Nguyên Minh
Cho đến
nay, hầu chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về lịch sử Mật tông
được công bố. Những khó khăn về mặt sử liệu có thể làm nản lòng ngay cả các nhà
nghiên cứu nhiệt tình và nghiêm túc nhất, bởi họ gần như không biết phải bắt đầu
từ đâu, và cũng không có gì nhiều ngoài những mảnh vụn rải rác trong các truyền
thuyết, hoặc những trích dẫn không mang tính hệ thống từ lời dạy của các bậc
thầy Mật tông trước đây và hiện nay.
Dĩ nhiên,
những điều đó chưa bao giờ được xem là những cứ liệu xác đáng theo cách nhìn của
các học giả phương Tây, và càng không thể là nền tảng cho những nghiên cứu sâu
hơn về mặt lịch sử. Hơn thế nữa, vấn đề nguồn gốc hình thành hay quá trình phát
triển của Mật tông chưa bao giờ là vấn đề quan tâm của các vị đạo sư
thuộc tông phái này. Vì thế, họ để lại rất ít hoặc gần như không có gì liên quan
đến lịch sử tông phái. Điều mà các vị thực sự quan tâm chỉ là những gì mà chính
bản thân họ cũng như những đệ tử mà họ dẫn dắt phải đạt được trong quá trình tu
tập. Nhìn từ góc độ nhu cầu tâm linh của người tu tập thì một quan điểm như thế
là hoàn toàn đúng đắn và rất đáng trân trọng. Hơn thế nữa, chính sự nhấn mạnh
vào khía cạnh thực hành tu tập là yếu tố quan trọng nhất trong sự tồn tại của
Mật tông qua các thời đại, bất chấp mọi biến động về kinh tế, chính trị và
xã hội.
Chúng ta
không nghi ngờ gì về việc các hành giả Mật tông không cần đến những hiểu
biết về lịch sử tông phái mà vẫn có thể đạt được những kết quả tiến triển trong
việc tu tập, miễn là họ tìm được một bậc thầy chân chính và có những nỗ lực tu
tập đúng hướng. Tuy nhiên, đó không phải là sự may mắn mà tất cả mọi người đều
có được. Điều thường xảy ra hơn là có rất nhiều người quan tâm đến Mật tông
nhưng lại hiểu biết rất ít, hoặc thậm chí sai lệch về tông phái này. Điều đó có
thể dẫn đến vô số những nhận thức và hành vi sai lầm đáng tiếc cho bản thân cũng
như cho mọi người chung quanh, vì chúng ta đều biết là khi một sai lầm không
được sửa chữa thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến rất nhiều sai lầm khác.
Khác với
giai đoạn trước đây luôn được giữ kín trong núi cao rừng rậm với những bậc thầy
ẩn mình hoàn toàn không giao tiếp với thế giới bên ngoài, ngày nay với những
phương tiện thông tin của thế kỷ 21, Mật tông đã được quá nhiều người
biết đến qua những nguồn thông tin khác nhau. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận những
nguồn thông tin chính xác và toàn diện vẫn còn là điều rất hiếm khi có được.
Phần lớn những ai quan tâm đến Mật tông, đặc biệt là thế hệ trẻ, chỉ có
được những phần thông tin rời rạc, phiến diện và rất nhiều khi sai lệch. Qua
nhiều lần tiếp xúc với các bạn trẻ quan tâm đến Mật tông, người viết
những dòng này đã nhận ra một thực tế là có rất nhiều bạn hiểu sai về Mật
tông, và nguyên nhân chính là vì không có được những nguồn thông tin đầy đủ
và chính xác.
Trong
tình hình đó, trước khi có được những công trình nghiên cứu toàn diện và đáng
tin cậy về
Mật tông ra đời thì một vài nỗ lực nhỏ hơn trong việc giới thiệu đến quý
độc giả, nhất là các bạn trẻ, những nét chính xác và cơ bản nhất về tông phái
này có lẽ cũng là điều cần thiết.
Thông
qua việc kể lại cuộc đời của các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu
(Cát-mã Ca-nhĩ-cư) được gọi là các vị Karmapa
(Cát-mã-ba), tập sách này hy vọng sẽ có thể phác họa được những nét cơ
bản nhất về Mật tông và sự tu tập hành trì của tông phái này. Hy vọng là
qua đó người đọc sẽ có thể nhận ra được một điều: Mật tông hoàn toàn
không phải là một tông phái thần bí và hoàn toàn xa cách với giáo lý căn bản của
đạo Phật. Ngược lại, nền tảng giáo lý Mật tông thật ra cũng không gì khác
hơn chính là những điều mà đức Phật đã từng truyền dạy. Tuy nhiên, các bậc đạo
sư Mật tông
đã có những vận dụng sáng tạo và độc đáo để thực hành và giảng dạy những giáo lý
ấy theo cách riêng của mình, nhưng vẫn đảm bảo một điều là dẫn dắt người tu tập
đi đến sự giải thoát, dứt trừ mọi khổ đau, phiền não.
Với mục
đích như trên, việc sưu tầm và kể lại những câu chuyện về cuộc đời các vị đại sư
tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu
trong sách này không chỉ đơn thuần là những câu chuyện kể. Bởi vì thông qua cuộc
đời của các bậc đạo sư này, người đọc sẽ tìm thấy vô số những chi tiết, những
hình ảnh minh họa sống động về giáo lý Mật tông và sự tu tập hành trì
giáo lý đó. Hiểu được những điều này cũng có nghĩa là hiểu được những nét cơ bản
nhất của Mật tông qua thực tiễn hành trì chứ không phải qua sự diễn giải
lý thuyết. Chính vì thế mà những hiểu biết này mới thực sự là chính xác và hữu
ích.
Về mặt
lịch sử, cho dù đây chỉ là những câu chuyện được truyền tụng trong dòng phái,
nhưng chúng là những câu chuyện rất thật, bởi người được tiếp nhận sự truyền
thừa gần đây nhất của dòng Karma Kagyu, vị Karmapa đời thứ 17 hiện
vẫn còn đang sống như một chứng nhân lịch sử, và sự ra đời của ngài vào năm 1985
đã được dự báo trước một cách chắc chắn bởi vị Karmapa đời thứ 16 trước
khi vị này viên tịch vào năm 1980. Như chúng ta sẽ thấy qua nội dung những câu
chuyện kể, với một sự truyền thừa sống động trực tiếp qua từng thế hệ được kéo
dài liên tục từ đầu thế kỷ 12 cho đến nay, không ai còn có thể hoài nghi về tính
chất có thật và sự tái sinh của các vị Karmapa. Vì thế, những gì được ghi
lại trong các câu chuyện kể này tuy không mang tính chất của những sử liệu chính
thức, nhưng hoàn toàn có thể giúp chúng ta phác họa lại những bức tranh khá đầy
đủ và chính xác về những quãng thời gian mà các vị đã từng tu tập và hoằng hóa.
Về mặt
giáo lý, cuộc đời của các vị Karmapa
là những tấm gương sống động minh họa cho chính lời dạy của các ngài, và xét cho
cùng thì cũng chính là những lời dạy của đức Phật. Thông qua những tấm gương
sống động đó, mỗi chúng ta có thể có một sự cảm nhận và học hỏi khác nhau, hoặc
về đức từ bi, hoặc về sự nhẫn nhục, hoặc về sự tinh tấn... nhưng tất cả đều có
thể xem là những bài học trực tiếp không thông qua sự diễn dịch bằng ngôn ngữ.
Đây cũng chính là điểm đặc biệt nhất trong phương thức truyền thừa và giáo huấn
của Mật tông từ xưa nay, vốn không bao giờ phụ thuộc vào ngôn ngữ.
Mặc dù
vậy, sẽ là điều vô cùng khó khăn cho những ai chưa từng biết đến Mật tông
khi phải tiếp xúc ngay với những câu chuyện đầy tính chất kỳ bí và sâu xa khó
hiểu như thế này. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên dành đôi chút thời gian để làm
quen với một số khái niệm và kiến thức cơ bản nhất về Mật tông trước khi
đi vào những câu chuyện kể về cuộc đời các vị Karmapa.
Thật ra,
cho đến nay chúng tôi vẫn chưa có duyên may được đọc thấy bất cứ tài liệu nào đề
cập một cách đầy đủ và có hệ thống về Mật tông. Vì thế, những gì được
trình bày sau đây có thể sẽ mang đậm dấu ấn chủ quan của người viết trong suốt
quá trình tìm tòi góp nhặt và chọn lọc từ nhiều nguồn thông tin, tư liệu khác
nhau. Những gì được giới thiệu ở đây có lẽ chưa được xem là đầy đủ, nhưng hy
vọng một điều là chúng có thể giúp ích phần nào cho những ai chưa từng biết đến
Mật tông
sẽ không còn thấy quá xa lạ và khó hiểu đối với tông phái này.
Về mặt
lịch sử, sự ra đời của Mật tông trong dòng lịch sử phát triển của đạo
Phật nói chung có rất nhiều điểm tương đồng với các truyền thống Đại thừa.
Không ít người đã dựa vào sự xuất hiện khá muộn màng của cả Mật tông
lẫn Đại thừa để cho rằng những phần giáo lý này chỉ là ngụy tạo, nghĩa là
hoàn toàn không có trong giáo lý nguyên thủy của đức Phật mà chỉ do các thế hệ
sau này tạo ra.
Tuy
nhiên, cái gọi là lịch sử mà chúng ta đang nói đến thật ra không phải là những
gì đã từng xảy ra, mà chỉ là những gì chúng ta may mắn biết được. Nếu so sánh
những gì chúng ta biết được với những gì đã từng xảy ra thì thường là quá ít, và
độ chính xác cũng chỉ là tương đối với những giới hạn nhất định mà bất cứ nhà sử
học nào cũng có thể dễ dàng nhận ra.
Giả sử
như có một nền văn minh rực rỡ đã từng hiện diện trên trái đất này và rồi cũng
đã chìm sâu trong lòng đất, thì chúng ta cũng không có cách gì để tái hiện, mô
tả lại điều đó trong lịch sử. Tuy nhiên, sự không biết của chúng ta hoàn
toàn không có ý nghĩa phủ nhận sự hiện hữu trước đây của nền văn minh ấy.
Và việc thông qua một số phương thức nào đó ngoài những cứ liệu lịch sử mà chúng
ta có thể biết được ít nhiều về một nền văn minh như thế cũng không phải là điều
không thể xảy ra. Vì thế, một thái độ thận trọng và cởi mở là hết sức cần thiết
khi tiếp cận với những khoảng trống không sao tránh khỏi khi ngược dòng lịch sử.
Những gì chưa được biết đến hôm nay về sự hình thành của Đại thừa hay
Mật tông hoàn toàn không thể là lý do để chúng ta hoài nghi về mức độ chân
xác trong các phần giáo lý đó.
Trong
chừng mực giới hạn mà các dữ kiện đã có được hiện nay cho phép, các nhà nghiên
cứu lịch sử đã phải công nhận sự hiện hữu trước đây của đức Phật Thích-ca
là một sự thật. Điều này cũng chỉ mới xảy ra khá gần đây, khi các nhà khảo cổ
khai quật được trụ đá chôn từ thời vua A-dục (274 – 236 trước Công nguyên),
tại vườn Lam-tỳ-ni (Lumbini), trên đó khắc những dòng chữ xác nhận
rằng đây chính là nơi đản sinh của đức Phật Thích-ca. Ngoài ra còn có
nhiều trụ đá khác cũng do vị vua này tạo dựng ở nhiều nơi khác trên lãnh thổ mà
ông trị vì, trên đó khắc những lời dạy của đức Phật. Các nhà nghiên cứu tin rằng
vua A-dục sống vào khoảng hơn một thế kỷ sau khi đức Phật nhập diệt.
Khoảng thời gian này không phải là quá xa để có thể xóa mờ đi những ảnh hưởng
trực tiếp của một bậc thầy vĩ đại. Vì thế, chúng ta có thể tin chắc rằng những
gì vua A-dục
được biết về sự ra đời của đức Phật là rất đáng tin cậy.
Điều này
dường như không có ý nghĩa nhiều lắm đối với những tín đồ Phật giáo vốn đã đặt
niềm tin nơi đức Phật từ hơn 25 thế kỷ qua, qua những lời dạy của ngài. Tuy
nhiên, từ góc độ của các nhà nghiên cứu lịch sử thì điều này mở ra một hướng
nhìn hoàn toàn mới. Người ta bắt đầu cảm thấy cần phải thay đổi thái độ về những
gì trước đây vẫn bị xem là đáng ngờ. Khi một tia sáng đã có thể lóe lên từ trong
bức màn tối đen của quá khứ hơn 25 thế kỷ, thì người ta hoàn toàn có quyền hy
vọng về những tia sáng khác nữa sẽ còn tiếp tục được phát hiện. Hơn thế nữa,
tính cách hợp lý và sự phù hợp của những gì được rút ra khi nghiên cứu về nội
dung giáo lý Đại thừa, và gần đây hơn là giáo lý Mật tông, khi so
sánh với những giả thiết về mặt lịch sử có vẻ như càng củng cố hơn nữa niềm tin
vào những cội rễ sâu xa của Đại thừa cũng như Mật tông, vốn rất có
thể đã được hình thành ngay từ thời đức Phật còn tại thế.
