His Holiness
Dalai Lama
ÁN MA NI BÁT DI HỒNG! Sáu chữ của câu thần chú này có mục đích giải
trừ mọi khổ nạn của sáu loại chúng sanh đang trôi lăn trong vòng sinh tử
luân hồi. Khái niệm này đưa ta đến mối nhận thức một cách tự nhiên rằng
khổ đau và hạnh phúc của con người cùng với điều kiện môi sinh của thế giới mà
ta đang sống đều liên hệ mật thiết với nhau. Rất cảm ơn nhã ý của qúy vị đã mời
tôi đến ngôi trường Ðại học này, tuy còn non trẻ nhưng cũng đã rất nổi tiếng.
Tôi rất hân hạnh được có màu7841? tại đây hôm nay và biết thêm được một điều
rằng nơi đây từng là một căn cứ quân sự đã được cải biến để trở thành một trung
tâm của kiến thức và học vấn.
Môi sinh và bảo vệ môi sinh là những vấn đề mang tầm mức quan trọng
hiện nay. Ðây không phải là vấn đề thuần túy về luân lý hay đạo đức mà là chuyện
sinh tử của chúng ta. Mối quan tâm của tôi đối với những vấn đề liên quan đến
môi sinh không phải là kết quả của một sự nghiên cứu lâu dài trên lãnh vực này
mà thật ra là một chuyện khá ngẫu nhiên. Như qúy vị biết, tại Tây Tạng đi đến
đâu qúy vị cũng có thể uống nước một cách thoải mái. Còn tại Ấn Ðộ và một số nơi
khác, người ta phải phân biệt giữa nước uống được và các loại nước khác. Ðó là
lý do tại sao tôi lại ngạc nhiên khi thấy người ta đề cập đến chuyện môi sinh
cũng như tại sao tôi lại bày tỏ mối quan tâm của mình về lãnh vực này. Sau khi
tham khảo ý kiến với một số nhà chuyên môn, qủa thật tôi thấy rằng đây là một
vấn đề khá hệ trọng nếu không nói là nghiêm trọng.
Những tai họa gây ra bởi chiến tranh thường xảy ra trước mắt và rất
dễ thấy. Trong khi đó sự tàn phá liên quan đến lãnh vực môi sinh thường diễn ra
một cách chậm chạp hơn. Không thể nhận thấy được từ lúc ban đầu, nó từ từ tăng
trưởng cho đến khi người ta nhận ra được thì mọi chuyện thường là đã quá muộn
màng. Bởi thế tôi rất hân hoan và tràn trề hy vọng khi thấy rằng lãnh vực môi
sinh nay đã trở thành một mối quan tâm đối với tất cả mọi người. Với trí óc
thông minh và đầy tham vọng -cũng là một phần của bản chất con người- đôi lúc
chúng ta vô tình hay cố ý chạy theo những hoạt động có thể gây nên những
tổn hại về lâu về dài. Tuy nhiên nếu được kiểm soát đúng mức, cũng với trí thông
minh đó, nó có thể giúp ta tìm ra những phương thức để giải quyết mọi vấn nạn.
Ðó cũng là lý do mà tôi cảm thấy rằng thật quả là một điều quan
trọng nếu chúng ta được thúc đẩy bởi lòng từ bi, biết đặt mình vào bối cảnh khổ
đau của đồng loại cũng như thấy được những hệ quả tiêu cực về lâu về dài. Một
cách tổng quát, nếu con người được thúc đẩy bởi lòng nhân ái, họ sẽ càng trở nên
tự tin và quyết tâm hơn. Tôi tin chắc rằng sự quyết tâm này là cơ bản nếu được
đi đôi với trí tuệ hoặc óc thông minh; sức mạnh nội tâm và lòng can đảm chính là
những yếu tố cần thiết giúp ta vượt qua mọi chướng ngại trong đời sống. Cũng vậy,
tất cả mọi vấn nạn liên quan đến khoa học kỹ thuật, dân số, kinh tế một khi đã
phát sinh trên quy mô toàn cầu cần phải được trình bày, thông tin đầy đủ
đến với mọi người. Bằng cách cho người ta thấy mối quan tâm về những hiểm họa
cũng như nhận thức được yêu cầu cấp thiết cần phải tìm ra những giải pháp, chúng
ta dễ dàng tập trung năng lực của mình vào việc kiếm tìm những biện pháp giải
quyết thỏa đáng. Một học viện chuyên nghiên cứu về môi sinh một cách khoa học sẽ
cung cấp cho chúng ta những dữ kiện đầy đủ chất lượng để có thể đánh giá sự tiến
triển và xuống cấp của lãnh vực môi sinh. Bằng cách tiếp cận một cách khoa học,
với sự hổ trợ của ngành truyền thông, đó là căn bản của vấn đề.
Mối quan tâm của chúng ta về lãnh vực môi sinh dĩ nhiên là sẽ không
hạn chế một cách cục bộ vào khu vực của mình, biên giới của quốc gia mình. Ðây
là vấn đề mà tất cả mọi người sinh sống trên thế giới này đều phải quan tâm. Quả
là một điều cần thiết nếu mọi người đều nhận thức được điều này để cùng bắt tay
nhau đối đầu với vấn nạn. Theo thiển ý của tôi, nếu thế hệ trẻ được rao truyền ý
thức về những vấn đề môi trường ngay từ thuở còn thơ, những mối quan tâm này sẽ
là một phần của kho kiến thức được lưu trữ lại trong suốt đời người.
Một trong những vấn nạn lớn lao nhất mà lãnh vực môi sinh phải đương
đầu, đó là nền kinh tế hiện đại. Dĩ nhiên không thể chối cãi được rằng nền kinh
tế cần phải được phát triển, tuy nhiên nếu chúng ta chỉ thuần tuý nghĩ đến
chuyện lợi nhuận tất sẽ không tránh khỏi được những tai hại. Ðồng ý rằng
chúng ta có quyền tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thế nhưng đừng quên
mối hiểm họa là chúng ta sẽ làm khô kiệt nó nếu khai thác quá mức. Một số nhà
chuyên gia còn đi xa hơn khi tuyên bố rằng chúng ta phải thay đổi kiểu cách sống
Tây phương. Tôi không biết điều này có hiện thực hay không, nhưng một điều chắc
chắn rằng trong thế giới này mọi sự mọi việc đều tương quan ràng buộc với nhau.
Thế cho nên điều quan trọng nhất là nên tìm một con đường trung đạo thay vì cực
đoan.
