Nguyên Dung
Tôi đến chùa Từ Quang lần
thứ hai vào một buổi sáng Chủ nhật. Thời tiết cuối đông ở
San Francisco se lạnh nhưng lại khô ráo, đôi khi có một
vài tia nắng làm cho người đi đường có được cảm giác ấm áp, khác với thời
tiết mùa đông tại Huế, thành phố của tôi, mưa dầm dề và gió lạnh buốt.
Chùa Từ Quang trông bề
ngoài không khác một ngôi nhà bình thường ở Hoa Kỳ, có khác chăng là cái bảng
hiệu đề tên chùa được gắn phía trước, và nhờ thế mà thập phương bổn đạo có
thể nhận ra chùa dễ dàng. Nghe nói Ban Trị sự của chùa đang vận động tài chính
để tu sửa phần phía trước của ngôi chùa. Thầy trụ trì chùa Từ Quang là Thượng
tọa Thích Giác Như. Thầy cũng người Huế, đệ tử của ôn Kim Tiên. Tôi nhớ hôm đầu
tiên gặp thầy, biết tôi là người đồng hương, thầy rất hoan hỷ. Tuy nhiên, do
công việc chùa bề bộn, mà thầy chẳng có điệu hay đồng môn nào giúp việc cho thầy
cả, nên trông thầy luôn luôn bận rộn. Nhìn cảnh của thầy tôi cũng phần nào thấy
được rằng việc xuất gia vào chùa ở các nước phương Tây như Hoa Kỳ hẳn là
không nhiều. Đây có thể là một thực tế đáng suy nghĩ đối với việc tổ chức và
phát triển Phật giáo tại Hoa Kỳ hay tại các nước phương Tây nói chung.
Tôi đến hơi trễ, sau khi
thầy Giác Như đã kết thúc phần Pháp thoại. Đại chúng đã đứng chật cả trong chánh
điện, khu vực hành lễ, và chuẩn bị làm lễ Phật do thầy chủ lễ. Buổi lễ
Phật đã diễn ra trong không khí trang nghiêm và thanh tịnh. Tôi lại có dịp nghe
giọng xướng tán đầy chất Huế của một vị Tăng từ vùng đất miền Trung này, một
chất giọng vừa thanh thoát vừa trầm hùng, giàu cảm xúc và đầy
pháp vị.
Nhưng điều làm tôi xúc
động nhất trong buổi lễ ngày hôm đó chính là câu chuyện về những chiếc lá Bồ-đề.
Sau phần lễ Phật, lệ
thường thì đại chúng xuống hậu liêu ở tầng một để thọ trai và đàm đạo trước khi
ra về. Hôm nay khác hơn, sau khi kết thúc phần hồi hướng công đức, tôi nhận ra
một gia đình chít khăn tang trắng đang đứng dậy tiến về phía thầy chủ lễ rồi
chắp tay quỳ xuống. Qua tìm hiểu tôi biết được đây là tang quyến của cố đạo hữu
cựu Hội trưởng Ban Trị sự chùa Từ Quang. Bác cũng là người Huế, vừa qua
đời ở tuổi cổ lai hy, hôm nay cũng là lễ trai tuần thứ hai sau khi bác qua đời.
Tang quyến muốn xin ít phút để đảnh lễ
tri ân công đức của Thầy trụ trì và đại chúng trong việc góp phần tổ chức
và cầu nguyên cho hương linh thân phụ của gia đình. Vị đại diện là một thiếu nữ
trẻ, sau này tôi mới biết chị là người con cả trong gia đình gồm năm chị
em. Điều làm cho tôi lưu ý đầu tiên về gia đình này chính là cung cách
trang nghiêm và dung dị của họ khi tiến hành lễ tác bạch. Tất cả đều chắp tay,
di chuyển nhẹ nhàng và từ tốn, mỗi gương mặt đều biểu lộ sự thành tâm chánh niệm
hướng về chư Phật và di ảnh của người chồng người cha đã quá cố. Sau phần đảnh
lễ, người con gái trưởng của tang quyến bắt đầu chắp tay tác bạch. Chị kể lại
chuyện gia đình tiến hành đám tang của thân phụ. Chị kể rằng, sau khi hỏa táng
xác thân của hương linh, theo lời căn dặn của cha, gia đình để lại một phần tro
để thờ, phần còn lại sẽ đưa ra biển, gởi vào đại dương để cầu nguyện cho hương
linh cha mau tái sinh, và được tái sinh trong một gia đình có đạo tâm, có chính
kiến. Buổi sáng ấy toàn gia đình chít khăn tang lên thuyền ra biển. Trước khi
lên thuyền, gia đình có ý tưởng nhặt sáu ngọn lá Bồ-đề mang theo ra biển. Sáu
chiếc lá tượng trưng cho sáu thành viên trong gia đình, gồm thân mẫu và năm
người con. Đến trưa thì thuyền ra đến biển. Sau phần cầu nguyện, các thành viên
trong gia đình bắt đầu quỳ xuống để tiến hành việc rải tro. Cứ mỗi nắm tro được
tung ra, một chiếc lá Bồ-đề được thả xuống. Mọi người nhìn theo tro và lá bay
bay hòa quyện vào nhau rồi cùng tan vào đại dương, hòa theo
những bọt sóng, lòng nhói đau và đôi mắt rưng rưng, nhưng chẳng ai dám khóc, sợ
làm vướng bận bước chân của thân phụ. Và nắm tro thứ sáu, nắm tro cuối cùng đã
được người con út gởi vào biển cả cùng với chiếc lá Bồ-đề còn lại. Cả nhà một
lần nữa quỳ xuống chấp tay nhìn dòng nước trôi để nhất tâm cầu nguyện cho thân
phụ. Nhưng nhìn kìa, vẫn còn một chiếc lá Bồ-đề đang chạy theo con tàu!