Đó là
xét về mặt lịch sử. Còn về mặt giáo nghĩa, chúng ta có sự thuận lợi hơn nhiều
khi so sánh các phần giáo lý khác nhau của Đại thừa
và Mật tông với những gì được gọi là kinh điển nguyên thủy. Dưới ánh sáng
của những giáo nghĩa căn bản mang tính chất nhất quán và xuyên suốt trong mọi
lời dạy của đức Phật, không ai có thể hoài nghi về những phần giáo lý hoàn toàn
phù hợp những giáo nghĩa căn bản đó. Điều này đã được chính đức Phật nói ra
trong kinh điển như một sự chỉ dạy về phương thức xác định những lời dạy của
ngài. Theo đó, những giáo nghĩa căn bản gọi là Tam pháp ấn có thể được sử
dụng như những dấu ấn để xác nhận một phần giáo lý nào đó là do chính đức Phật
truyền dạy. Ngược lại, nếu một phần giáo lý nào đó không phù hợp với Tam pháp
ấn, điều đó sẽ có nghĩa là chúng không phải do chính đức Phật nói ra. Tam
pháp ấn
đó là tính chất vô thường của các pháp hữu vi (chư hành vô thường), tính
chất vô ngã của tất cả các pháp (chư pháp vô ngã) và tính chất tịch tĩnh
của cảnh giới Niết-bàn
giải thoát (Niết-bàn tịch tĩnh).
Khi được
soi rọi dưới ánh sáng của Tam pháp ấn, mọi sự nghi ngờ về những giáo pháp
thực sự do đức Phật truyền dạy sẽ dễ dàng tan biến, tương tự như khi chúng ta
nhìn thấy con dấu chứng thực của một giới chức có thẩm quyền trong một văn bản
của thế gian.
Tuy
nhiên, trong một chừng mực nào đó, việc nhận biết được Tam pháp ấn ở giáo
lý Mật tông có phần khó khăn hơn so với ở giáo lý Đại thừa. Sở dĩ
như thế là vì giáo lý Mật tông theo truyền thống vốn không hề được ghi
chép để giảng giải, phân tích. Phần lớn các phần giáo lý này được các bậc thầy
truyền thụ cho đệ tử theo phương thức khẩu truyền và trực tiếp. Vì thế, đối với
những người không trực tiếp tu tập trong một dòng phái nào đó thuộc Mật tông
thì việc tìm hiểu hoặc nghiên cứu giáo lý này là điều trước đây hầu như không
thể thực hiện. Chỉ trong một thời gian gần đây, do có những biến động về mặt
lịch sử và xã hội – mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong một phần sau – nên các phần
giáo lý mật truyền này mới dần dần được phổ biến một cách rộng rãi đến với những
người không thuộc truyền thống này. Điều này giải thích vì sao cho đến nay
Mật tông vẫn còn là một tông phái đầy bí ẩn và khó hiểu đối với nhiều người,
ngay cả những người Phật tử.
Trở lại
với sự hình thành của Đại thừa
và Mật tông trong dòng lịch sử phát triển của đạo Phật, chúng ta không có
gì nhiều hơn là những mốc thời gian được tạm xác định khi kinh điển của các tông
phái này xuất hiện và lưu hành.
Trong
thực tế, nhiều thế kỷ sau khi đức Phật nhập diệt vẫn chưa có bất kỳ một dạng
kinh điển nào xuất hiện. Tất cả những lời dạy của đức Phật được các vị tăng sĩ
ghi nhớ và truyền miệng cho nhau qua nhiều thế hệ, cũng như lan truyền ra khắp
nhiều địa phương khác nhau trên toàn cõi Ấn Độ. Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu
tin rằng bản thân đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ Ardhamagadhi
của xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) để thuyết giảng,
nhưng những lời dạy của ngài lại chưa bao giờ được ghi chép bằng chính loại ngôn
ngữ này. Hình thức xuất hiện đầu tiên của kinh điển là những bản dịch sang các
ngôn ngữ Ấn Độ khác, mà chủ yếu còn lại đến nay là tiếng Pāli ở miền Nam
và tiếng Sanskrit ở miền Bắc. Vì thế, việc xác định riêng các kinh điển
Pāli
là “nguyên thủy” có phần nào đó phải nói là phiến diện và không hoàn
toàn chính xác.
Ngay
trong thời kỳ kinh điển chưa được ghi chép thành văn bản thì sự phân chia các bộ
phái trong Phật giáo đã bắt đầu xuất hiện. Đó là vào khoảng 150 năm sau khi đức
Phật nhập diệt, và sự phân chia trước hết được ghi nhận là giữa Đại chúng bộ
(Mahāsānghika) với Thượng tọa bộ (Sthavirāvāda).
Những
người nghiêng theo Đại chúng bộ bắt đầu đặt vấn đề nghi ngờ về sự giải
thoát rốt ráo của quả vị A-la-hán. Thông qua đó, họ mô tả lại hình tượng
đức Phật, bậc giác ngộ hoàn toàn và không có bất cứ sự khiếm khuyết hay ô nhiễm
nào. Đại chúng bộ cho rằng vị A-la-hán tuy có đạt được sự giải
thoát nhưng đó chưa phải là sự giải thoát rốt ráo và toàn diện, vì các vị vẫn
còn có những giới hạn nhất định so với đức Phật. Mặt khác, Đại chúng bộ
cũng dạy rằng đức Phật là bậc giải thoát hoàn toàn rốt ráo nên chưa từng có việc
sinh ra và chết đi như sự nhìn thấy của mọi người ở thế gian. Đức Phật Thích-ca
mà tất cả chúng sinh đã nhìn thấy sinh ra và lớn lên tại Ấn Độ, tu tập và thành
đạo, thuyết pháp độ sinh và nhập Niết-bàn, thật ra chỉ là một hóa thân
của ngài nhằm mục đích giáo hóa chúng sinh mà thôi.
Những
giáo lý ban sơ của Đại chúng bộ
được sự ủng hộ của đa số Phật tử đương thời, và đây chính là lý do họ có tên là
Đại chúng bộ. Những người theo Thượng tọa bộ không phản đối giáo lý
của Đại chúng bộ, nhưng họ bảo vệ và nhấn mạnh quan điểm cho rằng những
vị tăng sĩ là cao quý và đáng tôn kính so với những người thế tục. Đây là lý do
giải thích tên gọi Thượng tọa bộ. Chính quan điểm này đã ngày càng tách
rời họ với đông đảo quần chúng.
Những gì
được biết hiện nay về sự phân chia từ rất sớm giữa Đại chúng bộ và
Thượng tọa bộ có thể giúp chúng ta rút ra một số nhận xét liên quan đến
sự hình thành của Đại thừa về sau này.
Thứ nhất,
đây là thời điểm khá sớm sau khi đức Phật nhập diệt, nên dấu ấn những lời dạy
của đức Phật vẫn còn đậm nét trong lòng người Phật tử. Như vậy, những người theo
Đại chúng bộ chắc chắn đã không thể tự sáng tạo ra một giáo lý mới, vì nếu
như vậy thì họ không thể nào có được sự ủng hộ của đa số. Do đó, những lập luận
khác biệt của họ so với Thượng tọa bộ phải dựa trên chính những gì đức
Phật đã dạy. Điều này cho thấy trong quá trình truyền dạy giáo lý, các tăng sĩ
có thể đã nhấn mạnh thiên lệch về một số ý nghĩa nhất định nào đó và bỏ qua một
số khía cạnh quan trọng khác. Sự kiện này dẫn đến việc quá xem trọng vai trò của
tăng sĩ và xem thường những Phật tử cư sĩ, và không phải tất cả tăng sĩ đều tán
thành như vậy. Một số vị đã sớm nhận ra sự sai lệch này và nêu lên để tranh luận
ngay trong hàng ngũ tăng sĩ, và chính điều này đã tạo ra sự phân chia giữa
Thượng tọa bộ với Đại chúng bộ.
Thứ hai,
có thể thấy rằng những tư tưởng được Đại chúng bộ truyền dạy chính là
tiền đề của những tư tưởng Đại thừa sau này. Như vậy, cho dù sự xuất hiện
của các kinh điển Đại thừa được cho là khá muộn màng, nhưng những tư
tưởng Đại thừa rõ ràng là đã có những cội rễ sâu xa ngay từ một giai đoạn
rất sớm, chưa hẳn đã là muộn hơn so với các kinh điển Tiểu thừa.
Vào thời
đức Phật, các phần giáo lý khác nhau vốn đã được ngài truyền dạy một cách thận
trọng và có chọn lọc đối tượng. Trong bối cảnh hết sức phức tạp của xã hội Ấn Độ
đương thời, nhiều luồng tư tưởng khác nhau vẫn đồng thời chi phối, và niềm tin
đối với những điều hoàn toàn mới lạ do đức Phật truyền dạy không phải là chuyện
dễ dàng có được. Rất nhiều vấn đề ngày nay chúng ta thấy là đơn giản, nhưng vào
thời đức Phật vừa lập giáo lại thực sự không đơn giản chút nào.
Hãy lấy
ví dụ như việc ăn chay chẳng hạn. Đối với người Phật tử cư sĩ ngày nay cũng biết
rõ việc ăn chay là đáng khuyến khích và không có gì để phân vân, bàn cãi, chỉ có
điều là chúng ta có thể thực hiện được việc tốt ấy đến mức nào mà thôi. Nhưng
vào thời đức Phật, ngay cả việc yêu cầu các tăng sĩ ăn chay cũng là việc không
dễ dàng. Trước kia chưa từng có ai dạy cho họ điều đó. Hơn thế nữa, việc giết
súc vật để hiến tế vẫn còn rất phổ biến trong hầu hết các tôn giáo đương thời.
Vì thế, ngay cả với các đệ tử xuất gia, đức Phật cũng đã không đưa ra lời khuyên
ăn chay ngay từ đầu. Ngài đã cho phép họ được ăn ba loại thịt “sạch”, gọi
là tam tịnh nhục, nhằm mục đích giúp họ có một khái niệm đầu tiên rồi sau
đó mới dần dần chuyển hướng, thay đổi những nhận thức sai lầm trước kia. Ba loại
“tịnh nhục” đó là: Thịt con vật mà mắt người ăn không nhìn thấy khi bị
giết; thịt của con vật mà tai người ăn không nghe biết khi bị giết; và thịt con
vật không phải vì người ăn mà bị giết. Kinh Đại Bát Niết-bàn ghi lại sự
việc này như sau:
“Như
Lai chế định mỗi một giới cấm đều có dụng ý riêng. Vì có dụng ý riêng, nên ta
cho phép ăn ba thứ tịnh nhục... Và cũng vì có dụng ý riêng, nên ta cấm hẳn tất
cả các loại thịt, kể cả thịt của những con thú tự nhiên chết, không bị giết hại.
Này Ca-diếp! Kể từ hôm nay ta cấm tất cả các đệ tử không được ăn bất cứ loại
thịt nào cả.”[1][1]
Tính
chất tùy duyên để hóa độ chúng sinh là một đặc điểm nổi bật cần phải lưu ý trong
sự truyền dạy giáo pháp của đức Phật. Trong hầu hết các kinh điển Đại thừa
đức Phật đều có dạy rằng vì tùy thuận căn cơ thấp kém của chúng sinh nên ngài
mới truyền dạy giáo pháp Tiểu thừa, và ngài cũng dạy rằng quả vị A-la-hán,
Niết-bàn
của Tiểu thừa là một quả vị chưa rốt ráo, chưa phải hoàn toàn giải thoát.
Người
khởi xướng cuộc tranh luận giữa Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ
được biết là một vị tăng tên Mahādeva
(Đại Thiên). Vị này đã nêu lên 5 điểm mà ông cho rằng vị A-la-hán
chưa phải bậc giải thoát rốt ráo. Trong các luận điểm đó, ông nhấn mạnh rằng một
vị A-la-hán vẫn còn có những chỗ nghi ngờ, vẫn còn có nhiều điều chưa
biết, và còn phụ thuộc vào sự dẫn dắt của người khác để đạt đến sự giải thoát
rốt ráo. Chúng ta có thể tin chắc một điều là Mahādeva không tự mình nghĩ
ra những điều này. Ông có thể đã quan sát các vị
A-la-hán trong thời đại mình và so sánh với những lời Phật dạy để đưa ra
ý kiến bất đồng của mình. Chính vì thế mà ông nhanh chóng có được sự ủng hộ của
đa số. Cũng cần lưu ý, kinh điển Tiểu thừa thường gọi đức Phật là bậc
A-la-hán, còn kinh điển Đại thừa chỉ xem đây là một trong Thập
hiệu của Phật. Sự khác biệt này cho thấy mục tiêu nhắm đến của hai tông phái
là hoàn toàn khác nhau, và Đại thừa chưa bao giờ xem quả vị A-la-hán
là mục tiêu cuối cùng của sự tu tập. Quan điểm này của Đại thừa rõ ràng
là đã xuất hiện ngay từ thời Mahādeva.
Những
hạt giống Phật pháp đầu tiên nảy mầm trên vùng đất Ấn Độ chắc chắn đã là những
hạt giống Tiểu thừa. Điều này được nhắc đến trong nhiều kinh điển và hoàn
toàn phù hợp với những gì chúng ta biết được về sự phát triển của Phật giáo
trong giai đoạn đầu tiên.
Vào thời
đức Phật, đa số trong tăng đoàn đều là những vị tu tập theo giáo pháp Tiểu
thừa. Các vị đại đệ tử của Phật, mà tiêu biểu nhất là 10 vị được tôn xưng
các danh hiệu đệ nhất như Xá-lợi-phất, bậc Trí tuệ đệ nhất,
Mục-kiền-liên, bậc Thần thông đệ nhất, A-na-luật, bậc Thiên
nhãn đệ nhất, Ưu-ba-ly, bậc Trì luật đệ nhất... đều là những
vị chứng đắc Thánh quả Tiểu thừa, hay gọi theo danh xưng trong các kinh
Đại thừa thì họ đều thuộc về hàng Thanh văn đệ tử. Điều này phản ánh
một cách hợp lý quá trình truyền pháp của đức Phật được ghi lại trong kinh điển.