Thưa Ngài, trong xã hội Tây phương, làm thế
nào để có thể hoà hợp giữa tiến bộ khoa học với mối quan tâm của chúng ta liên
quan đến việc bảo vệ môi trường? Một cách cụ thể, Ngài có tin rằng nhân loại và
thiên nhiên không thể tách rời, hoặc ngược lại, Ngài nghĩ như thế nào nếu chúng
ta tưởng tượng rằng thế giới này sẽ như thế nào nếu vắng bóng con người?
Theo vũ trụ quan của Phật giáo, ngay tại
thời điểm ban sơ của vũ trụ không có con người. Cũng thế, đến một thời điểm
tương lai nào đó, xã hội loài người sẽ biến mất trong khi vũ trụ sẽ còn tồn tại
trong một thời gian. Có thể lúc đó chúng ta sẽ có thái bình vĩnh viễn trên mặt
địa cầu -ai mà biết được! Theo tôi, chìa khóa của vấn đề là, như tôi đã nhiều
lần phát biểu, mối liên hệ giữa khoa học kỹ thuật và việc bảo vệ môi sinh. Tôi
được biết rằng hiện nay rất nhiều cơ xưởng được xây dựng có khả năng giảm thiểu
được vấn đề ô nhiễm. Chẳng hạn như lúc còn ở Stockholm, một số thân hữu cho tôi
biết rằng các loại cá đã biến mất trên dòng sông chảy qua thành phố này
trước đây nay đã bắt đầu thấy xuất hiện trở lại và nước sông đã trở nên tinh
khiết hơn, và điều này không có nghĩa là các cơ xưởng trong vùng phải bị dẹp
tiệm. Thí dụ này cho thấy là chúng ta có thể có những giải pháp để hạn chế sự ô
nhiễm môi sinh mà không cần phải làm đình trệ nền kỹ nghệ. Dĩ nhiên tôi không
phải là người hiểu biết kinh nghiệm trên lãnh vực này, xin nhường lại cho các
chuyên gia để họ tìm ra những giải pháp thích đáng.
Thưa Ngài, có phải đến lúc chúng ta
nên hổ trợ cho một chính sách nông nghiệp phù hợp với một số tập quán đặc biệt
của các quốc gia đang phát triển nhằm giữ vững và khuyến khích việc bảo tồn một
số thói quen có tính truyền thống trong lãnh vực thực phẩm ăn uống, thay vì
chúng ta cứ luôn áp đặt quan điểm Tây phương vào các hoạt động nông nghiệp?
Vâng, trong những trường hợp như thế, vấn đề
quan trọng là phải làm sao thích nghi vào từng tình huống, điều kiện cuả mỗi
nơi. Việc sử dụng các sản phẩm hoá chất như phân bón, thuốc sát trùng chẳng qua
chỉ là những nhu cầu tạm bợ nhằm nâng cao sản lượng và phòng ngừa sự tàn phá mùa
màng, thế nhưng nó đã gây ra những hậu quả rất tiêu cực, đó là tệ trạng ô nhiễm
môi sinh. Tại một số quốc gia bị hăm dọa bởi nạn đói hoặc đối đầu với những khó
khăn gây ra bởi tình trạng nhân mãn, ta có thể can thiệp vào nếu cần. Những khó
khăn này trên thực tế thường là hậu qủa do việc người ta quá chú trọng vào ngân
sách quốc phòng thay vì nông nghiệp. Còn những nơi mà những khó khăn do hậu quả
thiên nhiên gây ra như hạn hán, hoặc đất đai cằn cỗi khiến dân chúng phải sống
cơ cực vì thiếu thốn thực phẩm, ta không thể không tận dụng mọi phương tiện có
thể có được nhằm nâng cao sản lượng của đất đai. Trong một số trường hợp khác,
nếu điều kiện và hoàn cảnh cho phép, tốt hơn là ta cứ giữ lại các hình thức canh
tác theo truyền thống, điều đó phần nào nói lên được lòng kính trọng và ý hướng
bảo tồn thiên nhiên của chúng ta.
PHỤNG SỰ NHÂN LOẠI
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma,Ngài là một đứa trẻ
ngoại lệ. Những thiếu nhi quan tâm đến tương lai của thế giới vừa mới đứng ra
thành lập một hiệp hội. Ngài có muốn trao truyền một thông điệp nào cho chúng
không?
Tương lai trải dài trước mắt chúng ta quả
thật là rất quan trọng. Thiếu nhi là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tương
lai. Trên căn bản nhận định rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, tình cảm yêu
thương, tâm địa lương hão của trẻ thơ được phát xuất một cách tự nhiên. Lúc còn
bé, đứa trẻ thường không có nhận thức phân biệt giữa một con người này và một
con người khác; chẳng hạn như đối với chúng, nụ cười cuả người đối diện quan
trọng hơn là chủng tộc, quốc tịch, văn hóa của họ. Tôi yêu mến cái giá trị tốt
đẹp của thái độ như thế, nó mang lại cho tôi biết bao hy vọng khi nhìn về tương
lai.
Tuy nhiên ta không thể không quan tâm đến một vài phương diện khác
của vấn đề. Trẻ con nói chung đều có một tâm hồn nồng hậu, nhân ái; thế nhưng
trong một số lãnh vực cuả nền giáo dục mà chúng tiếp thu phần nào đã làm gia
tăng sự cách biệt giữa chúng với nhau, tạo nên khoảng cách giữa đứa trẻ này và
những đứa trẻ khác. Theo tôi, điều quan trọng là bản chất tốt đẹp của
thiếu nhi cần phải được nuôi dưỡng. Ðiều này có nghĩa là giáo dục phải được hoà
điệu nhịp nhàng cùng với bản chất nhân ái sẵn có của trẻ thơ. Thế nên yếu tố
quan trọng nhất là chúng cần phải được nuôi dưỡng trong một bầu khí đầy yêu
thương, trìu mến. Một cách lý tưởng mà nói thì những phẩm chất của con người cần
phải được triển khai cùng với lòng nhân ái, thế nhưng nếu cần phải chọn lựa giữa
một bên là những phẩm chất quan trọng chung và bên kia là lòng nhân ái, tôi
thường phát biểu rằng tôi sẵn sàng lựa chọn lòng nhân ái.
Những vốn liếng về thông minh và học vấn mà con người tích lũy được
dù quan trọng đến thế nào đi nữa cũng chưa đủ để xây đắp tương lai. Tâm hồn của
chúng ta cần phải được ươm đầy lòng vị tha thông qua việc học tập những giá trị
căn bản của nhân loại, tình yêu đối với tha nhân là một thí dụ.
