhập từ
một nền văn hóa nầy sang văn hóa khác.
Ngoài việc lan truyền theo sự giao thương trên đường Tơ Lụa, người ta
phải kể tới việc người Hy Lạp định cư tại các vùng giao thương nầy. Sự lan tràn của người Hy Lạp về phương Đông vốn đã
có từ lâu, từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch và được tăng cường thêm nhờ vào cuộc
viễn chinh của Alexander Đại Đế vào thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch.
Nên bên cạnh các món vật được chế tạo để dành riêng cho việc mua bán trao đổi
với dân du mục trên đường Tơ Lụa, người ta còn tìm thấy trên các tượng điêu khắc
đào được trong vùng, những đường nét và tính chất của nghệ thuật Hy Lạp.
Khi Đại đế Alexander mất đi, đế
quốc của ông tan rã thành nhiều tiểu quốc mang đặc tính Hy Lạp trong các
vùng Afghanistan, Pakistan và miền Bắc Ấn Độ. Nhờ những tiểu quốc nầy mà kiểu
mẫu nghệ thuật của Hy Lạp lan tràn nhiều hơn và nhanh hơn. Đồ vật đào được ở
Trung Á như Samarkhand tạc hình người, hình ngựa, hình kỵ mã, hình chiến sĩ, v.v…
không khác gì đồ vật tìm thấy ở Hy Lạp trong cùng thời kỳ nầy. Tuy nhiên các
tiểu quốc Hy Lạp không tồn tại được lâu, những đợt xâm lấn từ Ba Tư đã chiếm
đoạt các tiểu quốc nầy và khi ấy, kẻ xâm lăng được thừa hưởng nghệ thuật của Hy
Lạp. Và vì thế mà trong vùng có ít nhất 3 nền văn hóa và mỹ thuật hòa nhập với
nhau, đó là nền văn hóa du mục, văn hóa Hy Lạp và văn hóa Ba Tư. Chúng ảnh hưởng
lẫn nhau làm phát sinh những niềm tin tôn giáo và mỹ thuật đặc thù của vùng nầy.
Trong các tiểu quốc nầy, tiểu
quốc Bactria và Gandhara vẫn giữ được phần nào văn hóa Hy Lạp, dù rằng họ bị
tách lìa hoàn toàn khỏi vùng Địa Trung Hải khi nằm dưới sự cai trị của La Mã.
Gandhara vì vậy là một nơi lẻ loi, xa xăm của Đế quốc La Mã.
Khi đi
đến bất cứ nơi nào trong vùng Trung Á, người ta cũng sẽ tìm thấy một chút
nghệ thuật Hy Lạp còn sót lại dưới hình thức nầy hay hình thức khác. Đó có thể
là đồng tiền xưa vào thế kỷ thứ 7 sau Tây lịch, có khắc tượng thần trong thần
thoại Hy Lạp, như thần “mỹ thuật” mà ta quen biết dưới tên thần Venus, hay tượng
thiếu niên với những đường nét thật Hy Lạp. Một trong những vùng cho thấy ảnh
hưởng của Hy Lạp rất mạnh mẽ là tiểu quốc Gandhara.
Qua một chút lịch sử của nơi nầy
thì vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, miền Bắc Ấn Độ dưới quyền cai trị của
vua Asoka (A Dục), Phật giáo được chọn làm quốc giáo.
Trước thời đại của vua Asoka, Phật giáo chính yếu là một tôn giáo không có hình
tượng, nặng về ý niệm hơn là hình ảnh thờ phượng. Phật giáo khi ấy chưa
có hình hay tượng đức Phật, cái mà người ta có là những bảo tháp Stupa, nơi cất
giữ xá lợi. Trong thời vua Asoka, nhiều bảo tháp được xây
trong nước và nhà vua phân chia xá lợi để mỗi nơi đều có phần cất giữ trong bảo
tháp thờ phượng. Bảo tháp vì vậy là hình ảnh sớm sủa
nhất của Phật giáo. Sau đó là bánh xe Pháp Luân,
nhưng không có hình tượng của đức Phật.