Kinh Chuyển pháp luân cho biết trong lần thuyết pháp đầu tiên tại vườn
Lộc uyển, đức Phật đã thuyết dạy về Tứ diệu đế, nền tảng căn bản của
giáo pháp Tiểu thừa.
Sau khi
đức Phật nhập diệt, những người tu tập theo giáo lý Tiểu thừa vẫn tiếp
tục chiếm ưu thế – ít ra là về số lượng – trong một thời gian dài. Lần kết tập
kinh điển đầu tiên được tổ chức ngay sau khi đức Phật nhập diệt, và nội dung chủ
yếu là những kinh điển Tiểu thừa mà sau này thường được biết đến với tên
gọi là kinh điển “nguyên thủy”.
Cũng cần
lưu ý rằng vào thời điểm đó chưa có chữ viết để ghi lại kinh điển. Phải đến
khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên thì chữ viết mới xuất hiện ở Ấn Độ. Vì thế,
lần kết tập kinh điển đầu tiên này được thực hiện theo phương thức truyền khẩu.
Có tất cả là 500 vị tỳ-kheo tham gia cuộc kết tập này, và tất cả đều đã
chứng đắc quả vị A-la-hán. Dưới sự chủ trì của ngài Ca-diếp, đại
hội đã công cử ngài A-nan làm người đọc lại các kinh điển mà đức Phật đã
thuyết dạy, và ngài Ưu-ba-ly làm người đọc lại các giới luật mà đức Phật
đã chế định.
Sau khi
ngài A-nan đọc lại cho tất cả các vị tỳ-kheo
có mặt nghe một bản kinh hay một bài kệ mà chính ngài đã được nghe từ kim khẩu
đức Phật, tất cả những người tham gia cuộc kết tập cùng vận dụng trí nhớ của
mình để nhớ lại và xác nhận hoặc góp ý điều chỉnh, sửa chữa những gì ngài A-nan
vừa nhắc lại. Cứ như vậy, các vị tuần tự nhắc lại tất cả những gì đức Phật đã
truyền dạy. Sau khi tất cả mọi người đã thống nhất về nội dung những điều được
nhắc lại, họ đồng thanh tụng đọc lại tất cả để ghi sâu thêm vào trí nhớ của mỗi
người. Sau đó, chính những thành viên này lại tiếp tục truyền dạy những giáo lý
ấy ra khắp nơi.
Luật
tạng cũng được kết tập theo cách thận trọng tương tự như trên,
với sự nhắc lại của ngài Ưu-ba-ly và sự xác nhận của tất cả mọi người. Có
lẽ vì tính chất cô đọng và gắn liền với đời sống hằng ngày của tăng sĩ cũng như
với số lượng không lớn lắm so với phần Kinh tạng, nên việc kết tập
Luật tạng không để lại vấn đề gì về sau. Các nhà nghiên cứu tin rằng ngay từ
khi chưa được ghi chép thành văn bản, khoảng thế kỷ 4 trước Công nguyên, Luật
tạng đã có được hình thức ổn định như hiện nay. Sự thật là, trong các thời
kỳ về sau khi có sự phân chia các bộ phái trong Phật giáo thì Luật tạng
vẫn được tất cả các tông phái khác nhau tôn trọng và vâng giữ như nhau, hầu như
không có nhiều khác biệt.
Nhưng
đối với Kinh tạng thì vấn đề không hoàn toàn đơn giản như thế. Ngay trong
thời gian diễn ra cuộc kết tập lần thứ nhất, đã có những dấu hiệu cho thấy có sự
bất đồng trong Tăng đoàn. Con số đại tỳ-kheo vào thời đức Phật được ghi
nhận trong hầu hết kinh điển là 1.250 vị, và có nhiều lý do để chúng ta tin rằng
con số thực sự là lớn hơn nữa. Vì thế, số lượng các vị tham gia kết tập chỉ mang
tính đại biểu, và không chắc rằng các vị còn lại có thống nhất ý kiến với hội
nghị hay không.
Sự thật
là ngài Ca-diếp tuy được xem là vị tu hạnh Đầu-đà đệ nhất, nhưng
trước đó chưa từng thay thế đức Phật lãnh đạo Tăng đoàn hay thuyết giảng giáo
pháp. Người nhận được danh xưng Thuyết pháp đệ nhất là ngài Phú-lâu-na
(Purṇa) lại
vắng mặt trong cuộc kết tập này. Ngoài ra, có hai vị đại đệ tử trước đây đã từng
thay mặt đức Phật lãnh đạo Tăng đoàn trong một số trường hợp, cũng như đã từng
được đức Phật chính thức giao phó việc thay Phật thuyết giáo. Đó là hai vị
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Nhưng thật không may là cả hai vị đều
đã viên tịch trước cả khi đức Phật nhập diệt. Vì thế, có thể nói rằng thành viên
quan trọng nổi bật nhất trong cuộc kết tập kinh điển đầu tiên này chỉ duy nhất
có ngài A-nan.
Nhưng có
một chi tiết mà chúng ta cần lưu ý là ngài A-nan
vẫn chưa chứng đắc quả vị A-la-hán
vào thời điểm sắp diễn ra cuộc kết tập. Với sự nỗ lực tu tập trong đêm cuối cùng
trước đó, ngài mới chứng đắc quả A-la-hán và được ngài Ca-diếp
chấp nhận cho tham gia cuộc kết tập. Mặc dù có một trí nhớ kiệt xuất và được kề
cận bên đức Phật nhiều nhất so với các đệ tử khác, nhưng kết quả tu tập của ngài
như thế không chắc là đã tạo được sự tin tưởng tuyệt đối nơi tất cả mọi người
trong Tăng đoàn. Và việc có những bất đồng nào đó nơi những người không tham gia
kết tập cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên.
Điều rất
khó hiểu là vì sao lại có một sự triệu tập chỉ 500 vị tỳ-kheo trong cuộc
kết tập kinh điển này mà không phải là toàn thể Tăng đoàn? Điều này có vẻ như
không phù hợp với tinh thần giáo hóa của đức Phật khi còn tại thế. Chúng ta đều
biết là trong suốt gần năm mươi năm hoằng hóa, đức Phật chưa từng tạo ra bất cứ
một sự phân chia nào trong Tăng đoàn theo cách này. Chỉ có sự phân biệt giữa
những đệ tử tu tập có nhiều kinh nghiệm hoặc trình độ tu chứng cao hơn được giao
cho nhiệm vụ dẫn dắt những người còn non kém, chứ không hề có sự phân biệt một
tầng lớp trưởng lão hay cấp trên trong Tăng đoàn. Tất cả các tỳ-kheo đều
được đối xử bình đẳng như nhau, và tinh thần này vẫn còn được ghi nhận trong
giáo pháp Lục hòa kính.
Trong
rất nhiều trường hợp có những biến động quan trọng đối với Tăng đoàn, đức Phật
cũng chưa bao giờ triệu tập riêng một số vị tỳ-kheo nào đó mà không có sự
hiện diện của các vị khác. Suốt những năm hoằng hóa, ngài luôn xuất hiện giữa
toàn thể đại chúng bao gồm cả hai giới xuất gia và tại gia. Đây chính là sự khác
biệt mang tính đột phá trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, bởi vì tất cả các tôn
giáo khác đều có sự phân chia thành những tầng lớp cao thấp khác nhau trong giới
tu sĩ của họ, nhưng Tăng đoàn Phật giáo thì không hề có việc này. Vì thế, việc
triệu tập riêng một hội đồng gồm 500 vị ngay sau khi đức Phật nhập diệt là một
điều có thể nói là rất khó hiểu.
Càng khó
hiểu hơn nữa khi mục đích của đại hội này là nhằm nhắc lại những giáo pháp mà
đức Phật đã giảng dạy. Vào thời điểm đó, tất cả các vị tỳ-kheo
trong Tăng đoàn đều là những người ít nhiều đã từng được trực tiếp nghe Phật
thuyết pháp. Nếu toàn thể Tăng đoàn được kêu gọi tham gia vào cuộc kết tập này,
ít nhất chúng ta cũng thấy được là sẽ có hai điều lợi ích. Thứ nhất, cho dù
quyền xác nhận và quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các vị tôn túc có nhiều uy
tín nhất trong đại hội, nhưng mỗi người đã từng được nghe Phật thuyết pháp cũng
đều có cơ hội để đóng góp theo trí nhớ về những gì mà họ đã trực tiếp được nghe
từ kim khẩu Phật. Thứ hai, bản thân mỗi vị trong Tăng đoàn cũng đều có được một
cơ hội quý giá để được lắng nghe lần nữa những lời trước đây Phật đã dạy, và như
vậy sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tiếp tục lưu truyền giáo pháp. Như vậy, việc
những người tổ chức cuộc kết tập kinh điển lần này chỉ giới hạn trong số 500 vị
quả thật là khó hiểu!
Một chi
tiết được ghi nhận sau khi cuộc kết tập đầu tiên này kết thúc là ngài
Phú-lâu-na khi ấy mới tìm đến. Chúng ta không biết là vì trước đó ngài đã
không được chọn mời vào hội đồng kết tập hay chỉ vì ngài đang thuyết giáo ở rất
xa không về kịp. Tuy nhiên, khi được nghe kể lại về cuộc kết tập kinh điển, ngài
đã nói: “Mặc dù các vị đã có sự nhắc lại những lời Phật dạy, nhưng tôi sẽ tiếp
tục giáo hóa bằng chính những gì đã được nghe từ đức Phật.”
Sự vắng
mặt của một đại đệ tử quan trọng như Phú-lâu-na cũng như số lượng giới
hạn các vị tỳ-kheo tham gia kết tập cho thấy là đã có dấu hiệu bất đồng.
Mặc dù không có bất cứ ý kiến nào phản đối cuộc kết tập kinh điển này, nhưng
quan điểm “sẽ tiếp tục giáo hóa bằng chính những gì đã được nghe từ đức Phật”
rất có thể không chỉ là của riêng ngài Phú-lâu-na mà còn là của nhiều vị
tỳ-kheo khác đương thời. Vấn đề mà chúng ta cần lưu ý ở đây là, điều đó cho
thấy những kinh điển được kết tập lần đầu tiên này rõ ràng chưa phải là tất cả
những gì đức Phật đã từng truyền dạy.
Tư tưởng
Đại thừa có thể đã nằm trong số những gì được “tiếp tục giáo hóa” mà
không thuộc về số kinh điển đã được kết tập. Và vì chưa có hình thức ghi chép
bằng văn bản, nên ngay cả những gì được kết tập hay không có trong cuộc kết tập
đầu tiên này thì cũng chẳng có gì khác nhau. Tất cả đều bắt buộc phải được giảng
dạy và lưu truyền qua trí nhớ.
Những
phân tích như trên cho thấy có một sự hợp lý nhất định khi vị tăng Đại Thiên
nêu lên những bất đồng về đường hướng tu tập của những người thuộc Thượng tọa
bộ. Những phần giáo lý khác nhau do đức Phật truyền dạy chắc chắn đã được
lưu truyền một cách song hành bởi những đối tượng tu tập khác nhau, và khi mà
các tăng sĩ Tiểu thừa tỏ ra không đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu tu tập
của đại đa số Phật tử thì vai trò của họ tất yếu phải được xem xét lại dưới ánh
sáng của chính những lời Phật dạy.
Cho đến
khi những tư tưởng Đại thừa đủ chín muồi để được thể hiện thành những
kinh văn, vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước và sau Công nguyên, thì lý tưởng tu
tập của người Phật tử được chuyển từ Thánh quả A-la-hán
sang đạo Bồ Tát. Trong khi vị chứng đắc quả A-la-hán được mô tả là người
dứt sạch mọi phiền não, thì vị Bồ Tát lại là người phát nguyện thực hiện việc
cứu độ chúng sinh ngay cả khi chính bản thân mình vẫn còn đang phải chịu đựng
mọi khổ đau, phiền não. Sự khác biệt về lý tưởng tu tập được diễn đạt ngày càng
rõ hơn qua các bản kinh văn Đại thừa xuất hiện ngày càng nhiều hơn.
Nhiều
người cho rằng những kinh văn Đại thừa hoàn toàn do người đời sau trước
thuật và do đó việc gán nó cho đức Phật là không đúng thật. Tuy nhiên, quan điểm
này có lẽ cũng cần cân nhắc lại.
Thứ nhất,
về mặt lịch sử, các nhà nghiên cứu tin rằng họ chỉ xác định được thời điểm xuất
hiện sớm nhất của các kinh văn Đại thừa là vào khoảng thế kỷ thứ nhất
trước Công nguyên. Tuy nhiên, cũng không có một cứ liệu nào cho thấy là trước đó
các kinh văn Đại thừa
đã không hiện hữu dưới hình thức truyền miệng, như đã từng xảy ra ngay cả với
các kinh điển được gọi là “nguyên thủy” trong thời kỳ đầu.
Thứ hai,
về mặt giáo nghĩa, những điều được diễn giảng trong các kinh văn Đại thừa
không phải là những điều hoàn toàn mới lạ, chưa từng được biết. Như chúng ta đã
phân tích trong phần trên, thật ra thì những tư tưởng ấy đã có sự bắt nguồn từ
rất sớm, có thể nói là đồng thời với các kinh văn Tiểu thừa.