Ôi thiêng liêng quá, mầu
nhiệm quá, nhưng lại quá gần gũi: chính là cha của chúng con
đấy rồi. Có tiếng sụt sùi của ai đó trong gia đình, nhưng đã kìm lại được. Bất
giác cả nhà cùng chắp tay cúi sụp xuống theo hướng chiếc lá và nhất tâm cầu
nguyện. Cha ơi, mẹ và chúng con đang chắp tay cầu nguyện cho cha đây, mong Cha
lên đường được an vui thanh thản và đạt được ý nguyện, chúng con trở về mỗi
người sẽ cố gắng nỗ lực trong cuộc sống, trong việc tu học, nguyện tiếp bước con
đường của cha. Cha hãy yên tâm mà ra đi cha nhé.
Cả nhà đồng tâm niệm Danh
hiệu đức Phật A Di Đà. Âm thanh của họ vang vọng giữa đại dương mênh mông, xuyên
qua những màng sương mỏng đang phủ quanh con tàu, và hình như chiếc lá Bồ-đề đã
nghe được, đã hiểu được, đã giao cảm.
Rồi cả gia đình không còn
thấy chiếc lá Bồ-đề đâu nữa. Vậy là cha đã yên lòng không còn vướng bận cho
chuyến đi xa. Trở về nhà, không ai bảo ai, mọi người đều im lặng vào bàn thờ
thắp hương cho cha.
Cha đang nhìn họ mỉm cười.
Cha không hoan hỷ sao được,
những người con đã làm một việc có ý nghĩa, thể hiện lòng hiếu kính của
mình, thể hiện lòng tin đối với Chánh pháp qua hình ảnh những chiếc lá Bồ-đề.
Toàn đại chúng nghe câu
chuyện trong sự yên lắng và thông cảm, đâu đây có những giọt nước mắt rơi xuống,
những giọt nước mắt chia sẻ đầy đạo vị.
Trên đường về nhà trưa hôm
đó, tôi cứ suy nghĩ mãi về câu chuyện những chiếc lá Bồ-đề.
Vâng, không phải tự nhiên
mà gia đình nhặt những chiếc lá Bồ-đề kia để thả xuống theo xác thân của
chồng của cha mình, không phải tự nhiên mà linh hồn của người cha nhập vào chiếc
lá chạy theo con tàu. Những chiếc lá Bồ-đề kia chỉ là thể hiện bề ngoài của sự
việc. Cội nguồn nơi xuất phát của câu chuyên chính là hạt giống Bồ-đề, là
Tâm Bồ-đề của người vợ, của những người con đối với chồng với cha của mình.
Tâm Bồ-đề ấy là sự hòa quyện giữa tình thương cốt nhục
và tình đạo, là lòng tin vào Chánh pháp của mỗi thành viên đối với người
đã khuất. Một khi hạt giống Bồ đề đã được gieo xuống vững
chắc trong gia đình, chắc chắn hạt giống ấy sẽ nẩy
mầm và phát triển. Nhờ có lòng tin vào Chánh pháp cùng với nỗ lực tu thân hành
thiện trong đời sống hàng ngày, những chiếc lá Bồ-đề kia
của mỗi thành viên trong gia đình sẽ trở thành những Tâm Bồ-đề, không chỉ đối
với người thân của mình mà còn đối với những người xung quanh, đối
với mọi loài chúng sanh.
Tối hôm đó tôi đã làm bài
thơ về Chiếc lá Bồ-đề. w