Văn hóa
bấy giờ không xem việc có hình tượng đức Phật là điều cần thiết cho Phật giáo,
không coi đó là việc chính yếu cho lòng tin.
Đây là thời điểm mà những tiểu quốc Hy Lạp thành hình ở Trung Á. Chúng ta không
biết nhiều về những tiểu quốc nầy, ngoài các di tích còn sót lại mà vật quan
trọng là những đồng tiền, trên đó các hình chạm khắc biểu lộ rõ ràng đường nét
truyền thống của Hy Lạp, qua nét mặt các vị tiểu vương cùng hình ảnh quen thuộc
của các lực sĩ và trận tranh tài. Các vị tiểu vương nầy tuy chịu ảnh hưởng của Hy Lạp, nhưng đã chấp
nhận Phật giáo hoặc ít hoặc nhiều mà khoa khảo cổ và sử sách còn ghi lại tên
tuổi một vài vị. Thí dụ như tiểu vương Nandana vào thế kỷ thứ 2 trước Tây
lịch, với hình ảnh còn khắc trên các đồng tiền vàng; hay tiểu vương Milinda (tiếng
Anh gọi là Menander) có những cuộc đàm thoại về giáo pháp với đại đức Na Tiên (Nagasena)
như đã được ghi trong Kinh điển Phật giáo. Và tiểu vương đã cho phép Phật giáo được phát triển trong vương quốc
thuộc nguồn gốc Hy Lạp của mình. Gandhara vì thế là nơi gặp gỡ đầu tiên giữa văn hóa Hy Lạp và văn
hóa Phật giáo.
Sau giai đoạn vài trăm năm tương đối yên ổn nầy, vùng Gandhara bị một loạt xâm
lấn mới của những người từ phương Bắc tràn xuống. Đây là sắc dân chạy trốn sự
tấn công của người Hung Nô ở phía Tây Hoa Lục. Họ bỏ chạy xuyên qua Trung Á và
xuống tới Bắc Ấn. Khi chiếm đóng Gandhara, họ thành lập đế quốc Kushan.
Tới nay người ta vẫn chưa rõ vì lý do
nào những người Kushan làm thay đổi nghệ thuật trong vùng. Giả
thuyết được chấp nhận nhiều nhất là người Kushan thấy rằng, họ cần một
hình ảnh rõ ràng để hướng đến niềm tin. Người Kushan chấp nhận Phật giáo là tôn giáo đã có sớm trong vùng
trước khi họ tới và họ cũng đòi hỏi phải có một hình tượng để tôn thờ.
Cái mà họ tìm thấy tại nơi bị chiếm đóng (tức Gandhara) là những tàn tích còn
sót lại của nghệ thuật Hy Lạp, như tượng nữ thần Hy Lạp ở Afghanistan với những
đường nét, kiểu thức hoàn toàn mang đặc tính Hy Lạp. Người Kushan khi ấy mới
dùng những đường nét, kiểu thức nầy để tạc tượng, khắc hình tả lại cuộc đời đức
Phật. Các toán khảo cổ đào được những tượng Phật của Gandhara vào thế kỷ thứ 2
trước Tây lịch. Nổi tiếng nhất là 2 tượng Phật khổng lồ tại thị trấn Bamiyan (nay
thuộc Afghanistan).
Tượng lớn nhất cao 70 thước được tạc trong núi đá, sơn phết
rực rỡ khiến người xem có thể chiêm ngưỡng tượng từ một nơi xa hàng mấy cây số.
Hai pho tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị chế độ Hồi giáo cực đoan Taliban phá
hủy hoàn toàn, nhưng Liên Hiệp Quốc đang có những dự án trùng tu lại 2 công
trình văn hóa lịch sử vĩ đại nầy như là di sản văn hóa của thế giới.