Thứ ba,
do điều kiện lịch sử quy định, ngay cả các kinh văn được gọi là “nguyên thủy”
cũng chỉ được ghi chép thành văn bản nhiều thế kỷ sau khi Phật nhập diệt, nhưng
không phải vì điều đó mà người ta nghi ngờ về tính xác thật của nó. Tính nhất
quán và xuyên suốt trong các lời dạy của đức Phật chính là sự bảo chứng cho
những gì được ghi chép trong kinh điển, bởi vì ngoài đức Phật ra thì có thể nói
là không một tác giả nào có thể ngụy tạo được những tác phẩm đồ sộ, sâu xa và
nhất quán đến như thế. Điều này cũng hoàn toàn đúng đối với các bản kinh văn
Đại thừa. Việc ghi chép, diễn đạt là điều mà người ta có thể làm được vào
thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên trở về sau, nhưng việc sáng tạo những tư tưởng,
nội dung trong các bản kinh văn đó thì không một tác giả nào có thể thực hiện
được, trừ khi đó cũng là một vị Phật!
Vì thế
chúng ta có thể tin rằng, cho dù các bản kinh văn Đại thừa chỉ xuất hiện
sớm nhất là từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, nhưng giáo pháp Đại thừa
thực sự đã được chính đức Phật truyền dạy. Vào thời kỳ đầu tiên, giáo pháp
Tiểu thừa tỏ ra phù hợp với nhiều người hơn nên đã được phát triển sớm hơn.
Tuy nhiên, một số đệ tử vẫn âm thầm tu tập và truyền dạy giáo pháp Đại thừa,
cho đến khi niềm tin và các điều kiện xã hội có sự đổi khác và tư tưởng Đại
thừa trở nên phù hợp hơn với nhiều người. Khi ấy họ mới nghĩ đến việc ghi
chép, diễn đạt lại thành các bản kinh văn. Vì thế mà kinh điển Đại thừa
lần lượt ra đời. Mặc dù vậy, những người ghi chép chắc chắn đã hết sức trung
thành với những gì đức Phật truyền dạy, nên chúng ta vẫn có thể nhận ra được
tính chất nhất quán và xuyên suốt trong tất cả các bản kinh văn.
Một số
nhà nghiên cứu đã đi xa hơn khi cho rằng vào thời điểm của lần kết tập kinh điển
thứ nhất, những vị tỳ-kheo
không tán thành đã có sự hội họp riêng và kết tập kinh điển theo trí nhớ của họ
về những giáo pháp đức Phật đã dạy. Nếu quả thật có điều đó, rất có thể là giáo
pháp Đại thừa đã được các vị
tỳ-kheo này kết tập và lưu truyền.
Lần kết
tập kinh điển thứ hai được các vị tỳ-kheo thuộc Thượng tọa bộ tổ
chức vào khi đã có sự phân chia với Đại chúng bộ, với sự tham gia của 700
vị trưởng lão. Ngay sau đó, tại vùng Tỳ-xá-ly
(Vaiśāli), quê hương của vị Bồ Tát cư sĩ Duy-ma-cật, các vị
tỳ-kheo
theo Đại chúng bộ đã tập hợp để thực hiện một cuộc kết tập của riêng họ,
với số lượng lên đến 10.000 vị. Chỉ riêng số lượng này cũng cho thấy họ hoàn
toàn xứng đáng với tên gọi Đại chúng bộ. Vì không tán thành với các vị
thuộc Thượng tọa bộ, nên những kinh điển mà họ kết tập trong lần này rất
có thể chính là những gì sau này được ghi chép lại thành các bản kinh Đại
thừa.
Sự xuất
hiện của Mật tông còn muộn màng hơn cả Đại thừa, vì thế cũng không
sao tránh khỏi ít nhiều những sự hoài nghi về nguồn gốc của nó. Cho đến khi
Đại thừa phát triển mạnh mẽ và được truyền bá rộng rãi khắp nơi thì Mật
tông vẫn chưa xuất hiện như một tông phái độc lập. Những yếu tố sơ khai của
Mật tông có thể được tìm thấy trong Chân ngôn thừa khởi đầu vào
khoảng thế kỷ 4 nhưng chỉ thực sự phát triển vào khoảng đầu thế kỷ 6. Chân
ngôn thừa tiếp tục phát triển tại Ấn Độ với sự xuất hiện của các yếu tố và
hình thức thần bí như Tan-tra, mu-dra, mạn-đà-la... Tuy nhiên, phải đến
nửa sau thế kỷ 8, với sự ra đời của Kim cang thừa thì các yếu tố sơ khai
của Mật tông mới được kết hợp một cách có hệ thống và mở ra một hướng tu
tập mới trong Phật giáo. Kể từ đó, một số lượng lớn các kinh Tan-tra ngày
càng được truyền tụng rộng rãi hơn kèm theo với các chân ngôn, mật chú,
mạn-đà-la...
Thật ra,
niềm tin vào sự huyền diệu, vào thần thông và sự mầu nhiệm bao giờ cũng là một
yếu tố nội tại của Phật giáo, nghĩa là nó xuất hiện ở mọi tông phái khác nhau
của Phật giáo. Tuy nhiên, điều đó chỉ được thừa nhận như một kết quả tu tập thực
tế chứ không phải mục tiêu nhắm đến của người tu tập. Kinh điển Tiểu thừa
thực sự có nhắc đến khả năng chứng đắc thần thông của người tu tập. Kinh điển
Đại thừa có phần tiến xa hơn khi có nhiều đoạn mô tả khá chi tiết về những
năng lực thần thông của các vị Bồ Tát. Mặc dù vậy, đức Phật vẫn thường xuyên
nhắc nhở, cảnh giác các đệ tử rằng thần thông không bao giờ có thể được xem là
mục tiêu của người tu tập.
Tuy
nhiên, khi những tác động tinh thần của giáo pháp ngày càng yếu đi trong hoàn
cảnh lịch sử xã hội Ấn Độ ngày càng trở nên bất lợi, những người Phật tử bình
dân dường như bắt đầu có khuynh hướng trông cậy vào phép mầu để xua tan những
nguy hiểm và có được sự chở che phù hộ. Tất nhiên là giới tăng sĩ cũng không
khỏi quan tâm đến những nhu cầu mới này, và trong chừng mực những gì mà giáo
pháp giảng dạy, họ đã có sự lưu tâm nhấn mạnh và phát triển những yếu tố phù hợp
với khuynh hướng mới.
Trong
thực tế, ngay từ khoảng đầu thế kỷ 4, rất nhiều loại thần chú Man-tra[1][2]
đã thấy xuất hiện trong kinh điển. Những thần chú này cũng được gọi là
Đà-la-ni,[1][3]
bởi vì chúng có mục đích hộ trì hay duy trì đời sống tín ngưỡng. Từ đầu thế kỷ
6, các hình thức huyền bí được vận dụng, như các nghi lễ cũng như những hình
tròn và đồ hình huyền bí. Những hình thức này được dùng để bảo vệ đời sống tâm
linh của các pháp sư – người thực hiện nghi lễ, đồng thời mang lại cho người
bình dân những gì họ mong ước. Phép bắt ấn[1][4]
thường được sử dụng để tăng thêm hiệu lực của những câu thần chú.
Thêm vào
đó còn có những mạn-đà-la,[1][5]
với nét đẹp hài hòa mà cho đến nay vẫn còn hấp dẫn khiếu thẩm mỹ của chúng ta.
Những vòng tròn huyền diệu này, thường được vẽ quanh một điểm linh thiêng hay
thuần khiết về mặt nghi lễ, dĩ nhiên là cũng có nguồn gốc rất xa xưa như các
phép mầu từ thời tiền sử. Tuy nhiên, cách sắp xếp kỳ lạ của Phật giáo trong các
mạn-đà-la
này dường như đã được phát triển ở vùng Trung Á. Các mạn-đà-la diễn tả
những sức mạnh tâm linh và sức mạnh vũ trụ dưới một hình thức huyền bí hay được
nhân hóa, thể hiện những sức mạnh ấy thông qua hình ảnh các vị thần, được trình
bày bằng hình dạng có thể nhìn thấy được, hoặc bằng những ký tự có khả năng gây
ra sự liên tưởng đến các vị thần và những gì tạo thành tính chất huyền bí của họ.
Những
biểu tượng này, nếu được nhận hiểu một cách thích hợp sẽ cho phép chúng ta diễn
đạt được những nỗi lo sợ sâu thẳm trong tâm hồn, những rung động từ thuở sơ khai
và những cảm xúc từ xa xưa. Thông qua chúng, ta có thể liên kết, khống chế và
làm tan biến đi những sức mạnh của vũ trụ, tạo ra được sự chán ghét đối với tất
cả những điều giả tạo của thế giới luân hồi, và đạt đến sự hợp nhất với ánh sáng
tâm thức duy nhất và tuyệt đối.
Những
mạn-đà-la là một hình thức đặc biệt của những đồ hình vũ trụ xa xưa, được
xem như tiến trình thiết yếu phát triển từ một nguyên tắc cốt yếu và xoay quanh
một trục trung tâm là núi Tu-di.
Những đồ
hình như vậy không những được tái tạo trong các mạn-đà-la, mà còn có ở
những loại bình dùng trong nghi lễ, ở những cung điện hoàng gia, ở các bảo tháp
và đền thờ. Nhờ sự tương đồng giữa vũ trụ rộng lớn và tiểu vũ trụ trong con
người mà mô hình của vũ trụ được tái hiện trong mỗi cá nhân, với tâm thức cũng
như xác thân có thể được xem như là một mạn-đà-la, là bối cảnh của sự tìm
cầu giác ngộ.
Cấu trúc,
sự thiết kế những mạn-đà-la, và sự liên tưởng đến các thần linh đều được
khống chế một cách tự nhiên bởi những quy tắc nghiêm ngặt và nghi thức hành lễ
được xác định rõ.
Sự bộc
phát sáng tạo của những Tan-tra
đầu tiên đã dẫn đến một sự xuất hiện rối loạn của vô số những giả thuyết về các
sức mạnh vũ trụ và tâm linh, và chính Kim cang thừa là bộ phái đã áp đặt
trật tự sắp xếp cho khối lượng khổng lồ những truyền thống mới hình thành đó. Bộ
phái này chấp nhận việc phân chia tất cả sức mạnh vũ trụ thành năm phần, mỗi
phần thuộc về một trong 5 đức Như Lai. Đó là các vị Đại Nhật Như Lai,
A-súc-bệ Như Lai, Bảo Sinh Như Lai, A-di-đà Như Lai và Bất
Không Thành Tựu Như Lai.
Tiếp
theo đó là một hệ thống phức tạp và rất chi tiết của những mối tương quan huyền
bí, sự xác định, biến đổi và chuyển hóa, liên kết tất cả những sức mạnh và sự
kiện trong vũ trụ với 5 phần này. Thân thể con người được đặc biệt xem như một
tiểu vũ trụ, là biểu hiện của toàn thể vũ trụ, và là phương tiện để nhận thức
chân lý, chủ yếu là nhờ vào những phương pháp đã hình thành nên một phần của môn
Du-già Hatha ngày nay ở Ấn Độ.
Chúng ta
được nghe nói nhiều về bản chất tương đồng giữa những gì nhìn thấy, nghe biết và
sờ mó được, và tất cả mọi pháp môn tu tập đều được thực hiện nhằm hợp nhất được
những sức mạnh của tâm ý, lời nói và thân thể (thân, khẩu, ý), hướng đến
mục đích nhận ra được trạng thái rốt ráo của sự hoàn tất, hay chính là sự
giác ngộ.
Kim cang
thừa khi ấy được xác định rất rõ ràng như là một “phương
thức sống giúp người tu sử dụng được mỗi một hoạt động của thân, khẩu và ý đều
như là phương tiện giúp cho sự tiến đến giác ngộ”, và như vậy thật đáng ngạc
nhiên là rất gần gũi với Thiền tông.
Tuy
nhiên, ý nghĩa chân thật của Kim cang thừa không phải lúc nào cũng dễ
dàng nhận ra được, bởi vì ở đây đã hình thành một thông lệ là, đưa cái cao nhất
vào trong hình thức thấp nhất, làm cho cái linh thiêng nhất trở thành tầm thường
nhất, cái siêu việt nhất trở thành trần tục nhất, và tri thức chân chánh nhất
được che giấu bởi những nghịch lý kỳ lạ nhất. Đây là một cách đối trị có dụng
tâm với sự tri thức hóa quá độ của Phật giáo vào thời đó. Việc dùng đến
rất nhiều hình ảnh gợi dục đặc biệt có dụng ý đánh thức thái độ nghiêm khắc quá
đáng của tăng sĩ đối với mọi vấn đề liên quan đến tính dục. Sự giác ngộ, kết quả
sự kết hợp giữa trí huệ và phương tiện thiện xảo, được trình bày
bằng sự hợp nhất nam và nữ trong khoái cảm tình dục. Sự hợp nhất cả hai trong
trạng thái giác ngộ là niềm hạnh phúc không thể diễn đạt.[1][6]
Dưới
triều đại Pāla, những trung tâm mới được thành lập ở miền Đông Ấn, đặc
biệt là Vikramasila và Odantapuri. Những trung tâm này, cùng với
Jaggadala và Somarupa
là những trung tâm điểm mà từ đó văn hóa Phật giáo lan tỏa ra khắp châu Á trong
suốt từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 12.