Hãy để cho lòng nhân ái thẩm thấu vào tâm hồn của mỗi con người và
giữ cho tâm hồn của chúng ta luôn ở trong trạng thái tích cực, sinh động. Chúng
ta hãy làm phong phú thêm óc thông minh của mình bằng những phẩm chất tốt đẹp
này và biết vận dụng một cách khéo léo tất cả những gì mà chúng ta tiếp thu được
từ giáo dục để xây dựng cho mình một cuộc sống thỏa mãn và hạnh phúc.
Ngài có thể giải thích cho chúng tôi biết
tại sao trong xã hội Tây phương, cha mẹ và con cái thường là không thuận thảo
với nhau ?
Ðiều này tôi quả tình không biết. Có quá
nhiều yếu tố, điều kiện gây nên những xung đột trong đời sống gia đình, chẳng
hạn như thói quen, tập quán hoặc là những khuôn mẫu mà chúng ta đặt để buộc con
cái phải tuân theo. Dĩ nhiên quả là điều đáng buồn nếu ta phải chứng kiến sự
thiếu vắng tình thương giữa cha mẹ và con cái. Theo tôi chúng ta khó có
thể quy trách cho bất cứ yếu tố nào trong chuyện xung đột này. Nguyên nhân
thì rất nhiều, thế nên khi tìm cách giải quyết vấn đề ta phải nhìn chúng
một cách toàn diện.
Thưa Ngài, những quan điểm của Tây phương về
chính trị, kinh tế có vẻ như rất thành công trong thập niên 60, nhưng đã không
còn thích hợp trong thập niên 90. Nó không còn làm cho người ta hài lòng nữa.
Theo Ngài, làm thế nào để cải thiện tình huống này?
Từ thuở bé đến giờ, tôi rất yêu thích bộ môn
khoa học kỹ thuật. Một số người cho rằng sự phát triển của bộ môn này tự nó
không phải là điều hoàn toàn đáng mong ước, nhưng theo thiển ý của tôi, không
được đúng lắm trong trường hợp này. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của chính
chúng ta. Khoa học kỹ thuật chỉ là phương tiện, công cụ. Nó thực hiện
những gì mà chúng ta đòi hỏi, tốt hay xấu hoàn toàn do chính chúng ta làm chủ,
quyết định. Như vậy mọi chuyện đềy tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy và phương cách
mà chúng ta sử dụng chúng. Tôi nghĩ rằng trong thời đại này tất cả chúng ta đang
chứng kiến sự bùng nỗ lớn lao của kiến thức, tuy nhiên do quá chú trọng đến kiến
thức, chúng ta đã không quan tâm mấy đến sự phát triển lòng nhân đức, vị tha,
bác ái.
Nói như thế, tôi nghĩ rằng mọi việc bây giờ đã có vẻ trở nên sáng tỏ
hơn. Con người hẵn nhiên không phải là sản phẩm của máy móc, thế nên khát vọng
đạt đến hạnh phúc chân thật không thể nào hoàn toàn nương tựa vào những cảnh
huống bên ngoài. Dĩ nhiên chúng ta cũng cần phải có một cuộc sống vật chất tối
thiểu, nhưng đó không phải là cỗi nguồn của hạnh phúc. Chúng ta phải tự nỗ lực
tìm kiếm ngay chính trong bản thân cuả mỗi chúng ta những nguyên nhân của hạnh
phúc và thỏa mãn. Chúng phải được phát triển ngay bên trong của mỗi con người.
Theo tôi, vấn đề này rất là rõ ràng.
Mặc dù điều này có vẻ như rất khó giải thích, tuy nhiên tôi cũng xin
cố gắng để diễn tả điều mà tôi vừa khẳng định. Trước tiên, chúng ta phải nhận
thức được rằng hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy được trong tâm hồn của chính mình.
Những ai nghĩ rằng chỉ có khoa học kỹ thuật là có khả năng giải quyết mọi vấn
đề, và với sự tiến bộ trên lãnh vực vật chất, mọi mục tiêu đều có thể đạt tới
được, theo tôi đều là những người có quan điểm cực đoan. Chúng ta cần phải nhận
thức được những giới hạn của lối tiếp cận như thế. Và một khi chúng ta bắt đầu
bằng cách ý thức được những giới hạn này, chúng ta sẽ không bao giờ bị xúc
động khi phải đối diện với những chướng ngại bên ngoài.
Theo tôi, mỗi khi phải đối diện với những nỗi khó khăn, tốt nhất là
chúng ta chớ vội đi sâu vào vấn đề, thay vì nên lùi lại, nhìn ngắm chúng với một
tâm hồn rộng mở, đặt chúng vào trong mộr bức tranh toàn cảnh lớn hơn. Bằng cách
này tôi tin rằng chúng ta sẽ rất dễ dàng tìm ra những giải pháp. Cụ thể hơn như
khi chúng ta phải đối đầu với những vấn đề nghiêm trọng, nếu ta không đứng tách
ra ngoài để nhìn vấn đề và tìm cách đối phó, chúng ta sẽ không nhìn thấy gì cả,
những khó khăn sẽ trở nên nặng nề và chúng ta sẽ rơi vào trạng huống tiêu cực
hơn. Ngược lại, nếu chúng ta quan sát chúng từ xa, tiếp cận chúng với một thái
độ rộng mở, khảo sát vấn nạn từ mỗi góc cạnh, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy được
những trạng huống tích cực của vấn đề.
Tôi nghĩ rằng quả là điều quan trọng nếu chúng ta biết tổng
hợp trí óc thông minh tự nhiên sẵn có của mình cùng với lòng can đảm để có thể
phát triển lòng tự tin trong mỗi chúng ta. Kinh nghiệm cá nhân cho tôi biết thái
độ này rất ích lợi cho sự bình an của tâm hồn.
Thưa Ngài, bằng những phương sách nào, các
chính khách có thể mang lại cho quần chúng hạnh phúc hơn?
Theo tôi vấn đề này không phải chỉ đặt ra
cho giới chính khách mà thôi. Nó liên hệ đến tất cả mọi giới: giáo viên, nhà
khoa học, lý thuyết gia chính trị, chuyên gia tâm lý, nói chung là tất cả những
ai đang hoạt động trên các lãnh vực khoa học về tâm trí, tinh thần. Một cách cụ
thể, tất cả mọi người đều phải tự tìm kiếm cho mình những phương cách để mang
lại sự bình an tâm hồn. Y khoa càng ngày càng khám phá thêm những mối liên hệ
mật thiết giữa sự thanh thản tâm hồn và sức khỏe thể xác. Những nghiên cứu như
thế đáng được đẩy mạnh thêm.