Hình tượng tạc ở Gandhara rất
hiện thực như ta có thể thấy qua các bức tượng hình đầu của đức Phật
bằng đồng, bằng cẩm thạch, nó cho thấy sự hòa hợp thành công giữa nghệ thuật tạc
chân dung sống động của Hy Lạp với một tôn giáo xa lạ. Điểm đáng chú ý về kiểu
thức điêu khắc của Gandhara là nó có nhiều dạng khác nhau, từ dạng chịu ảnh
hưởng sâu đậm của Á Đông có tính cách trừu tượng, tới dạng nét hiện thực của thế
giới Tây phương. Sự khác biệt nầy được thể hiện qua các hình
chạm nổi trên tường còn lưu lại đến ngày nay. Nhiều bích họa và phù điêu có thể xem như những bích họa làm tại Hy
Lạp, vì lối chạm khắc hình thể hiện rõ mỹ thuật Hy Lạp.
Một điểm đáng
nói khác về nghệ thuật Gandhara là nó có khuynh hướng trở về đường nét “tĩnh”
trong điêu khắc Ba Tư (Persia) thuở ban đầu. Có thể đó là
vì Gandhara thừa hưởng di sản nghệ thuật của Ba Tư, thường tạc tượng đầu của các
vua Ba Tư theo lối nầy. Theo quan điểm tạc tượng của Gandhara thì hình
đức Phật không phải là của đức Phật, mà là hình ảnh của một lý tưởng hay một
điều gì mà người ta hy vọng có thể đạt tới. Việc tạc tượng đức Phật vì thế được
xem như cụ thể hóa ý niệm về một con người tuyệt mỹ thập toàn. Thái tử
Siddhàrtha được xem là biểu tượng của một thanh niên văn võ toàn tài, được huấn
luyện về các môn thể thao, võ nghệ y như một lực sĩ tranh tài Olympics của đế
quốc Hy Lạp. Hình ảnh thái tử Siddhàrtha với chiến xa và người hầu cầm cương rất
gần gũi với hình ảnh một thanh niên con nhà vương giả của Hy Lạp, được rèn luyện
tài năng cho cả thời bình lẫn thời chiến.
Vì thế khi
muốn tạo nên một hình ảnh của đức Phật thì hình ảnh lý tưởng được sử dụng là của
một lực sĩ Hy Lạp tuyệt hảo, một con người thập toàn. Tiêu
chuẩn nầy cũng được áp dụng cho hình tượng các vị Bồ-tát, tuy rằng kiểu thức có
thay đổi và có một hàm ý khác. Khi tạc tượng Bồ-tát thời Gandhara, người
ta thể hiện sự giàu sang qua y phục và trang sức; như trên đầu có vương miện các
vị vua chúa, trên ngực có những trang sức chạm trổ lộng lẫy; trái
tai dài vì sức nặng của đồ trang sức và cánh tay có những vòng đeo bằng
đá quý.
Nói tóm
lại, tượng Phật và tượng Bồ-tát thời Gandhara thể hiện mọi đặc tính của một
thanh niên giàu có.
Và sự mô tả nầy còn có một hậu ý khác, là thanh niên quý phái
đó được hưởng mọi điều thuận lợi trong đời nhưng lại từ bỏ tất cả, không
thừa hưởng điều gì về vật chất để cứu độ nhân gian.
Các đặc tính khác của nghệ thuật
Hy Lạp cũng tìm đường thâm nhập vào nghệ thuật hình tượng của Phật giáo,
đó là Hy Lạp tôn sùng mỹ lệ nhưng khi La Mã chiếm đoạt Hy Lạp thì ý niệm
mỹ lệ dần dần biến thể thành ý niệm về sự tàn tạ, hư hao. Trong nghệ thuật
Gandhara, điều nầy có thể nhìn thấy qua pho tượng tạc đức Phật trong giai đoạn
tìm đạo và tu theo lối khổ hạnh. Nghệ thuật Gandhara đã
tạo ra một số tác phẩm mô tả giai đoạn hành xác nầy rất tượng hình với thân thể
gầy đét, khuôn mặt già nua, xương sống xương sườn trên người lộ rõ.