Sức phát
triển của bộ môn Tantra tại Ấn Độ thiên về tâm lực xảy ra đồng thời với
mối đe doạ hủy diệt ngày một lớn ở biên giới tây bắc Ấn Độ. Ngay từ đầu thế kỷ
8, khi thế lực hùng mạnh của người Ả Rập trải dài từ Morocco đến xứ
Sindh (Pakistan) thì tại Ấn Độ, phần lớn những người kế vị đế quốc
vinh quang Gupta
lại bận rộn với cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, và nền văn hoá Ấn Độ bắt
đầu đi vào thời kỳ suy sụp.
Cho đến
khi quân Hồi tiến hành cuộc chiến tranh ở Trung Á thì pháp môn Tantra
càng tiếp tục gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, đặc biệt là ở Oddiyana thuộc
khu vực ranh giới đông bắc Ấn Độ. Tại đây, triều đại Phật giáo Pāla đang
thời cực thịnh.
Gần 4
thế kỷ trôi qua – kể từ giữa năm 711, khi xứ Sindh bị xâm lược, cho đến
thế kỷ 12 – giáo pháp của Đức Phật Thích-ca
dần dần suy yếu do ảnh hưởng của chiến tranh và sự hỗn loạn trong xã hội.
May thay, trong suốt thời kỳ này, các vị đạo sư Tây Tạng đã kịp thời nắm bắt
tinh tuý của các Tantra Phật giáo, và các kinh điển Mật tông chính
yếu đều được dịch sang tiếng Tây Tạng, nhờ vậy đã tránh được sự thất truyền khi
các đại tu viện và thư viện của Ấn Độ bị đốt phá.
Khi thủ
phủ Java trở thành thuộc địa thì đồng thời một đại tu viện được xây dựng
ở Borobohur. Mặc dù những thành quả nghệ thuật ở quê nhà bị quân Hồi hủy
diệt, nhưng các kinh điển Mật tông của đế quốc Pāla (gồm
Bengal, Bihar, Orissa và Assam ) vẫn được bảo tồn.
Các di
tích đền đài tu viện do các hoàng đế triều đại Pāla xây dựng đã chứng
minh giá trị nghệ thuật tuyệt vời dưới ảnh hưởng của Mật tông. Nền nghệ
thuật chịu ảnh hưởng đậm nét của các Tantra đã miêu tả những đặc điểm của
nền văn minh Ấn Độ thuộc thời kỳ này. Vào thời ấy, đã có những con người được
xem là biểu trưng cho đặc tính, mục đích và lý tưởng của một nền văn hoá; họ là
động cơ, là lực lượng điều hướng những năng lực đầy sáng tạo để làm chuyển biến
cả một dân tộc và thay đổi nền móng xã hội Ấn Độ; họ là những mẫu mực để mọi
người noi theo và là những ngôi sao sáng trên bầu trời huyền thuật của
pháp môn Tantra. Những con người ấy được tôn vinh là các vị Tất-đạt
(Siddha) hay Đạo sư , cũng được gọi là các vị Thành tựu giả.
Như vậy,
trong thực tế thì Mật tông đã phát triển khá hoàn chỉnh tại Ấn Độ trước
khi truyền sang Tây Tạng. Và nền tảng giáo lý của Mật tông cũng chính là
những phần giáo pháp đã được truyền dạy trong các kinh điển Đại thừa.
Điều này giải thích vì sao tất cả các bậc đạo sư của Mật tông luôn có
những phong cách rất gần gũi với các vị tăng sĩ Đại thừa, và những mật
hạnh của họ tuy có khác nhau nhưng cũng đều xuất phát từ ý nghĩa hoằng hóa độ
sinh của Bồ Tát hạnh. Truyền thuyết ghi nhận ít nhất là 84 vị đạo sư
Mật tông tại Ấn Độ, được gọi là các vị Chân sư Đại thủ ấn
(Mahamudra). Sự nghiệp hoằng hóa của các vị tuy mang đậm những nét huyền
thuật nhiệm mầu, nhưng cũng đồng thời tỏa sáng tinh thần vị tha, bất vụ lợi và
đức hy sinh cao cả. Một số trong các vị chính là những người đã có công truyền
bá Phật giáo sang Tây Tạng.
Sự phát
triển của nền văn hóa Tây Tạng nói chung và Phật giáo Tây Tạng nói riêng có
những nét đặc biệt mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. Vì thế,
việc tìm hiểu về những nét đặc thù này có thể sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn đôi
chút trong việc tiếp nhận những phần giáo lý độc đáo của Mật tông Tây Tạng.
Chúng ta
không biết gì nhiều về những thời điểm sớm hơn, nhưng có một cột mốc quan trọng
được ghi lại chính xác trong lịch sử Trung Hoa là vào năm 641, tức năm Trinh
Quang thứ 15 đời nhà Đường, vua Đường Thái Tông đã gả công chúa Văn Thành cho
vua Tây Tạng, lúc bấy giờ được người Trung Hoa gọi là nước Thổ Phồn.
Vị công
chúa này là một người có học vấn và là một Phật tử thuần thành. Một người vợ
khác của vua Tây Tạng là công chúa Ba-lợi-khố-cơ
của nước Ni-bạc-nhĩ cũng là một người có học thức. Cả hai người đã đưa ra
những lời khuyên giá trị giúp vua Tây Tạng phát triển văn hóa đất nước. Ông đã
cử người sang Ấn Độ và Trung Hoa để thỉnh các vị tăng sĩ Phật giáo đến Tây Tạng
truyền pháp (khoảng năm 650), đồng thời cũng cử một phái đoàn gồm 18 người do
quan đại thần là Đoan-mỹ-tam-bồ-đề
(Thon-mi-sandhota) dẫn đầu sang Ấn Độ du học. Khi những người này học
xong trở về Tây Tạng, họ đã dựa theo chữ viết tiếng Phạn (Devanāgari) để
chế tác ra chữ viết riêng cho Tây Tạng, và ngay sau đó sử dụng loại chữ viết mới
này để tiến hành việc phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ. Chính đức
vua Tây Tạng cũng nêu gương học tập cách viết loại chữ mới này, và vì thế nó
nhanh chóng được phổ cập trong toàn xã hội.
Sự hình
thành một loại chữ viết mới và sử dụng vào việc phiên dịch kinh điển là một quá
trình phải mất nhiều thế kỷ ở các quốc gia khác, nhưng lại chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn ở Tây Tạng. Đây quả là một điều ít có và dễ làm cho người ta phải
kinh ngạc đến độ hoài nghi.[1][7]
Khoảng
hơn nửa thế kỷ sau đó, vào năm 710, tức năm Cảnh Vân thứ nhất đời nhà Đường, vua
Đường Duệ Tông lại gả công chúa Kim Thành cho vua Tây Tạng đời thứ 35 là
Khí-lệ-súc-tán. Vị công chúa này tiếp tục mang đến Tây Tạng nhiều kinh thư,
sách vở của Trung Hoa, và thông qua đó người Tây Tạng đã học hỏi được rất nhiều
từ nền văn hóa lớn này.
Năm 787,
ngôi chùa đầu tiên của Tây Tạng được xây dựng hoàn thành ở Bsam-yas, có
tên là chùa Tang-duyên (Samye),[1][8]
nằm về phía đông nam của thủ đô Lhasa. Đây là nơi ngài Tịch Hộ (Śāntarakşita),[1][9]
một vị cao tăng Ấn Độ đến hoằng hóa trong suốt 13 năm sau đó, theo lời mời chính
thức của vua Tây Tạng là Ngật-lật-sang Đề-tán (Trhisong Detsen).
Không
bao lâu sau khi chùa Tang-duyên được xây dựng hoàn thành, những vị tăng
sĩ Tây Tạng đầu tiên được thọ giới với ngài Tịch Hộ. Nhiều ngôi chùa khác tiếp
tục được xây dựng ở khắp nơi, nhiều cao tăng được mời từ Ấn Độ sang, chữ viết
Tây Tạng được sử dụng để phiên dịch rất nhiều kinh điển. Mặc dù chỉ phát triển
trong một thời gian ngắn và xúc tiến với tốc độ khá nhanh, nhưng công việc này
đã được thực hiện một cách vô cùng thận trọng và nghiêm túc. Có những nỗ lực rất
lớn để đảm bảo tính chính xác cho các bản dịch, và các thuật ngữ được tiêu chuẩn
hóa vào khoảng năm 835 bởi một ủy ban gồm những học giả Ấn Độ (Pandit) và
các nhà thông thái Tây Tạng (Lotsaba). Các tiêu chuẩn học thuật được công
bố rộng rãi qua việc phát hành quyển sách Mahāvyutpatti
để hướng dẫn cho những người tham gia dịch thuật kinh điển. Vào triều đại của
vua Khri-ral-pa-can (817-836), ảnh hưởng của Phật giáo phát triển đến
đỉnh điểm cao nhất.
Với sự
ủng hộ của triều đình, Phật giáo đã đẩy lùi một cách nhanh chóng những ảnh hưởng
của tôn giáo bản địa là đạo Bon
để chiếm ưu thế và phát triển mạnh mẽ. Mặc dù vậy, nếu phân tích một cách khách
quan thì tính chất ưa chuộng huyền thuật hay phép mầu, thần thông của người dân
Tây Tạng có phần nào đó là do ảnh hưởng lâu đời của đạo Bon để lại. Ảnh
hưởng này sẽ tiếp tục ngấm ngầm chi phối người Tây Tạng trong việc tiếp nhận các
luồng tư tưởng Phật giáo khác nhau.
Trong
suốt giai đoạn phát triển đầu tiên của Phật giáo, Tây Tạng đã tiếp nhận ít nhất
bốn luồng tư tưởng khác nhau trong những điều kiện hoàn toàn đặc thù của đất
nước này.
Luồng tư
tưởng thứ nhất đến từ phía tây, vùng thung lũng Swat. Đây là những tư
tưởng Tan-tra của ngài Padmasambhava, thường được biết hơn với
danh xưng là Đại sư Liên Hoa Sanh. Ngài được vua Tây Tạng cho người đến
thỉnh từ xứ Udyāna (Ô-trượng-na) thuộc miền Bắc Ấn Độ. Ngài là một
vị đạo sư tinh thông Mật tông, đã nhận lời thỉnh cầu của vua Tây Tạng và
đến nước này cùng với 25 vị đệ tử, tương truyền là để đẩy lùi những cơn dịch
bệnh quái ác vào lúc đó đang hoành hành tại Tây Tạng.
Tinh
thần Mật tông do ngài Liên Hoa Sanh mang đến cùng với những
Tan-tra, Đà-la-ni... rõ ràng là có sự gần gũi đáng kể với đạo Bon, và
ngài đã thành công vượt bực ở Tây Tạng. Những câu chuyện kể về ngài được người
dân Tây Tạng truyền tụng mãi đến nay luôn gắn liền với những phép thần thông
diệu dụng mà ngài đã hiển lộ, nhưng trên tất cả là đức từ bi và tinh thần vị tha,
vô ngã trong sự giáo hóa của ngài. Theo suy đoán thì có lẽ ngài đã truyền dạy
một hệ thống giáo pháp thuộc Kim cang thừa, nhưng ngày nay chúng ta không
thể biết chính xác là như thế nào. Ấn tượng mà ngài tạo ra đối với Tây Tạng phần
lớn là nhờ vào việc thực hiện những phép mầu, và những huyền thoại để lại về
ngài có thể là đã vượt quá những sự kiện lịch sử. Ngài là người sáng lập tông
phái Nyingma (Ninh-mã), ngày nay vẫn còn tồn tại và được gọi là
Cổ phái vì tính chất cổ xưa nhất của nó.
Luồng tư
tưởng thứ hai đến từ phía nam, là sự tổng hợp các tư tưởng Đại thừa của thời đại
Pāla do một số học giả hàng đầu của các đại học ở Ma-kiệt-đà truyền đến. Sự kết
hợp hệ tư tưởng Bát-nhã với Tan-tra đã trở thành truyền thống trung tâm của Phật
giáo Tây Tạng, và nhiều lần được đổi mới mãi cho đến nay. Dòng tư tưởng này xoay
quanh bộ Hiện quán trang nghiêm luận,
một tác phẩm của Ấn Độ vào thế kỷ 4, sắp xếp nội dung bộ Bát-nhã Ba-la-mật-đa
thành 25.000 cặp câu theo thể kệ, thành một bảng kê rõ ràng có đánh số để có thể
ghi nhớ được, như là bước đầu tiên trong việc thiền quán về bộ kinh này, và đồng
thời cũng diễn giải theo tinh thần của Trung quán tông với một sự dung hợp cùng
truyền thống ôn hòa hơn của Duy thức tông.
Vốn đã
được chú giải rất nhiều ở Ấn Độ từ trước đó, nên khi truyền đến Tây Tạng thì bộ
Hiện quán trang nghiêm luận trở thành nền tảng căn bản nhất cho sự đào luyện
những tư tưởng cao hơn không thuộc hệ thống Tan-tra, và rất nhiều chú
giải cho bộ luận này đã được các học giả Tây Tạng biên soạn.
Luồng tư
tưởng thứ ba đến từ phía tây nam là của phái Nhất thiết hữu bộ. Từ rất
sớm, theo lời mời của nhà vua, bộ phái này đã từ Ấn Độ đến Tây Tạng và có xây
dựng một tu viện. Nhưng sự có mặt của họ không bao lâu đã trở nên mờ nhạt vì dân
chúng Tây Tạng không mấy người quan tâm đến những giáo lý thiếu vắng yếu tố phép
mầu, thần thông.
Mặc dù
không thể duy trì sự hiện diện lâu dài trong một thế giới của những pháp thuật
và sự mầu nhiệm, nhưng Nhất thiết hữu bộ cũng tạo được một ảnh hưởng đáng
kể đối với tư tưởng của Tây Tạng, bởi vì kinh văn của bộ phái này gần như là
phiên bản duy nhất của kinh điển Phật giáo thuộc thời kỳ trước kia đã được đưa
vào trong số những kinh điển phiên dịch sang tiếng Tây Tạng.