Bên cạnh đó, theo tôi lãnh vực truyền thông cũng đóng một vai trò
khá quan trọng trong chuyện này. Ngành truyền thông của chúng ta hiện đang ở vào
thời đại tân tiến, cho nên tôi tin chắc chúng có thể đảm nhiệm được công
việc như những nhà giáo dục nhằm kích thích tâm hồn của con người. Những ký giả
vì thế cũng mang một sứ mệnh quan trọng.
Nhân đây tôi cũng xin được bày tỏ đôi điều về vấn đề này. Tôi nghĩ
là ngành truyền thông đại chúng hiện đang quá chú trọng đến việc khai thác các
khía cạnh tiêu cực trong đời sống xã hội; điều này đã tạo cho công luận có một
ấn tượng tiêu cực về bản chất của nhân loại nói chung. Thông thường, một khi bạn
mang một ấn tượng như thế, bạn sẽ rất dễ dàng sinh ra chán nản, và thực tế cho
thấy là người ta mất đi niềm hy vọng để sống.
Nhân loại -mặc dù được coi như một đại gia đình- đã phải gánh chịu
khổ đau bởi rất nhiều vấn nạn.Thế nhưng cho dù con người phải đối diện với vô
vàn những khó khăn như thế, ta vẫn có khả năng chuyển hóa chúng. Chúng ta có thể
cải thiện hoàn cảnh sống bởi vì thiện tâm và lòng nhân ái là một phần của
bản chất con người. Nếu chúng ta biết phối hợp trí óc thông minh của mình với sự
thúc đẩy của lòng nhân ái, chúng ta có khả năng thay đổi cuộc sống của chúng ta
và qua đó, chuyển hóa xã hội. Tôi nghĩ rằng đây là điểm căn bản.
Ðiều này giải thích tại sao tôi luôn quan niệm rằng khi cần phải đối
phó với những vấn đề liên quan đến con người, điều tốt nhất là ta nên cân nhắc
kỹ lưỡng. Tất cả những trạng huống tiêu cực của nhân loại dĩ nhiên không phải là
không quan trọng, nó cho báo chí những tin hay. Tuy nhiên đồng thời ta
cũng đừng nên bỏ qua khía cạnh tích cực của đời sống vốn được xây dựng trên bản
chất tốt đẹp và trí tuệ của con người.
Gần đây tại một số quốc gia đã có những cuộc thảo luận liên quan đến
vai trò của truyền thông đại chúng. Những gì cần phải được tường thuật? Tường
thuật như thế nào? Những phần nào liên quan đến đời tư của con người mà truyền
thông không được đụng tới? Tôi cũng có một vài thiển ý liên quan đến những vấn
đề này, đặc biệt là những lãnh vực mà các nhà lãnh đạo thường quan tâm. Trong
thời gian qua thực tế cho thấy là đã có một số các khuôn mặt lãnh đạo lạm dụng
chức quyền, họ không hề tuân thủ một chút nào về nguyên tắc đạo đức hoặc ý thức
kỹ luật tự giác. Ðối với những trường hợp như vậy, tôi nghĩ rằng ngành truyền
thông có quyền kiểm chứng và phơi bày cho công luận biết những tệ trạng như thế,
đó là lý do tại sao tôi ủng hộ những hoạt động của họ và đánh giá cao khả năng
điều tra tìm tòi của người ký giả, có thể chỏ mũi vào bất cứ nơi nào.
Một con người lương thiện không thể có sự mâu thuẫn nào giữa dáng vẽ
bên ngoài và đời sống nội tâm của họ. Tôi nghĩ rằng ngành truyền thông cần cho
công luận thấy một vài khuôn mặt nổi tiếng đã khéo léo che dấu con người thật
của họ bằng một mả ngoài rất lịch sự, dễ thương. Trong những trường hợp như thế,
tốt hơn là ta đành phải chấp nhận chuyện xâm phạm đời tư cá nhân, tuy nhiên, xin
đừng quên rằng mục đích chung cùng của chúng ta là phụng sự nhân loại trong ý
hướng cải thiện xã hội. Ðiều này không cho phép ta làm việc cẩu thả, sai lầm
hoặc bị lôi kéo bởi những động cơ tiêu cực. Tôi quan niệm rằng nếu chúng ta
không chịu phơi bày ra những mặt xấu xa của xã hội chẳng hạn như ma túy, sát
nhân, sách nhiễu tình dục, khai thác trẻ con... ngày qua ngày, những người lương
thiện sẽ vẫn còn tiếp tục hứng chịu những đau khổ gây ra bởi những tệ nạn này.
Nếu chúng ta biết giải thích mọi việc một cách sáng tỏ, công luận từ đó sẽ quan
tâm đến vấn đề và tìm ra những phương thức làm giảm thiểu khổ đau.
Tôi cũng nhận thấy rằng khi người ta nói về luân lý, đạo đức người
ta thường liên hệ những phẩm chất này với những ý niệm tôn giáo. Theo tôi, một
việc khá quan trọng là ta cần nên tách rời giữa hai ý niệm đạo đức và tôn giáo.
Tôn giáo dĩ nhiên giúp ta củng cố, trợ lực và phát triển đạo đức; thế nhưng khi
ta nói đến những khái niệm như lòng vị tha, tình huynh đệ chúng ta nên nhận thức
rằng những tiêu chuẩn đạo đức này tự nó hiện hữu, độc lập đối với mọi tôn giáo,
bởi vì những tình cảm này được hình thành do bản chất tự nhiên của con
người -tình nhân ái và lòng thương yêu.
Thưa Ngài, quan niệm của Ngài như thế nào về
việc kiểm soát sinh sản và Ngài có ý kiến gì về việc phá thai?
Ðể trả lời cho câu hỏi này tôi thường giải
thích theo quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng đời sống của tất cả
mọi loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc biệt là con người, đều rất
qúy giá. Nếu nhìn vấn đề như thế thì tất cả mọi hình thứckiểm soát sinh
sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy nhiên những sinh mạng qúy giá đó nay đã đạt
đến một số lượng đáng kể, thế nên chúng ta không thể không khẩn thiết kêu gọi
mọi người phải quan tâm đến vấn đề hạn chế sinh sản một cách nghiêm túc, vì đó
là phương cách duy nhất để hạn chế tình trạngï gia tăng dân số. Như tôi đã từng
đề cập, khi mà tài nguyên của trái đất đang khô kiệt dần, tôi chấp nhận chuyện
hạn chế sinh sản một cách bất bạo động.
Còn phá thai là một chuyện khác, đó là một hành động sát nhân.
Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rõ rằng ta không được giết hại con người,
cho dù đó là một bào thai. Tuy nhiên không phải là không có những trường hợp
ngoại lệ mà ta phải xem xét, chẳng hạn như đó là nguồn gốc gây nên sự khổ đau
trầm trọng cho một thành viên trong gia đình, ví dụ một bà mẹ mang thai có nguy
cơ tử vong lúc lâm bồn hoặc những người có thể sinh ra quái thai.
Thưa Ngài, làm thế nào để giúp đỡ những
người mang những khổ đau thể xác lớn lao, những người không đủ sức khoẻ để có
thể theo đuổi con đường dẫn đến giác ngộ?
Có nhiều loại bệnh hoạn về thể chất khác
nhau. Những loại tạo ra những ảnh hưởng trầm trọng đến tâm trí của bệnh nhân thì
quả thật là rất đáng thương và bi đát; thế nhưng có những loại chỉ gây nên những
đau đớn về thể xác, như là các bệnh kinh niên, bán thân bất toại hoặc tạo ra
những biến chứng trầm trọng, nhưng tâm trí người bệnh vẫn tỉnh táo và như vậy họ
có thể dự phần vào các sinh hoạt tâm linh ở một mức độ nào đó. Sự học hỏi Giáo
Pháp không phải là một hoạt động về lãnh vực thể chất mà đòi hỏi sự vận dụng tâm
trí và một thái độ tâm linh cần thiết. Những ai đang đau đớn có thể được
hướng dẫn để quán tưởng về các đề mục tham thiền như tình yêu thương, lòng
can đảm, về đức tin cũng như tinh thần từ bi, nhân ái; những việc này sẽ
tạo cho họ thêm tin tưởng cũng như làm cho đời sống của họ trở nên có ý nghĩa và
giá trị hơn. Tuy nhiên sự hướng dẫn phải được thực hiện một cách khéo léo.
Thưa Ngài, ta có thể làm được gì khi một
người biết mình đang bị bệnh AIDS hoặc một căn bệnh bất trị khác?
Một lần nữa, theo tôi những phản ứng của một
người trước loại bệnh hoạn như thế đều tùy thuộc vào mức độ tham dự vào những
sinh hoạt tâm linh của họ. Tôi không biết phải nói như thế nào đối với những kẻ
vô thần hoặc không có một niềm tin tôn giáo cụ thể nào. Tuy nhiên điều tôi muốn
trình bày ở đây là dù thế nào đi nữa, chúng ta không nên bỏ rơi hoặc gạt họ ra
bên lề xã hội và như thế ta có thể làm giảm thiểu được sự khổ đau gây nên bởi
cảm giác bị hất hủi, tuyệt vọng, không được che chở nơi họ. Chúng ta phải cho
người bệnh thấy là họ không bao giờ bị gạt ra ngoài. Ðó là trách nhiệm lớn lao
của xã hội.
Nếu một người không còn một mảy may hy vọng
nào sống sót -ví dụ như đang ở trong trạng thái hôn mê chẳng hạn- có phải là
điều quan trọng nếu ta kéo dài sự sống của họ một cách giả tạo? Chúng ta
có tạo nghiệp hay không khi phải chấm dứt sự sống không ngoài mục đích
ngăn chặn những đau đớn không cần thiết khác?
Chúng ta hãy nhìn vấn nạn này trên quan điểm
của người bệnh. Tâm trí của họ có còn tỉnh táo, lý trí của họ có đủ khả năng để
suy luận hay không? Nếu còn đủ, một điều rất quan trọng là ta phải để cho họ
sống, dù chỉ trong một ngày hay một buổi để may ra họ có thể có cơ hội phát
triển trạng thái đức hạnh về mặt tâm linh như lòng từ bi và hỷ xả chẳng hạn.
Trong trường hợp bệnh nhân đang ở trong trạng thái hôn mê bất tỉnh, tâm trí
không còn hoạt động nữa, ta cần nên xem xét một số yếu tố khác, chẳng hạn như ý
muốn của những người thân trong gia đình cũng như quyết định ai sẽ là người
trách nhiệm đứng ra chấm dứt sự sống. Như vậy quả tình vấn đề không phải
là đơn giản, ta không thể có câu trả lời trên căn bản những lời khuyên thông
thường.
Tuy nhiên quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải xem xét động cơ
đàng sau mỗi hành động. Ðạo Phật dạy chúng ta không nên huỷ diệt sự sống của bất
kỳ sinh vật nào. Nếu một người đang đau đớn, họ phải chấp nhận hoàn cảnh khổ đau
đó để thanh lọc nó. Tuy nhiên qủa là một lầm lẫn lớn nếu ta không thèm đếm xỉa
đến nỗi khổ đau của người khác, xem đó là nghiệp qủa mà họ phải gánh chịu và ta
không thể làm gì được. Mỗi chúng ta đã và đang tích lũy một nghiệp qủa riêng. Nó
đã được thu nhận, và tiềm ẩn trong mỗi con người. Tương lai vì thế nằm ở trong
tay của chính chúng ta chứ không ai khác. Những khó khăn trở ngại, những bệnh
tật, khiếm khuyết... là kết qủa của những tác hành mà chúng ta phạm phải trong
quá khứ, rất khó mà trốn chạy được. Ðối diện với bệnh hoạn và khổ đau người ta
thường tìm đủ mọi cách để tránh né chúng, cố làm vơi bớt đi những gánh nặng khó
khăn; và cho dù ngay cả khi trực nhận thấy rằng ta không đủ lực để chữa trị hay
làm khuây khoả, ta phải nên nhớ rằng tất cả những vấn nạn này đều là kết quả của
những tác hành mà ta đã gây ra trong quá khứ.
Làm thế nào để giúp đỡ một người đang ở
trong trạng thái hôn mê ?
Nếu đó là một người có tín ngưỡng, ta nên
giúp họ theo quy cách tôn giáo mà họ đang tu tập. Cá nhân tôi không thể đưa ra
một giải đáp chắc chắn nào trước cả. Riêng đối với quan điểm của một Phật tử,tôi
nghĩ là con người nên biết cách chuẩn bị cho mình trước khi sự việc bi đát xảy
ra bởi vì một khi đã rơi vào trạng thái hôn mê, quả thật là hơi muộn màng khi
nói đến chuyện tâm linh.
Làm thế nào để một người có thể thoát khỏi
tình trạng nghiện rượu?