Hình người không phải là vật duy
nhất được chuyển đi
trên đường Tơ Lụa mà hình ảnh sư tử cũng được phô bày trong nghệ thuật
Gandhara nói chung và nghệ thuật Phật giáo nói riêng. Sư tử là
hình tượng đã có từ rất lâu, trước cả nghệ thuật Hy Lạp nhưng sư tử được xem như
biểu tượng thiêng liêng của con người thì là chuyện lạ lùng. Tại Gandhara,
người ta tìm thấy những tượng hay cặp tượng sư tử khắc trên đá như là biểu tượng
của đức Phật, hay của giòng họ đức Phật, của vua Asoka, của người Kushan, và
hình ảnh sư tử đã theo đường Tơ Lụa tới Trung Hoa, rất thịnh hành vào thời nhà
Đường tức là vào thế kỷ thứ 7, 8, 9 sau Tây lịch. Tượng sư tử được dựng ở đền
đài, cung điện của thiên tử, sau biến thể thành Lân múa ngày Tết. Dĩ nhiên Trung
Hoa không có sư tử mà hình ảnh con vật nầy trong văn hóa Trung Hoa bắt nguồn từ
một loạt hình tượng của nghệ thuật Phật giáo tại Gandhara vốn chịu ảnh hưởng của
Hy Lạp, được chuyển đi tới lui qua lại trên đường Tơ Lụa.
Lịch sử của
các thành phố ở Trung Á (Central Asia) ghi lại đặc tính khoan hòa cao độ. Một phần lớn có thể vì đây là những
thành phố nằm trên đường giao dịch buôn bán, lòng cuồng tín tôn
giáo không mang lại lợi nhuận, phần khác có thể vì nhiều người tị nạn chạy tới
các thành phố nầy nên họ có khái niệm là óc tín ngưỡng hẹp hòi sẽ không đem lại
lợi ích ấm no. Kết quả các cuộc đào xới, khai quật trong khắp vùng Trung Á cho thấy
nơi đây hết sức khoan hòa về mặt tôn giáo, có mặt đủ mọi tín ngưỡng tại các
thành phố nầy. Tính cách khoan hòa trên đây kéo dài trong một thời gian
khá lâu, từ lúc các thành phố được tạo lập cho tới thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch,
lúc mà ảnh hưởng mỹ thuật của Hy Lạp trở nên mạnh mẽ, sau đó kéo dài đến tận lúc
Hồi giáo bắt đầu du nhập vào Trung Á, sự khoan hòa chấm dứt vào thời nhà Đường ở
Trung Hoa tức là thế kỷ thứ 8 sau Tây lịch.
Trong khoảng thời gian rất dài
nầy, các tôn giáo sinh hoạt cạnh nhau rất hòa thuận, hình tượng của các niềm tin
khác nhau được nghệ nhân tạo nên, chẳng hạn như tượng nữ thần 4 tay ngồi trên
lưng sư tử ở một nơi gần thành phố Samarkhan vào thế kỷ 7 sau Tây lịch. Mặt khác,
mảnh thảm dệt cũng ở vùng nầy vào thế kỷ thứ 1 BC, mô tả các thần linh trong
thần thoại Hy Lạp. Một mẫu vật khác do ngành khảo cổ tìm được là bức bích họa
trên tường vào thế kỷ thứ 3 BC, đây là một phần của trọn bức vẽ dài với các hình
tượng có đường nét hoàn toàn của La Mã, “La Mã” đến nỗi người ta tự hỏi có nghệ
nhân La Mã nào lạc loài đến đây trong thời kỳ nầy để sáng tạo ra tác phẩm trên
và tiếp tục tạc tượng, vẽ bích họa, đắp phù điêu theo đường nét của La Mã và Hy
Lạp hay không?