Luồng tư
tưởng thứ tư đến từ phía đông, do các thiền sư Trung Hoa truyền sang. Các vị này
đã có rất nhiều nỗ lực để giáo hóa dân chúng ở đây theo giáo lý Thiền tông.
Nhưng không bao lâu họ đã gặp phải sự bất đồng với những học giả chính thống của
Ấn Độ theo khuynh hướng Pāla và bị thất bại hoàn toàn. Sau đó, họ bị buộc
phải rời khỏi Tây Tạng hoặc một số ít đi vào hoạt động không công khai, vì thế
không tạo được mấy ảnh hưởng đối với Phật giáo Tây Tạng.
Sự dung
hợp và tiếp thu các luồng tư tưởng theo khuynh hướng đặc thù của người dân Tây
Tạng đã nhanh chóng tạo thành một nền Phật giáo Tây Tạng mang đậm màu sắc của
những huyền thuật và phép mầu. Vì thế, bất chấp những ảnh hưởng có thật của Phật
giáo Đại thừa, từ khởi nguyên đến nay Phật giáo Tây Tạng vẫn luôn được
xem như thuộc về Mật tông.
Tuy
nhiên, sự phát triển nhanh chóng của Phật giáo tại Tây Tạng không bao lâu đã gặp
phải một giai đoạn bất lợi kể từ năm 836, khi vua Tây Tạng đời thứ 39 là
Lang-dar-ma (836-842) lên ngôi.
Vị vua
này là một tín đồ thuần thành của đạo Bon, nên sau khi lên ngôi ông đã ra
sức làm tất cả mọi việc để tiêu diệt Phật giáo.
Thật là
một sự trùng hợp tình cờ khi chỉ mấy năm sau đó, tại Trung Hoa cũng xảy ra tình
trạng đàn áp, hủy diệt Phật giáo. Đó là vào năm 845, tức niên hiệu Hội Xương thứ
5, vua Đường Vũ Tông ban sắc lệnh hủy hoại các nơi thờ Phật, có đến hơn 1.600
ngôi chùa lớn đã bị phá hủy, bức bách các vị tăng ni phải hoàn tục, có đến hơn
260.000 vị... Vua còn sai thu gom và đốt hết kinh điển đạo Phật, đập phá tượng
Phật, tịch thu ruộng đất nhà chùa, thu gom các chuông đồng, khí cụ trong nhà
chùa về nấu chảy thành đồng dùng để đúc tiền và nông cụ...
Lại cũng
như một sự tương hợp tình cờ, sau pháp nạn Đường Vũ Tông phá Phật thì nhà Đường
ngày càng lâm vào cảnh suy vi, u ám và loạn lạc, đến năm 907 thì bị Chu Toàn
Trung diệt mất mà lập ra nhà Hậu Lương. Trong khi đó thì tại Tây Tạng tình trạng
cũng không sáng sủa gì hơn, đất nước lâm vào cảnh phân chia manh múm giữa các
thế lực đối nghịch, loạn lạc kéo dài đến cuối thế kỷ 10. Phật giáo Tây Tạng gần
như bị đàn áp và tiêu diệt hoàn toàn trong giai đoạn này, và phải đợi đến sang
đầu thế kỷ 11 mới được khôi phục.
Tình
trạng đàn áp Phật giáo diễn ra được 6 năm thì vua Lang-dar-ma bị một vị
Lạt-ma
dùng cung tên bắn chết vào năm 842. Mặc dù vậy, cái chết của ông càng đẩy Tây
Tạng đi sâu vào tình trạng rối rắm do các thế lực tranh giành quyền lực. Ngay
trong dân chúng, những kẻ có sức mạnh cũng tập hợp nhau hùng cứ mỗi người một
nơi, khiến cho toàn cõi Tây Tạng bị chia năm xẻ bảy, làm cho đời sống người dân
trở nên cực kỳ khốn khó. Mặt khác, triều đình đương thời vẫn tiếp tục thẳng tay
đàn áp Phật giáo bằng cách giết hại tăng sĩ hoặc buộc họ phải đi làm thợ săn, đồ
tể; nghiêm cấm việc dịch kinh và thu gom đốt phá tất cả những bản kinh đã dịch...
Nhưng sự
đàn áp của triều đình Tây Tạng không bóp chết được niềm tin mãnh liệt đã được
gieo cấy vào lòng người dân Tây Tạng. Vì thế, sau một thời gian dài khi có sự
thay đổi về mặt chính trị và sự đàn áp không còn nữa thì ở những vùng xa xôi
nhất về phía đông và phía tây, những người Phật tử bắt đầu nghĩ đến việc chấn
hưng Phật giáo. Họ tìm cách tái lập mối quan hệ với
An Độ và Kashmir là những nơi mà Phật giáo vẫn còn phát triển. Một
số người Tây Tạng tự mình tìm đến các vùng này để mời thỉnh các vị tăng sĩ sang
truyền pháp.
Một
trong số những người đã có công rất lớn trong việc chấn hưng Phật giáo Tây Tạng
vào giai đoạn này là Rin-chen Bzangpo (958-1055). Ông không chỉ là một
dịch giả tài ba mà còn là một người xây dựng rất nhiều đền chùa và tự viện ở
miền tây Tây Tạng. Bản thân ông đã sang Ấn Độ theo học lần lượt với 70 vị danh
tăng. Khi về nước, ông còn mời thỉnh được nhiều vị theo đến Tây Tạng để hỗ trợ
cho công việc chấn hưng Phật giáo, như các vị Tức-la-đạt-sá-la-phạm-hạnh
(Sraddhākaravarman), Ba-địch-ma-sát-la-cấp-đa
(Padmakaragupta), Phật-đà-tức-lợi-tân-đa
(Buddhāsīsānta), Phật-đà-ba-la (Buddhapata),
Cưu-ma-la-cấp-đa (Kamalagupta)... Các vị này đều là những tăng sĩ
tài ba có học lực uyên bác. Họ mang theo đến Tây Tạng nhiều bộ luận và đặc biệt
là rất nhiều kinh điển Mật tông. Trong giai đoạn này có bộ kinh Nhất
Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương
được dịch sang Tạng ngữ. Những yếu tố thiên về Mật tông trong giai đoạn
này càng góp phần làm cho hầu hết các tông phái Phật giáo ở Tây Tạng được hình
thành về sau đều mang đậm sắc thái của Mật tông.
Có một
sự kiện mang tính quan trọng quyết định là việc ngài A-đề-sa
(Atişa
- 982-1054) rời khỏi chùa Vikramaśīla (chùa Siêu Giới) ở Bihār
(miền Bắc Ấn Độ) để đến Tây Tạng. Sự giáo
hóa của ngài đã thành lập nền Phật giáo Đại thừa theo kiểu Pāla ở
miền trung Tây Tạng.
Năm
1076, một cuộc kết tập kinh điển lớn diễn ra ở Tho-ling, miền tây Tây
Tạng, nơi các vị Lạt-ma từ khắp nước Tây Tạng tụ họp về. Đây có thể xem
là cột mốc quan trọng đánh dấu sự thiết lập của Phật giáo tại Tây Tạng.
Hoạt
động của ngài A-đề-sa không chỉ giới hạn trong việc tái lập Phật giáo
trên khắp nước, mà còn sáng tạo cả một hệ thống tính toán niên đại, cho đến nay
vẫn còn được sử dụng ở Tây Tạng. Hệ thống này xác định mỗi năm theo vị trí của
nó trong một chu kỳ 60 năm, được thiết lập từ sự kết hợp năm yếu tố là kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ, cùng với 12 biểu tượng bằng những con vật: Tuất, Hợi,
Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân và Dậu. Vì thế, trong
phần truyện kể về các vị đại sư tái sinh, chúng ta sẽ bắt gặp những cách diễn
đạt thời gian như năm Kim Tuất, năm Mộc Hợi... có phần khác lạ so
với lịch pháp Trung Hoa mà ta vẫn quen dùng như Giáp Tý, Ất Sửu...
Một
trong những khó khăn của giáo lý Phật giáo là có quá nhiều giáo pháp và phương
thức thực hành, nhiều đến nỗi rất cần phải có một sự hướng dẫn và phân loại.
Ngài A-đề-sa
đã giải quyết khó khăn này qua tác phẩm “Minh đăng thánh đạo” (Ngọn đèn
chiếu sáng con đường đi đến giác ngộ, cũng thường được gọi là Bồ-đề đạo đăng
luận), trong đó ông phân biệt những phương thức thực hành dựa theo ba trình
độ phát triển tâm linh. Mức độ thấp nhất là những người muốn tìm cầu hạnh phúc
trong thế gian này và chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Mức độ thứ hai là
những người cũng nghĩ đến lợi ích của riêng mình, nhưng khôn ngoan hơn nên chọn
một cuộc sống đời đạo đức và tìm cầu sự trong sạch. Mức độ cao nhất là những
người trong tâm đã giải thoát được tất cả. Nhưng tác phẩm này chỉ phát huy được
tối đa hiệu quả của nó vào khoảng 300 năm sau với sự xuất hiện của ngài
Tông-khách-ba.
Sự hình
thành của các tông phái Phật giáo Tây Tạng diễn ra trong khoảng 400 năm, do
chính người Tây Tạng thành lập và có sự điều chỉnh thích hợp theo với những điều
kiện tinh thần và xã hội của Tây Tạng. Vì thế, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên
khi thấy rằng hầu hết đều mang đậm màu sắc của Mật tông. Qua những gì
được trình bày sơ lược ở trên, ta đã thấy là các yếu tố huyền thuật, phép mầu
hay thần thông đã từng gắn bó lâu dài với người dân Tây Tạng như thế nào.
Các vị
Tổ sư khi thành lập mỗi một tông phái đều thể hiện những nét siêu việt, xuất
chúng của mình về một trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống tâm linh
phong phú của Phật giáo Tây Tạng. Các tông phái có sự khác nhau về phương thức
tổ chức tự viện, về y phục, về các vị thần bảo hộ, cách giải thích về Bản sơ
Phật,[1][11]
hoặc về phương pháp thiền định v.v... Tuy nhiên, họ luôn có sự tác động lẫn nhau,
và cũng có cả nhiều sự vay mượn lẫn nhau.
Trước
khi nói đến các tông phái chính của Phật giáo Tây Tạng được thành lập vào giai
đoạn sau này, chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về phái Nyingma (Ninh-mã),
tông phái cổ xưa nhất của Phật giáo Tây Tạng, được thành lập từ thời của Đại sư
Liên Hoa Sinh.
Trải qua
suốt một thời gian dài bị đàn áp dã man, sự tồn tại của phái Nyingma quả
là điều hết sức kỳ diệu. Rất có thể là nhiều người trong tông phái này đã phải
giả dạng như các giáo sĩ đạo Bon, hoặc lẫn trốn trong những vùng núi rừng
hoang vắng. Mặt khác, khi nghiên cứu về giáo lý của tông phái này, chúng ta cũng
không thể biết chắc được những phần nào là được phát triển trong giai đoạn sau
này, và những phần nào là do chính ngài Liên Hoa Sanh truyền dạy từ trước
đó.
Tông
phái này phân chia truyền thống giáo lý thành hai phần. Những lời dạy rõ nghĩa (hiển
giáo) được truyền dạy bởi các vị tăng Ấn Độ, và những “mật tạng” là
kinh điển bí mật được ngài Liên Hoa Sanh
hoặc đức Phật Bản Sơ cất giữ, được gọi là các Terma. Từ năm 1150
đến 1550, một số lượng đáng kể những kinh điển thuộc loại bí mật này được khai
quật, và sự khám phá ra những kinh điển này rất có thể được xem là lý do của
những cải cách về tín ngưỡng. Chính bản tiểu sử của ngài Liên Hoa Sanh
hiện nay cũng là được khám phá
vào khoảng năm 1350. Tuy nhiên, rất nhiều kinh điển bí mật loại này quả thật lưu
giữ trong đó những truyền thống rất cổ xưa, như được thấy rõ nhất là trong cuốn
Tử thư[1][12]
nổi tiếng.
Về giáo
pháp, phái Nyingma (Ninh-mã) phân biệt có 6 loại kinh
nghiệm trung gian, hiểu theo nghĩa là chúng nằm đâu đó ở khoảng giữa, một
bên là thế giới giác quan bình thường này, và bên kia là cảnh giới tâm
linh thuần túy của Niết-bàn. Ba kinh nghiệm đầu tiên là:
1.
Trong bào thai, kéo dài nhiều tháng trước khi sinh ra.
2.
Trong một số những giấc mơ có sự kiểm soát của tâm thức.
3.
Trong trạng thái hoàn toàn xuất thần.
Với 3
kinh nghiệm còn lại, ý nghĩa trung gian còn được hiểu thêm là vì chúng
xảy ra trong khoảng thời gian giữa sự chết và sự tái sinh vào đời sống mới, được
cho là kéo dài trong 49 ngày. Trong thời gian đó, thân xác bằng xương thịt thông
thường này được thay thế bằng một loại thân xác rất tinh tế. Cuốn Tử thư
đã mô tả rất tỉ mỉ một số chi tiết các hình ảnh rất có thể sẽ hiện ra với những
ai hiểu biết nhiều về truyền thống tu tập trong suốt thời gian đó. Tác phẩm này
còn giữ lại được một số kiến thức cổ xưa của thời kỳ đồ đá về đời sống sau khi
chết, và cho thấy những điểm giống nhau đáng kinh ngạc với những truyền thống
khác được tìm thấy trong các văn bản cổ của Ai Cập, Ba Tư và Thiên Chúa giáo.