Theo tôi, tốt nhất là ta nên tìm kiếm lời
khuyên từ những bác sĩ chuyên môn. Tạm thời hãy để qua một bên bất cứ những niềm
tin tôn giáo của người đó, điều dễ dàng nhất là ta cứ nhìn vào và nhận thức được
những tổn hại gây ra do việc rượu chè quá độ cả trên hai bình diện tinh thần lẫn
thể xác, để hiểu được rằng do nghiện ngập ta đã bị người đời xa lánh, cô lập.
Một khi đã có một cái nhìn rõ ràng về mặt bất lợi của việc nghiện rượu và phát
triển được lòng quyết tâm từ bỏ nghiện ngập, tôi tin chắc là bạn có thể thay đổi
được đời mình. Tuy nhiên nếu bạn không đủ ý chí và nghị lực để có được một
thái độ tích cực, tốt nhất là hãy nên đến các trung tâm y khoa chuyên chữa trị
về cai rượu hầu như bây giờ đều có mặt khắp nơi.
Khi một người Tây Tạng giết một con trâu để
nuôi sống gia đình, có phải họ đã gây ra một ác nghiệp? Hoặc khi một cận
vệ phải giết kẻ khác để bảo vệ sinh mạng của Ngài? Chúng ta giải thích như
thế nào về những trường hợp trên?
Dĩ nhiên đó đều là những hành động bất
thiện. Tuy nhiên nghiệp tác động vào mỗi hành động của chúng ta dựa trên nhiều
yếu tố, chẳng hạn như ý hướng thúc đẩy hành động, sự hành động và những ý tưởng
theo sau hành động đó.
Thưa Ngài, những gì được xem như là những
thái độ tình dục không đúng đắn? Ngài nghĩ như thế nào về đồng tình luyến ái?
Tùy thuộc vào các yếu tố như cơ quan sinh
dục, thời gian và không gian mà một số hành động được coi như là không đúng đắn
chẳng hạn như giao cấu không đúng chỗ trên bộ phận của cơ thể hoặc xảy ra không
hợp thời hợp chốn. Ðây là những hành động mà người Phật tử xem là vô luân về mặt
tình dục. Miệng và hậu môn dĩ nhiên không được coi là những bộ phận sinh dục, sử
dụng các bộ phận này trong việc giao cấu, dù nam hay nữ đều được coi như là vô
luân trong tình dục. Ngay cả thủ dâm cũng thế.
Giao cấu vào ban ngày cũng được coi như là vô luân, ngay cả việc
giao cấu với người bạn tình mà họ đang tuân thủ một số nguyên tắc đạo đức, hạnh
nguyện dù chỉ là tạm thời, chẳng hạn như từ khước ham muốn tình dục, sống độc
thân... Bắt buộc người khác phải giao cấu với mình cũng được liệt vào loại liên
hệ tình dục không đúng thời, đúng lúc.
Giao cấu không đúng chỗ nếu được xảy ra tại những nơi như chùa
chiền, chỗ thờ phượng, hoặc bất cứ nơi nào mà một trong những người bạn tình cảm
thấy không thoải mái. Một hành động tình dục được coi là đúng đắn khi đôi vợ
chồng sử dụng các bộ phận chức năng sinh dục trong việc giao cấu, không có một
ngoại lệ nào khác. Làm tình với gái điếm do chính mì nh trả tiền mà không phải
là một người thứ ba nào khác, ngược lại không được xem như là hành vi
không đúng đắn. Tất cả những thí dụ vừa nói nêu ra một số khái niệm thế nào là
đúng và không đúng đắn trong thái độ tình dục theo quan điểm đạo đức của Phật
giáo.
Ðồng tình luyến ái, bất luận là giữa người nam hay người nữ, đều
được xem là những liên hệ tình dục không đúng đắn. Xin được nhắc lại một lần nữa
rằng những gì được coi là không đúng đắn nếu sử dụng các bộ phận không xứng hợp
trong chuyện giao hợp. Vấn đề này như thế có lẽ đã sáng tỏ?
Thưa Ngài, Phật giáo giải thích như thế nào
về vấn đề ý thức đối với các sinh vật bé nhỏ như côn trùng hay vi trùng chẳng
hạn? Phải chăng tất cả các loài hữu tình đều có ý thức? Còn cây cỏ, đất đá thì
sao, chúng có vẻ như là những vật vô tình? Phải chăng cây cỏ cũng có Phật tánh?
Tôi đã từng thảo luận vấn đề này với các nhà
khoa học. Không nhiều thì ít, chúng tôi đã đồng ý với nhau trên quan điểm rằng
mọi vật có thể tự mình chuyển động được -đặc tính mà cây cối không có- đều có ý
thức, linh hồn. Dĩ nhiên rễ cây cũng chuyển động khi chúng phát triển, tuy nhiên
đây không phải là chuyển động tự nó mà chỉ được xảy ra khi cây cối tăng trưởng.
Vì thế ta không thể gọi cây cối là “chúng sanh”, tức là có linh hồn. Tuy nhiên
ta có thể kết luận rằng một tế bào vi tế nhất, tế bào amíp chẳng hạn, vẫn được
coi như là một sinh vật vì nó có khả năng tự chuyển động.
Một khi đã không xem các loại rau cỏ là sinh vật, ta không thể xem
chúng là có Phật tánh. Ðối với một số loài cây ăn thịt, tôi không có khả
năng phán đoán khả năng giăng bẩy bắt mồi của chúng là do chúng có ý thức hay
chỉ là kết quả của một phản ứng thuần túy hóa học. Vấn đề này xin được mở rộng
để thảo luận. Tuy nhiên trong một số trường hợp, người ta không thể không đặt
vấn đề. Ðóa hoa này chẳng hạn, được xem như là loài vô tình -tức là không có
linh hồn- hay là một chúng sanh? Chúng ta thỉnh thoảng được phép nêu lên nghi
vấn bởi vì trong một số kinh sách Phật giáo đã từng đề cập đến các loài chúng
sanh có thể được xuất hiện dưới dạng thể của loài vô tình hay cây cối,v.v... Bởi
lẽ đó, chúng ta cũng không thể khẳng định dứt khoát rằng một đóa hoa có phải là
sinh vật hay không, vì lẽ chúng ta không thể biết được một chúng sanh đang hoá
hiện ra dưới hình thức như thếù.
