Mặc
Không Tử
Bốn mùa luân chuyển, hoa nở rồi
tàn, trăng tròn lại khuyết… Dòng biến dịch đẩy xô con người đến tận cùng hoang
vu, thinh lặng. Người lữ khách mãi lang thang, ruổi
rong muôn vạn nẻo, lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa, xem sông núi mây ngàn là
tri kỷ tri âm, chợt một ngày bước chùn gối mỏi, ngẩn ngơ bên quán trọ trần gian.
Ôi! Áo sờn vai bạc đầu.
Biển đời vẫn
lặng lờ trôi. Từng con sóng nhấp nhô, rì rào, vỗ về
bờ cát trắng đã cuốn đi biết bao hạt cát vào lòng bể khơi. Có bao giờ ta tự hỏi:
Sóng sẽ về đâu? Hạt cát còn hay mất giữa đại dương mênh mông? Còn điều gì lung linh, mầu nhiệm bên trong lớp áo vô thường, biến
dịch?
Kiếp người, với khoảng thời
gian bất định 60 năm-một cuộc đời, có thể hơn thế nữa và cũng có thể chỉ 20 năm,
10 năm… Có người chưa một lần nếm đắng cay bùi ngọt mà cuộc đời ban tặng đành
chịu vùi xác thân dưới lòng đất sâu, đêm đêm nghe côn trùng rả rích.
Với con mắt Tuệ, các vị Thiền sư đã nhìn vào lòng vạn vật.
Bằng âm sắc thi ca, bằng hình tượng nghệ thuật, các Ngài đã thức tỉnh chúng ta,
chỉ cho chúng ta biết sự mong manh của kiếp người. Thân người chỉ như
bóng chớp, như lá cỏ:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật
xuân vinh thu hựu khô”.
(Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ Xuân tươi tốt,
thu qua rụng rời)
(Vạn Hạnh Thiền sư)
hay:
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế
thông thông thục bất bi”.
(Thân như tường vách thuở lung
lay
Ai chẳng thương tình cuộc đổi
thay)
(Viên Chiếu Thiền sư)
Chúng ta cứ
mãi lo tô điểm cho cái thân giả hợp này. Đâu biết rằng, thân thể chúng
ta giống như tường vách lung lay, xiêu vẹo, không biết sẽ sụp đổ cuốn đi lúc nào
trước cơn lốc vô thường.
Thân người vô thường, lúc còn
là một Thái tử, đức Phật đã nghĩ đến vô thường khi nhìn Da-du-đà-la: “Chúng ta
rồi sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu những lớp tro bạc. Ôi!
Mắt trong của em rồi sẽ mờ đục. Môi đỏ của em rồi sẽ úa
màu. Ta nghe trong ta, trong em và trong tất cả mọi người mỗi ngày mỗi đổ
vỡ dưới sức tàn phá của búa thời gian. Chúng ta ôm giữ một
cách tuyệt vọng, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương”.
Về hoàn cảnh
vô thường, gợi cho ta nhớ câu “thương hải tang điền”. Biển xanh một ngày
nào đó trở thành bãi dâu. Mọi việc, được-mất, hơn-thua, phải-trái, ở đời
rơi rụng theo hoa buổi sớm, lợi danh cũng như trận mưa
rào qua đêm.
“Thị phi niệm trục triêu hoa
lạc
Danh lợi
tâm tùy dạ vũ hàn”.
(Phải trái rụng theo hoa buổi sớm
Lợi danh lạnh với trận
mưa đêm)
(Trần Nhân Tông)
Tất cả các
hiện tượng, hành động tạo tác, tập hợp bởi sắc và tâm không thường còn. Chúng không
đứng im nhất định mà luôn ở trạng thái biến động, dịch chuyển vô tận. Sinh diệt diễn tiến mãi. Tâm ta thay đổi không ngừng, mỗi
niệm mỗi khác theo dòng chảy của thời gian. Một Thiền sư có viết:
“Tâm như chàng họa sĩ
Vẽ ngũ
ấm thế gian
Tất cả thế giới
kia
Do tâm mà tạo tác”.