Phái
Nyingma
(Ninh-mã) khác biệt với các tông phái khác ở điểm là họ sử dụng ngay cả
những yếu tố thường bị chê bỏ. Chẳng hạn như sự sân hận và dục vọng, và ngay cả
xác thân nhục dục vốn bị xem là sự ngăn trở, nguồn gốc của tội lỗi, đã được tông
phái này sử dụng như những phương tiện để làm phong phú hơn nữa cho đời sống tâm
linh. Nói chung, những tư tưởng của họ đều phù hợp với quan điểm Tan-tra
được cải tiến ở Ấn Độ.
Trình tự
công phu của tông phái này như sau:
1.
Sự sáng tạo tinh thần của các vị hộ pháp, nhờ vào sự trợ lực
của các man-tra, các hình ảnh tưởng tượng, và các vị không hành nữ
(dākinī).[1][13]
2.
Sự kiểm soát được thân xác bí ẩn, gồm các mạch máu, tinh dịch
.v.v...
3.
Sự nhận thức được bản tánh chân thật của tự tâm.
Bồ Tát
Phổ Hiền (Samantabhadra), một vị Bồ Tát hóa thân rất gần gũi với đức Phật
Đại Nhật, là nguồn hiển lộ cao cả nhất của giai đoạn thứ ba. “Chân như, bao
gồm cả tự thân, về bản chất không phải là sự trói buộc, tại sao phải tự mình tìm
cách thoát khỏi sự trói buộc? Chân như vốn không lừa dối, tại sao lại tìm kiếm
chân lý từ bên ngoài?” Vì vậy, sự kiềm chế bị phủ nhận trong những nguyên
tắc đạo đức Phật giáo. Một người hoàn thiện về mọi mặt không hề kiềm chế
dục vọng, sân hận... mà chỉ chuyển hóa
chúng một cách thích hợp.
Trong
những phần giáo lý cao nhất, phái Nyingma (Ninh-mã) tỏ ra rất gần
gũi với Thiền tông, theo đó hình thức cao nhất của Du-già hàm chứa
việc nhận ra được bản tánh chân thật của tự tâm. Cũng giống như Thiền
tông, tông phái này nói đến sự giác ngộ với ý nghĩa có phần nào khác với các
nhà Phật học Ấn Độ. Họ tin rằng một người đã đạt đến Niết-bàn ngay tại
nơi này và trong hiện tại, với mọi hành vi đã thoát ra ngoài nhân quả thì có thể
làm tan biến xác thân của mình vào một vệt sáng cầu vồng.
Tông
phái Nyingma (Ninh-mã) tập trung nhiều vào phần giáo lý bí
truyền và sự chứng ngộ tự thân, nghiêng về trực giác nội tâm hơn là những tri
thức có thể truyền đạt được. Mãi cho đến thời gian cách đây chừng một thế kỷ,
tông phái này không hề có những sự nghiên cứu học thuật nào theo kiểu phái
Gelugpa (Cách-lỗ,
tức Hoàng phái, vì họ luôn sử dụng y phục màu vàng). Nhưng gần đây đã
có một vài nơi thực hiện việc này, do sự ảnh hưởng của các tông phái khác.
Phái
Nyingma
(Ninh-mã) có ảnh hưởng rất lớn đối với dân chúng, nên phần lớn các tông
phái khác đều kính nể họ. Chẳng hạn, khi những người thuộc phái Gelugpa
muốn tiên đoán tương lai, thường họ không tự làm điều đó mà nhờ đến một nhà sư
tiên tri của phái Nyingma (Ninh-mã).
Phái
Nyingma
đã hấp thụ rất nhiều yếu tố của đạo Bon, và chính trong tông phái này
Phật giáo và đạo Bon tiếp tục có sự tác động qua lại.
Tiếp
theo đây, chúng ta sẽ lần lượt đề cập đến các tông phái khác, được hình thành
vào giai đoạn sau này và hầu hết đều có ít nhiều chịu ảnh hưởng sự giáo hóa của
ngài A-đề-sa.
Trước
hết là phái Kadam (Cam-đan) do một đệ tử của ngài A-đề-sa
là ngài Gyalwa Dromtonpa
thành lập vào khoảng năm 1050. Tên gọi của tông phái này hàm nghĩa là họ tuân
theo những lời chỉ dạy của A-đề-sa, như được trình bày trong cuốn sách
của ông về “phương thức đạt đến giác ngộ”. Tông phái này tiêu biểu cho
truyền thống trung tâm của Phật giáo Tây Tạng, và tạo thành mối liên hệ giữa các
học giả An Độ trong thời kỳ đầu
với phái Gelugpa, tông phái giữ quyền cai trị Tây Tạng sau năm 1400. Họ
rất chú ý đến đạo hạnh và giới luật, giữ gìn phạm hạnh[1][14]
một cách nghiêm khắc. Tông phái này đã sản sinh ra nhiều bậc thánh giả uyên bác.
Một phái
lớn khác nữa là Ca-nhĩ-cư (Kagyu) do ngài Marpa Lotsawa
(1012-1097) sáng lập, có một quan hệ chặt chẽ hơn nhiều với đời sống của
giới quần chúng bình dân. Trải qua sự thử thách của thời gian, tông phái này đã
dần dần trở thành một tông phái mang đậm bản sắc Tây Tạng nhất so với tất cả các
tông khác. Thường họ không thành công nhiều trong việc nắm giữ hoặc chi phối các
quyền lực xã hội như các phái Śākya (Tát-ca) và
Gelugpa. Trong việc tu tập, phái này không nhấn mạnh những kiến giải về
lý thuyết, mà nhắm đến sự chứng ngộ thực tiễn. Hiện nay, phái này vẫn còn là một
trong những tông phái mạnh nhất không cải cách. Về mặt lý thuyết, phái này xem
việc lập gia đình không cản trở tín ngưỡng.
Trong
phái này có sự xuất hiện của Milarepa (1040-1123), bậc thánh giả và nhà
thơ vĩ đại, nổi tiếng nhất của Tây Tạng, là đệ tử trực tiếp của Marpa.
Hầu hết người dân Tây Tạng đều đã từng nghe qua một phần nào đó trong tác phẩm
nổi tiếng Thập vạn ca (100.000 bài ca) của ngài, và ai ai cũng quen thuộc
với những sự kiện chính trong cuộc đời ngài. Như việc ngài đã học ma thuật như
thế nào, rồi tự mình trả thù những kẻ thù của gia đình bằng cách làm cho nhà sập
đè lên họ, và làm mưa đá rơi trên ruộng của họ. Và ngài đã nhanh chóng nhận thức
được tội lỗi của mình, rồi vì sợ phải bị đọa địa ngục nên tìm cầu sự trong sạch
bằng những phương pháp trực tiếp của Kim cang thừa. Rồi năm 38 tuổi ngài
tìm gặp Marpa, người đã hành hạ ngài suốt trong 6 năm để giúp ngài trả
hết những nghiệp ác đã tạo. Và năm 44 tuổi ngài sẵn sàng để được khai ngộ, rồi
sống 39 năm còn lại như một nhà ẩn tu trên núi Hy-mã-lạp gần biên giới
Nepal, hoặc đi lại đây đó để giáo hóa dân chúng, cho đến khi ngài tịch vì
uống sữa pha thuốc độc của một người ganh ghét ngài.
Một số
những sự kiện có kịch tính nhất của đời ngài Milarepa xảy ra trong những
năm đầu sau khi được khai ngộ, khi ngài sống một mình trong hang động, chỉ ăn
toàn rau cỏ cho đến khi trở nên xanh mét, và chỉ mặc một bộ y phục bằng vải mỏng
trong sự rét buốt của mùa đông. Ngài không bao giờ quan tâm đến tài sản và tiện
nghi, và luôn giữ lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh.
Những
tác phẩm văn chương phong phú của tông phái này bao gồm phần lớn là những tập
sách mỏng hướng đến việc dạy cách thực hành những phép Du-già khác nhau.
Với tính thực tiễn, họ luôn đặc biệt chú ý đến phép gtum-mo, tức là cách
tạo ra hơi ấm huyền diệu trong thân thể. Không có phép luyện công phu này, đời
sống trong các túp lều ẩn dật sẽ không thể nào chịu đựng được. Đây cũng là điều
mà những người ở tầm mức trung bình có thể nhận biết được, và có thể làm cho họ
tin được vào sự chân thật và hiệu quả của phép Du-già.
Phái
tiếp theo là Shi-byed-pa, chú tâm đến một hình thức đặc biệt của giáo lý
Bát-nhã
được giới hạn cho một số ít những người có trình độ cao. Tông phái này được
thành lập khoảng năm 1090, nổi bật về mặt tín ngưỡng nhiều hơn so với mặt xã hội.
Họ không tổ chức chặt chẽ bằng các tông phái khác, và bao gồm những nhóm người
luyện Du-già, hoặc các nhà ẩn tu. Họ dành trọn tâm trí cho việc thực hành
thiền định ở những nơi cách biệt, và có mối quan hệ nội bộ khá mờ nhạt.
Giáo lý
của phái Shi-byed-pa trước tiên do Pha-dam-pa
đề ra. Ông là một vị thầy người Nam Ấn, với những giáo lý ảnh hưởng rất nhiều từ
ngài Thánh Thiên (Āryadeva) và từ bộ Trung quán luận. Đây
là một sự điều chỉnh những điểm cốt yếu về mặt tâm linh của Phật giáo cho phù
hợp với giáo lý Tan-tra. Sự tu tập được chia thành hai giai đoạn: Trước
hết là làm trong sạch tinh thần bằng cách lìa bỏ dục lạc; sau đó là làm an định
tinh thần bằng cách loại trừ mọi đau khổ và đạt đến tâm bình thản.
Đối với
giai đoạn thứ nhất, hành giả dựa vào các phương pháp thiền quán nhắm đến dẹp bỏ
những ác tâm vốn luôn cám dỗ con người vào những tư tưởng xấu. Đối với giai đoạn
thứ hai, hành giả chủ yếu dựa vào việc trì tụng các man-tra, chẳng hạn
như man-tra của Tâm kinh[1][15] xoa dịu
mọi đau đớn, hoặc tụng đọc những câu châm ngôn ngắn nói về bệnh khổ, niềm vui,
cái chết và dục lạc.
Tông
phái tiếp theo là phái Saskya (Tát-ca), có những nét gần gũi hơn
với đời sống thế tục. Phái này được đặt tên theo tu viện chính của họ là
Saskya, thành lập vào năm 1073. Họ tạo ra đối trọng cân bằng với hai phái
Kadam (Cam-đan) và Shi-byed-pa bằng sự hoàn hảo trong cách tổ
chức. Sau khi chế độ quân chủ sụp đổ, Tây Tạng không có chính quyền trung ương.
Các tăng sĩ của phái này đã nắm lấy chính quyền, và truyền nối ngôi vị cho con
cháu. Phags-pa (1235-1280) là một trong những người xuất sắc nhất trong
số những nhà cai trị mới được kế thừa, và địa vị lãnh đạo này của ông đã được
đại đế Khubilai[1][16]
thừa nhận. Tông phái này đã đào tạo được nhiều nhà thông thái. Hiện nay họ vẫn
tồn tại nhưng đã từ lâu không còn nắm quyền cai trị đất nước.
Một tông
phái nổi tiếng khác nữa phải nhắc đến là phái Gelugpa (Cách-lỗ).
Tông phái này được sáng lập bởi ngài Tông-khách-ba[1][17]
(1357-1419), nhà tư tưởng vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng. Ngài là một nhà cải
cách đã tiếp tục công việc giáo hóa của ngài A-đề-sa, nhấn mạnh đến việc
tuân theo các chuẩn mực đạo đức và giới luật, điều hành chặt chẽ công việc hằng
ngày của chư tăng, giảm nhẹ ảnh hưởng của pháp thuật bằng cách nhấn mạnh vào
khía cạnh tâm linh. Phái Gelugpa (Cách-lỗ) hay Hoàng phái
do ngài sáng lập là phái đã nắm quyền cai trị Tây Tạng cho đến năm 1950. Ngài là
vị học giả vĩ đại, luôn cố gắng để tìm một vị trí trung dung giữa những cực đoan,
tránh sự thiên lệch, và nhờ đó đạt đến kiến thức bao quát toàn diện.
Ảnh
hưởng của ngài Tông-khách-ba được kéo dài nhờ vào số đệ tử rất đông, nhờ
vào việc thành lập các tự viện sung túc, nhiều thế lực, và nhờ vào 16 bộ sưu tập
các tác phẩm của ngài. Trong số đó, phải kể đến 2 tập yếu lược chỉ rõ những
phương thức tu tập để đạt đến sự giải thoát, một tập trình bày đầy đủ về sáu
phép ba-la-mật
của Đại thừa, và tập kia nói rõ những phương thức công phu theo Mật
tông. Tập sách đầu gọi là “Từng bước đi lên giác ngộ”, dựa theo khuôn
mẫu từ tập sách Minh đăng thánh đạo của ngài A-đề-sa, nhưng chú ý
nhiều hơn đến những người không có năng khiếu đặc biệt.
Sau khi
viên tịch, ngài Tông-khách-ba được dân chúng thờ kính nhiệt thành, và
được tin là đã sinh về cung trời Đâu Suất để thành Phật trong tương lai.