Phật giáo quan tâm mạnh mẽ đến việc bảo vệ thiên nhiên, cây cỏ,
không phải vì chúng là loài hữu tình, là những tạo vật có thể đánh động lòng
từ bi thương xót nơi chúng ta mà bởi vì thiên nhiên tự nó chính là môi trường
sống, cũng như bảo vệ sự sống còn của muôn loài sinh vật. Nếu một thành phố bị
hỏa thiêu thành tro bụi, có phải là một số lượng rất lớn những mái ấm gia đình
của con người đã bị hủy diệt? Cũng thế, sự tàn phá thiên nhiên cũng chẳng khác
gì hơn, bởi vì một số lượng lớn loài vật sẽ bị mất đi nguồn thực phẩm, chỗ cư
trú, tức là mất đi khả năng sinh tồn.
Ðối với các loài vi khuẩn, theo kinh sách Phật giáo, cơ thể của
chúng ta chứa một số lượng đáng kể. Người ta ước tính ra là có thể có hơn 80,000
loại như thế, đây là một con số khá lớn. Ở vào chiều kích nào, trình độ
tiến hoá nào những vi sinh vật này có thể được coi như là những chúng sanh? Tôi
không thể nói thêm được điều gì ngoại trừ cho rằng các sinh vật bé nhỏ, súc vậr
-nếu chúng ta quan niệm chúng là súc vật hẵn nhiên là chúng phải có một số hình
thức sinh hoạt của loài hữu tình- vì thế chúng ta có thể xem chúng là có linh
hồn.
Thưa Ngài, xin Ngài giải thích cho chúng tôi
khái niệm về cộng nghiệp, ví dụ nghiệp lực của một quốc gia như Cam Bốt, Tây
Tạng? Cộng nghiệp của các quốc gia này đã được biểu hiện như thế nào?
Chúng ta có thể nhận thức được thế nào là
cộng nghiệp của một quốc gia. Thế nhưng cho dù các nghiệp quả được tích lũy của
một cá nhân và chung một nhóm người có thể được phát tác đồng lúc, điều này
không nhất thiết là tất cả nghiệp lực của họ đều được gây ra bởi cùng một thời
điểm giống nhau. Tôi không tin rằng tất cả những nguyên nhân của cộng nghiệp
được tạo ra cùng một lúc mà đó là kết quả của từng cá nhân gây ra ở những thời
điểm khác nhau. Lực của những tác hành này cộng thêm với những yếu tố khác đã
tạo nên cộng nghiệp mà qua đó một nhóm người hay cả một quốc gia phải hứng chịu.
Có một số tội phạm chiến tranh tại các quốc
gia AÂu Châu, cụ thể là Ðông AÂu và một vài quốc gia khác tại Á Châu, như
Cam Bốt, Việt Nam chưa hề bao giờ bị truy tố hoặc ngay cả trong vài trường hợp
nhận được sự khoan hồng trước khi bị mang ra xét xử. Ngài nghĩ như thế nào về
chuyện này?
Thật quả là điều hổ thẹn khi nhìn thấy một
số quốc gia vừa mới được giải thoát khỏi ách chuyên chế độc tài hồi gần đây lại
quay ra oán hờn và trả thù trả oán lẫn nhau trong khi lẽ ra người ta nên chấp
nhận và tha thứ cho nhau. Ðối với các quốc gia vừa mới được hưởng tự do dân chủ,
đây không phải là thời điểm để rửa hờn và thanh thỏa chuyện cũ. Trái lại đây
chính là lúc cần tập trung nỗ lực để xây dựng quốc gia, tái tạo xã hội. Tôi vẫn
luôn nêu lên những cảm nghĩ này mỗi khi có dịp thăm viếng các quốc gia đó. Riêng
tại Trung quốc, mặc dù nền kinh tế đã được giải phóng nhưng họ vẫn theo đuổi một
chế độ chính trị độc tài áp bức. Tình trạng vi phạm nhân quyền xảy r a khắp nơi,
đặc biệt là tại các khu vực của sắc dân thiểu số, cụ thể là Tây Tạng, trên
thực tế là một quốc gia đang bị họ chiếm đóng.
Tôi rất mực hoan hỷ và khâm phục các hoạt động cao quý của
những tổ chức như Hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) đã làm việc
với tinh thần cực kỳ thành khẩn, rất có hiệu quả và nhiệt tình trong lãnh vực
bảo vệ quyền làm người.
Thưa Ngài, Ngài đã từng nói đến việc tài
giảm vũ khí cần đi đôi với việc giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của
mỗi con người. Chúng tôi rất muốn được biết thêm làm thế nào đểø giải trừ quân
bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi người trong khi chúng ta hàng ngày đã phải
đối mặt với kẻ thù, và hận thù thì ngự trị khắp nơi. Trong cuốn sách The Ways of
the Heart, Ngài có gợi ý về việc thành lập một quân lực quốc tế cho tương lai.
Như vậy tổ chức này theo Ngài, sẽ hoạt động như thế nào trong khi Ngài là người
chủ trương bất bạo động? Ðội quân này có được võ trang hay không?
Mọi người đều biết rất rõ rằng khả năng giết
chóc lẫn nhau giữa con người vẫn còn tồn tại khi nào mà vũ khí vẫn còn vung lên
giữa các quốc gia hay đơn giản hơn ngay trong nội bộ của chính mỗi quốc gia. Dù
bất cứ trường hợp nào đi nữa chúng ta cũng cần phải làm một cái gì đó để chận
đứng tệ trạng buôn lậu vũ khí bởi vì tình huống ngày càng trở nên kinh khủng và
vô trách nhiệm. Hãy suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh đến các vấn nạn về quân bị và
vũ trang: Nếu nhìn vấn đề một cách thấu đáo ta thấy rằng các học viện quân sự là
nguyên nhân chính gây nên tình trạng đổ vỡ hủy diệt và mối kinh hoàng ngự trị
trên trái đất này bắt nguồn từ vũ khí. Thế nên mối hiểm họa xung đột vẫn luôn
luôn có cơ may xảy ra khi mà các trung tâm quân sự vẫn còn hiện hữu, dù là ở phe
này hay phe kia.
Ðó là lý do giải thích tại sao việc giải trừ quân bị là điều cần
thiết, dĩ nhiên cần được tiến hành từ từ từng bước một. Ðầu tiên nên bắt đầu
bằng việc giải giới vũ khí nguyên tử, tiếp theo là loại bỏ các loại vũ khí hóa
học, sinh học và cuối cùng là các loại vũ khí của chiến tranh quy ước.