Một chứng cớ của việc có nhiều
tôn giáo hiện diện trong vùng được thấy ở 2 địa điểm khác của Trung Á, một nơi
là Turfan, người ta tìm thấy vết tích của Thiên Chúa giáo lúc ban đầu với đồ vật
mô tả tín đồ cử hành lễ Lá, nơi khác thì đào xới được tượng đẹp đẽ bằng đất sét
của vị Bồ-tát đắp theo kiểu thức Kushan, tại Uzbekistan thì có những miếu thờ
của đạo Phật, nói chung tôn giáo đã theo việc giao thương trên đường Tơ Lụa mà
lan đi khắp nơi trong vùng. Tại Tây Ấn (thời nhà Đường ở Trung Hoa) vào thế kỷ
thứ 7, 8, người ta dễ dàng tìm thấy nơi đó nhà thờ Thiên Chúa giáo, thánh đường
Mosque của Hồi giáo, thánh đường Synagogue Do Thái giáo, miếu thờ của Khổng giáo,
nói chung là các tôn giáo, niềm tin đều có mặt ở Tây Ấn, không chỗ nầy thì chỗ
kia trong thành phố. Vì vậy không có gì ngạc nhiên là mỹ thuật Hy Lạp dưới hình
thức nầy hay hình thức nọ, đã được truyền đi trên cùng lộ trình qua các hình
tượng điêu khắc mọi loại hay ảnh hưởng đến nghệ thuật địa phương.
Nói chung thì việc lan truyền
hình tượng Phật giáo ở các nơi xa xôi, một phần là do việc buôn bán theo
đường Tơ Lụa, một phần là do các nhà sư từ Trung Hoa len lỏi vào các nơi
xa xôi, ngược xuôi trên đường Tơ Lụa sưu tầm kinh điển. Thí dụ nổi tiếng nhất là
ngài Huyền Trang thời nhà Đường sang Ấn Độ thỉnh kinh, cuộc hành trình gian khổ
nầy đã gợi hứng cho văn sĩ Trung Hoa viết nên chuyện Tây Du Ký. Tuy nhiên khi
ngài Pháp Hiển vào thế kỷ thứ 5 và sau đó là ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ 7,
vào tới Gandhara thì đạo Phật và nghệ thuật Phật giáo đã suy tàn, biến mất ở nơi
đây. Những vùng mà 2 nhà sư đi qua chỉ còn là phế tích hoang tàn của cộng đồng
Phật giáo phồn thịnh khi trước, không còn chùa hay tự viện, không còn tăng sĩ,
không còn nghệ thuật Phật giáo nữa, chỉ còn lại dấu vết, hình ảnh, tượng thờ tại
Gandhara mà thôi. Nếu các nhà sư đầu tiên mang kinh điển Phật giáo vào Trung Hoa
là người Kushan hay ngay cả người Parthian (Tây Hạ) là một bộ lạc ở vùng giáp
ranh với Afghanistan và Pakistan, thì về sau nầy, các nhà sư Trung Hoa đi tới
Kushan tìm Chân kinh, ngoài kinh điển, họ còn mang về nước các hình tượng như
đàn tràng Mandala, tượng nhà sư, xâu chuỗi, nhưng trên hết vẫn là tượng đức Phật
và đó là kiểu thức của mỹ thuật Hy Lạp. Chúng ta thử xem qua ảnh hưởng của mỹ
thuật Hy Lạp như thế nào.
Trước tiên là tượng ngồi của nữ thần
Hy Lạp với dáng điệu đặc biệt của đôi tay, 1 tay duỗi thẳng ra, 1 tay giơ lên
cao, thong dong, thanh nhã, duyên dáng. Kiểu thức nầy được lập đi lập lại nhiều
lần trong nghệ thuật Phật giáo, từ Trung Hoa sang tượng đồng của Triều Tiên,
Nhật Bản vào thế kỷ 6 qua các tượng Quán Thế Âm hay vị Phật tương lai của đời
sau là đức Di Lặc.