Với sự
hình thành đa dạng của các tông phái, tăng đoàn Phật giáo đã bám rễ vững chắc
trong đời sống dân chúng Tây Tạng. Vào thế kỷ 15, những môn đồ của ngài
Tông-khách-ba đã diễn giải một số giáo lý cổ xưa theo cách phù hợp với những
điều kiện xã hội hiện tại. Họ tin rằng chư Phật và Bồ Tát có thể hóa hiện
ra những thân xác hoàn toàn không khác gì với thân xác của người thường (hóa
thân), và sử dụng những hóa thân ấy để cứu độ, giáo hóa. Đây không phải là
sự tái sinh, mà là sự sáng tạo vô ngại bằng năng lực thần thông của các ngài để
thực hiện những hạnh nguyện của mình, trong khi các ngài vẫn thường an trú trong
trạng thái không tạo tác.
Cũng vào
thế kỷ 15, phái Gelugpa (Cách-lỗ) đưa ra một hình thức minh chứng
cụ thể cho phần giáo lý này. Họ tin rằng các vị Bồ Tát (như đức Quán Thế
Âm và Di-lặc) và chư Phật (như đức Phật A-di-đà) chắc chắn đã có
hóa hiện ra những hóa thân của các ngài để làm các vị giáo chủ độ sinh.
Những
hóa thân tái sinh này được các vị cao tăng tìm kiếm và xác nhận
một cách hết sức cẩn thận, dựa trên những quy luật cũng chi ly và phức tạp như
là những quy luật đã giúp cho Hội đồng Lễ nghi có thể phân biệt được
những phép mầu chân chính với ma thuật. Vai trò lãnh đạo của những vị hóa
thân tái sinh này là nét đặc trưng của Tây Tạng trong suốt gần 5 thế
kỷ qua. Vai trò lãnh đạo này cũng mang lại một sự ổn định xã hội, và cho đến năm
1950 đã tỏ ra hiệu quả trong việc bảo vệ Phật giáo trước sự tràn ngập của nền
văn minh hiện đại. Hơn thế nữa, các vị Lạt-ma
còn chứng tỏ một cách đáng ngạc nhiên là họ hoàn toàn không bị ảnh hưởng của
lòng ham muốn như những người thường, vốn là nguyên nhân chính dẫn đến mọi khổ
đau và tội lỗi.
Vai trò
lãnh đạo đương nhiên của các vị Lạt-ma
được hỗ trợ bởi sự nới rộng các lãnh vực tinh thần mà họ quan tâm, có thể thấy
trong những chương trình học tập mà phái
Gelugpa (Cách-lỗ) áp dụng, trong hệ thống các vị thần rộng
rãi và đa dạng, và trong sự hiện diện khắp nơi của những đối tượng tín ngưỡng.
Các
trường hợp tái sinh không phải là điều mà thế giới phương Tây dễ dàng chấp nhận
như một sự thật. Điều tất nhiên là họ cố tìm ra những cách giải thích “hợp lý”
nào đó về sự tái sinh của các ngài để không phải tin rằng đó là những biểu hiện
cụ thể của năng lực tâm linh. Tuy nhiên, nhiều thế kỷ đã trôi qua và câu trả lời
cho vấn đề chính là sự xác nhận bằng thực tế. Không chỉ có một, mà là nhiều dòng
truyền thừa khác nhau tại Tây Tạng vẫn duy trì được hình thức tái sinh của các
vị Tổ sư đứng đầu tông phái, cho dù họ có những khác biệt nhất định về sự chọn
lựa tái sinh cũng như các phương pháp tìm kiếm.
Dòng tái
sinh được nhiều người biết đến nhất tại Tây Tạng là các vị Đạt-lai Lạt-ma
của phái Gelugpa. Sự nổi bật của các vị Đạt-lai Lạt-ma là do vai
trò nắm quyền cai trị đất nước của họ trong suốt nhiều thế kỷ qua. Cho đến nay,
đã có 14 vị Đạt-lai Lạt-ma
ra đời, được tin rằng chỉ là hóa thân tái sinh của duy nhất một vị mà thôi. Tên
các vị được kể ra như sau:
1.
Gendun Drub
1391-1475
2.
Gendun Gyatso
1475-1542
3.
Sonam Gyatso
1543-1588
4.
Yonten Gyatso
1589-1617
5.
Losang Gyatso
1617-1682
6.
Jamyang Gyatso
1683-1706
7.
Kelsang Gyatso
1708-1757
8.
Jampel Gyatso
1758-1804
9.
Lungtog Gyatso
1806-1815
10.
Tsultrim Gyatso
1816-1837
11.
Kedrub Gyatso
1638-1856
12.
Trinle Gyatso
1856-1875
13.
Tubten Gyatso
1876-1933
14.
Tenzin Gyatso
1933 –
Đức
Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 hiện vẫn đang còn sống và là một trong số các vị
lãnh đạo tinh thần của Phật giáo thế giới nói chung, của Tây Tạng nói riêng.
Sự nổi
bật của các vị Đạt-lai Lạt-ma
đã khiến cho rất nhiều người lầm tưởng rằng các ngài là những vị lãnh đạo tinh
thần của toàn thể nhân dân Tây Tạng. Nhưng thật ra, như chúng ta vừa tìm hiểu
trên, Tây Tạng có rất nhiều dòng phái khác nhau, và mỗi phái đều có một vị lãnh
đạo tinh thần tối cao của riêng mình. Vì thế, mặc dù đức Đạt-lai Lạt-ma
được xem là người lãnh đạo cao nhất của Tây Tạng về mọi mặt, nhưng mỗi một
truyền thống tâm linh của đất nước này đều có một vị đứng đầu để dẫn dắt họ.
Trường
hợp của dòng Karma Kagyu (Cát-mã Ca-nhĩ-cư) là một ví dụ cụ thể.
Hơn thế nữa, truyền thống tái sinh của các vị Karmapa phái Karma Kagyu
còn được khởi đầu từ thế kỷ 12, nghĩa là sớm hơn so với các vị Đạt-lai Lạt-ma
đến gần 3 thế kỷ. Vì thế, họ được xem là những người đầu tiên đã khởi xướng
truyền thống tái sinh tại Tây Tạng.
Kagyu (Ca-nhĩ-cư)
là một trong các tông phái lớn tại Tây Tạng. Theo sự phát triển về giáo pháp và
phương thức tu tập, phái này đã phân chia thành nhiều dòng phái nhỏ hơn. Có ít
nhất bốn dòng phái được phát sinh từ phái này là Karma Kagyu, Tsalpa
Kagyu, Baram Kagyu
và Phagmo Drukpa Kagyu. Ngoài ra còn có dòng Shangpa Kagyu
được thành lập vào khoảng thế kỷ 14, tuy có một hệ thống giáo pháp riêng biệt
nhưng cũng có quan hệ rất chặt chẽ với phái Kagyu.
Karma
Kagyu (Cát-mã Ca-nhĩ-cư) là một trong các dòng kể trên của
phái Kagyu, với sự truyền thừa liên tục qua sự tái sinh của vị đứng đầu
dòng phái kể từ đầu thế kỷ 12 cho đến nay. Trong dòng phái này, không chỉ có sự
tái sinh của các vị Karmapa (Cát-mã-ba) đứng đầu dòng phái, mà còn
có cả sự tái sinh của các vị Shamar, Situ và Gyalashab là
những người luôn tiếp nối làm đệ tử nối pháp của đức Karmapa.
Những
câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta
sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống
tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được. Trải qua quãng thời gian dài hơn 8
thế kỷ, các vị vẫn kiên trì thực hiện tâm nguyện độ sinh của mình qua các hình
thức tái sinh không gián đoạn. Những gì được ghi lại nơi đây về cuộc đời của các
vị đại sư tái sinh – hay phải nói chính xác hơn là những lần tái sinh của chỉ
một hóa thân Bồ Tát, vì hiện nay vị Karmapa
đời thứ 17 vẫn đang còn sống – hoàn toàn là những sự kiện khách quan, đúng thật
như chúng đã từng xảy ra.
Nếu như
có những ý nghĩa về giáo pháp hay niềm tin tỏa sáng từ chính những sự kiện này
khi chúng được kể lại, thì đó cũng chính là công đức vô lượng của hạnh nguyện Bồ
Tát mà bậc đạo sư đã nêu cao bằng sự dấn thân không mệt mỏi của chính mình.
NM
[1][1] Kinh
Đại Bát Niết-bàn, quyển 4, phẩm Như Lai tánh, phần 1, bản Việt dịch của Đoàn
Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo.
[1][2] Mantra, những âm thanh đặc biệt khi đọc
lên có công năng gợi một sức mạnh siêu hình hoặc gây ra một tác động huyền bí
nào đó.
[1][3]
Dhāranī, dịch nghĩa là Tổng trì (總持), nghĩa
là thâu nhiếp tất cả. Thật ra, tuy cũng là dạng thần chú như Mantra, nhưng những
câu đà-la-ni thường có độ dài hơn.
[1][4]
Ấn: Mudrā, tức là việc sử dụng hai bàn tay đặt theo những tư thế nhất
định trong khi đọc chú, hành lễ hoặc cầu nguyện.
[1][5]
Maņdala, dịch nghĩa là Viên tướng, hay vòng tròn, được
sử dụng như những hình ảnh thiêng liêng nhắm đến những mục đích nhất định trong
các nghi lễ.
[1][6]
Mahāsukha, Hán dịch nghĩa là đại an lạc (大安樂).
[1][7]
Nếu so với quá trình hình thành chữ Nôm ở nước ta cũng có thể thấy được sự phi
thường này. Chữ Nôm được bắt đầu chế tác từ rất sớm – có thể là trước thế kỷ 10
– nhưng mãi đến khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ như hiện nay vẫn chưa bao
giờ được sử dụng như một loại chữ viết chính thức và hoàn chỉnh của cả nước.
[1][8] Chúng
tôi dẫn theo Edward Conze trong A Short History of Buddhism. Có tài liệu khác
cho rằng chùa này được khởi công xây dựng vào năm 749, tức năm Thiên Bảo thứ 8
đời Đường Huyền Tông. Không biết là do thời gian xây dựng chùa kéo dài hay có
sai lệch giữa hai nguồn tài liệu?
[1][9]
Tịch Hộ (寂護) là một vị cao tăng Ấn Độ, thuộc Trung quán
tông, người đã truyền Phật giáo sang Tây Tạng trong thời kỳ đầu tiên. Tuy có một
số tăng sĩ truyền giáo đã đến Tây Tạng trước đó, nhưng ngài là người đầu tiên
còn để lại dấu vết cho đến nay. Niên đại của ngài không được rõ ràng. Có thuyết
cho là ngài sinh năm 725 và mất trong khoảng năm 784 hoặc 788 (Trung Hoa Phật
học toàn thư). Nhưng theo Phật Quang Từ điển thì niên đại của ngài là 700–760.
Và còn có một thuyết nữa cho là ngài sinh năm 750 và mất năm 802 (Từ điển Phật
học của Chân Nguyên). Căn cứ theo năm xây dựng chùa Tang Duyên và số năm ngài
hoằng hóa tại chùa này thì giả thuyết sau cùng này có lẽ là chính xác nhất.
Abhisamayālańkāra, Hán dịch là Hiện quán trang nghiêm luận (現觀莊嚴論), tên
đầy đủ là Abhisamayālaṃkāra-nāma-prajđāpāramitopadeśa-śāstra,
Hán dịch là Hiện quán trang nghiêm Bát-nhã ba-la-mật-đa Ưu-ba-đề-xá luận (現觀莊嚴般若波羅蜜多優波提舍論), được
cho là bộ luận của ngài Di-lặc.
[1][11]
Ādibuddha, Hán dịch âm là A-đề Phật (阿提佛), dịch nghĩa là Bản sơ Phật (本初佛).
[1][12] Bardo
Thődol – tập sách nổi tiếng mô tả về cái chết và những
trạng thái tâm thức sau khi chết, đã được dịch sang Anh ngữ với nhan đề “The
Tibetian Book of the Dead”. Hiện đã có bản dịch Việt ngữ của Nguyên Châu -
Nguyễn Minh Tiến, nhan đề “Người Tây Tạng nghĩ về cái chết” (hay Người chết đi
về đâu), NXB Văn hóa Thông tin.
[1][13] Không
hành nữ hay không hành mẫu, nghĩa đen là những người nữ có khả năng phi hành
giữa không trung. Trong truyền thống Mật tông, các vị này được xem như những
biểu hiện của sự giác ngộ, thường hiện ra để truyền dạy pháp yếu cho các hành
giả khi họ tu chứng đến một cảnh giới nhất định.
[1][14]
Phạm hạnh: hạnh trong sạch được thể hiện qua việc dứt hẳn sự dâm dục.
[1][15]
Tức Bát-nhã tâm kinh (般若心經), hay nói đủ là Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh (摩訶般若波羅蜜多心經). Ở đây
được sử dụng như một thần chú.
[1][16]
Cũng viết là Kublai Khan hay Kubla (1215-1294), hoàng đế đầu tiên (1279-1294)
của triều đại do Mông Cổ thiết lập cai trị Trung Hoa, có thế lực bao trùm vào
thời đó. Ông là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, và là người đã mở rộng đế quốc
Mông Cổ thành một trong những đế quốc lớn nhất thế giới.
[1][17] Tsongkhapa (1357-1419), người đã áp dụng
hệ thống giáo dục Geshe nổi tiếng, theo đó tăng sĩ được đào tạo ở các tự
viện cho đến khi đạt trình độ tương đương với học vị tiến sĩ triết học Phật
giáo. Ngày nay, tăng sĩ thuộc phái Gelugpa (Cách-lỗ) vẫn được đào tạo
theo hệ thống giáo dục này.