Chung quy, tất cả đều tuân
theo định luật hòa hợp - ly tán vô thường. Vì chúng là
huyễn chất, giả hợp, duyên hợp. Đây là một định luật bất biến, một chân lý hiển nhiên “Tất cánh như
thị vô thường”. Dù đức Phật nói hay không nói, giác ngộ
hay chưa giác ngộ, nó cũng hiện hữu trên cuộc đời mãi mãi, bởi vì bản tính nó
vốn như vậy.
Khi ta hiểu
vô thường trong giáo pháp tương tức tương nhập thì đích thực vô thường là vô
ngã. Chúng tuy hai mà một. Khi đứng về phương
diện thời gian là vô thường - sanh, trụ, dị, diệt; khi đứng về không gian là vô
ngã-thành, trụ, hoại, không. Ngã tính là đồng nhất. Vô thường là tính
thay đổi. Một khi cái gì thay đổi thì nó không còn tính
đồng nhất của nó. Do đó, nó vô ngã. Nhận chân được điều này nên các Thiền
sư thong dong, tự tại giữa cuộc đời:
“Nhược đạt tâm không vô sắc
tướng
Sắc không
ẩn hiện nhiệm suy di”.
(Thấu lẽ tâm không, không sắc
tướng
Sắc-không ẩn hiện mặc vần xoay)
(Viên Chiếu Thiền sư)
Mặc dù, sống trên thế gian đầy
rẫy những cạm bẫy, cám dỗ bởi danh lợi, tài sắc… nhưng tâm các Ngài vẫn bình
lặng, không vướng mắc trần lụy:
“Tâm khôi ra giác mộng
Bộ lý
đáo thiền đường”.
(Nguội ngắt lòng danh lợi
Am thiền rảo gót qua).
(Trần Quang Triều)
Các Thiền sư vẫn lặng yên nhìn
ngắm cuộc đời lắng nghe một sự hòa điệu sâu xa giữa ta và vạn vật:
“Như kim
khám phá đông hoàng diện
Thiền bản
bồ đoàn khán trụy hồng”.
(Chúa xuân nay đã từng quen mặt
Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng)
(Trần Nhân Tông)
Khi dùng chìa
khóa vô thường và vô ngã để mở cửa thực tại thì chúng ta có cơ hội tiếp xúc được
bản thân thực tại nhiệm mầu, đó là Niết-bàn. Niết-bàn có mặt ngay bây giờ, chứ không
phải là một đối tượng tìm kiếm ở tương lai. Ngay trong ta, trong mọi vật đều có bản tính thanh tịnh.
Bên trong lớp áo vô thường vốn chứa sẵn cái chân thường. Đó chính là:
“Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai”.
(Đêm
qua sân trước một cành mai)
(Mãn Giác Thiền sư)
Hay:
“Nhất
thanh đề điểu hựu xuân tàn”.
(Xuân cỗi còn dư một tiếng
chim)
(Trần Nhân Tông)
Vận dụng Tam
pháp ấn hay Tam giải thoát môn vào trong đời sống, ta tiếp nhận và hành trì kinh
điển, dùng trí tuệ để quán sát và phân biệt. Từng bước
cởi bỏ ái nhiễm, đoạn tận khổ đau thì đó là Hữu dư y Niết-bàn. Diệt hết
phiền não, bỏ xả thân này không còn tái sanh, đây là Vô dư y Niết-bàn
Bởi vì
Niết-bàn không hạn cuộc, nó vô tướng, vắng lặng và tịch tĩnh, biến khắp cả pháp
giới, nên gọi là vô trụ xứ Niết-bàn. Vô trụ, vô
sở trụ là cõi pháp vô tận của Như Lai “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.