Kiểu
thức khác đáng đề cập đến là tượng Phật tại Afghanistan vào thế kỷ thứ 6. Lúc ban đầu, đường nét của tượng thần Hercules
và đường nét của các lực sĩ đã được dùng để tạc tượng đầu của đức Phật với nét
mặt Tây phương như xương hàm rộng, gương mặt chữ điền, mắt sâu và mũi cao kiểu
tây phương hay áo choàng dài cổ rộng và rũ xuống với những nếp gấp nhưng từ từ
về sau, dù rằng đường nét của khuôn mặt đức Phật dần dà có nhiều nét Á châu hơn,
nhưng đường nét Hy Lạp nầy vẫn được dùng cho các hình tượng khác của nghệ thuật
Phật giáo như tượng thần Hộ Pháp, tượng chư Thiên...
Nghệ thuật Phật giáo tiếp
tục nẩy nở ở Trung Hoa và Nhật Bản, khởi đầu từ mỹ thuật ở Gandhara rồi về sau,
khi đường Tơ Lụa chấm dứt, cộng đồng Phật giáo dọc theo đường nầy tàn lụn và Phật
giáo tại Trung Hoa bị cắt đứt với kinh điển ban đầu và mỹ thuật Phật giáo ban
đầu thời Kushan, thì nghệ thuật Phật giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản tiếp tục dựa
trên kiểu thức của mỹ thuật Hy Lạp trong việc tạo hình tượng Phật giáo theo lý
tưởng về mỹ lệ của Hy Lạp. Có nhiều hình tượng diễn tả ý niệm nầy, thí dụ như
tượng đức Bồ-tát với đường nét uyển chuyển, tăng bào được tạc mềm mại uốn theo
gió. Tới thời nhà Tống, từ thế kỷ thứ 10 -13, Phật giáo biến mất ở nơi phát sinh
là Ấn Độ, đường Tơ Lụa hoàn toàn ngưng hoạt động, các thành phố trên đường nầy
đã trở thành một phần của thế giới Hồi giáo và trong khi mỹ thuật Hy Lạp thời
Trung Cổ bị lãng quên tại Âu châu thì mối liên hệ với mỹ thuật Hy Lạp vẫn được
duy trì ở Trung Hoa và Nhật Bản theo cái lý tưởng về mỹ lệ thiêng liêng, về hình
ảnh một thần linh mà bất cứ chúng sinh nào cũng có thể trở thành.
Hình ảnh
một thần linh vừa thiêng liêng vừa trừu tượng vẫn còn sống động ở phương Đông. Cái lý tưởng của Hy Lạp về nét đẹp con người và nét
đẹp thiêng liêng cùng với quan niệm của Phật giáo về cái đẹp đã gặp nhau, hòa
hợp nhau tạo ra những hình tượng tôn nghiêm xinh đẹp như người ta nhìn thấy nơi
các tượng Quán Âm bằng đồng làm vào thế kỷ thứ 12 đời Tống. Tóm lại, ý niệm về
mỹ lệ thời cổ Hy Lạp trong một thời gian dài đã ảnh hưởng và tạo nên các hình
tượng Phật giáo, một tôn giáo và một xã hội khác biệt, xa lạ với quan niệm của
Hy Lạp. Đó cũng là điều thú vị khi mùa Thế Vận Hội khai diễn tại Athens, chúng
ta có dịp nhớ về một thời đã qua trên con đường Tơ Lụa (Silk Road), nơi đó mỹ lệ
của Hy Lạp ở phương Tây xa xôi đã ảnh hưởng đến mỹ thuật Phật giáo tận phương
Đông.
Quảng Anh
Hình ảnh và tài liệu tham khảo :
- Wood, Frances. The Silk Road, the
Folio Society, London,
2002.
- Feltham, Heleanor. Bài thuyết trình trong cuộc
triển lãm Treasures of Ancient Greece tại Bảo Tàng
Viện
PowerHouse
Museum, Sydney, 2000.
- Cuộc Triển Lãm Buddha – Radiant Awakening
tại Viện Triển Lãm Nghệ Thuật Art Gallery of New South Wales, Australia, 2001.
Nguồn: Tập san Pháp Luân số 05