Trước hết ta cần phải có sự đảm bảo quốc tế để theo dõi tiến trình này, kể cả
kiểm soát việc buôn bán vũ khí, lãnh vực mà không thiếu gì những kẻ vô lương tâm
đang hoạt động. Ðể giám sát việc giải trừ quân bị, có thể là chúng ta cần có một
cơ quan pháp lý, hình thức giống như cảnh sát quốc tế. Tổ chức Liên Hiệp Quốc
gần đây đã tham dự khá nhiều vào các hoạt động quân sự giải phóng, chúng ta cũng
cần một lực lượng như thế trong phạm vi khu vực hay toàn cầu để giám sát công
tác hoàn toàn giải trừ quân bị một quốc gia. Lực lượng hỗn hợp này trong ý tưởng
của tôi chẳng khác gì lực lượng kiểm soát hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Với cung
cách này mỗi chúng ta có thể sẽ trở thành một vị Bồ Tát, và dĩ nhiên, lực lượng
này không cần phải trang bị vũ khí! Tuy thế tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề rất
khó khăn.
Có thể một số người đã không hiểu ý nghĩa của việc giải trừ quân bị
ngay chính trong tâm hồn của mỗi con người. Theo tôi, kẻ thù tồi tệ nhất cuả
chúng ta là sự thù hận. Ðó cũng chính là kẻ thù của sự an bình tâm hồn,
của tình thân hữu và hoà điệu giữa con người, là ba yếu tố then chốt trong việc
triển khai tích cực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp. Hận thù phải được tiết
giảm để cho từ bi và thiện cảm lên ngôi. Ðó chính là khái niệm về giải trừ quân
bị trong tâm hồn mà tôi đã từng đề cập.
Thưa Ngài, xin Ngài nêu bật những đặc điểm
của nhân loại?
Dĩ nhiên đây là câu hỏi liên quan trực
tiếp đến thực tại của thế giới hiện tượng vốn có nhiều mức độ khác nhau. Ở mức
độ cao nhất, chúng ta không thể nào tìm ra được sự hiện hữu tuyệt đối của cái mà
ta gọi là thực tại.
Tuy nhiên thông thường mà nói, tôi luôn cho rằng thực tính của nhân
loại chính là lòng nhân ái. Giáo dục và kiến thức đồng thời cũng mang lại những
phẩm chất tốt đẹp khác, thế nhưng nếu ta muốn trở thành một con người đúng nghĩa
cũng như mang lại ý nghĩa thoả đáng cho sự hiện hữu của mình, ta cần phải có
thiện tâm.
Cái gì nối kết Pháp với hạnh phúc? Phải
chăng là cảm thụ?
Khi nói đến hạnh phúc ta nói đến hai trạng
thái khác nhau: thứ nhất, hạnh phúc được hiểu như là một cảm giác hài lòng thỏa
mãn, một thứ kinh nghiệm dễ chịu; mặt khác, hạnh phúc còn là những gì mang lại
cho tâm hồn ta những hân hoan sâu lắng hơn. Khi bạn tưởng đến Pháp và đi vào
thực hành, bạn được xem như là đang tích lũy công đức, bởi vì tất cả mọi loại
hạnh phúc và thỏa mãn đều là kết qủa trực tiếp hay gián tiếp của các tác hành
tích cực, tốt đẹp. Tôi có cần phải khẳng định thêm một lần nữa rằng tham dự vào
các hoạt động tinh thần lành mạnh là con đường ngắn nhất dẫn đến an lạc, thanh
thản tâm hồn? Bình an, thanh thản tâm hồn có thể không nhất thiết được cảm nhận
như là một cảm giác đặc biệt, thế nhưng nó xúc tác trên cảm xúc thể chất tạo ra
niềm vui, hạnh phúc. Thanh bình và an lạc của Niết Bàn không tạo ra một thực
trạng thuộc về thế giới cảm xúc mà là một trạng thái hoàn toàn giải thoát khỏi
khổ đau cùng những mối dây ràng buộc ta vào vòng luẩn quẩn của sinh tử luân hồi.
Từ cái nhìn này, đây chính là trạng thái hạnh phúc vĩnh cữu. Phật qủa vì thế
cũng đồng nghĩa với cực lạc, tuyệt đối hạnh phúc. Nếu qúy vị muốn đi một
bước xa hơn và hỏi tôi: Như vậy cái gì là bản chất của cái gọi là cực lạc này ?,
tôi bắt buộc phải trả lời rằng đây là điều không thể thấu đáo, không thể nghĩ
bàn, hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng tinh thần của chúng ta.
Làm thế nào để có thể phát triển được sự can
đảm tinh thần? Phải chăng đây là một thuộc tính tích cực?
Không còn nghi ngờ gì nữa, can đảm là một
thái độ tích cực và cần thiết. Nếu bạn thiếu can đảm, hãy luôn luôn tự nhắc nhở
mình: “Tôi sẽ can đảm, Tôi sẽ can đảm,” vàphải kiên trì suy nghĩ như thế mãi.
Lòng can đảm có thể được phát triển bằng cách nào? Trước tiên bạn
phải có khả năng nhận biết mỗi loại tình cảm để có thể cô lập những loại thường
gây kích động và phiền nhiễu đến tâm hồn của mình. Bạn biết được loại tình cảm
tiêu cực này, thường là những loại tình cảm vụn vặt không quan trọng -không hợp
lý, không chính đáng, làm cho tâm hồn của bạn phản ứng một cách bối rối, kích
động. Trong khi đó các loại tình cảm khác như lòng từ bi, tình thương, nhân ái
là những tình cảm căn bản lành mạnh và tích cực. Nếu luôn suy nghĩ đến chúng sẽ
làm bạn tăng trưởng lòng can đảm và sức mạnh đạo đức; và khi bạn quán tưởng
sâu xa đến bản chất bất toại của chu kỳ cuộc sống, nó sẽ dấy lên trong lòng bạn
những tình cảm đột biến thay đổi sâu xa, tạo nên một nhu cầu khẩn thiết phải tự
giải phóng cho chính mình ra khỏi những hệ lụy đó.
Xu hướng mạnh mẽ này mà mục tiêu chính là nhằm giải thoát mình ra
khỏi vòng sinh tử luân hồi, chính là điều mà tôi cho là trạng thái tích cực của
tâm hồn -không nhất thiết là bạn phải đạt đến 100%- bởi vì nó được bắt nguồn từ
một tiến trình tư duy lành mạnh cũng như những lý luận đã được thực chứng bởi
kinh nghiệm. Cũng như khi ta phân chia việc tu tập Ðại thừa ra làm hai phạm vi:
pháp, cũng còn được gọi là phương tiện thiện xảo, và trí huệ- tôi nghĩ là chúng
ta có thể đồng hoá những phẩm chất này với pháp và xem trí thông minh như là trí
huệ. Chắc chắn là pháp tương ứng với những khía cạnh tích cực của phản ứng và
trí huệ chính là sự biểu hiện trí thông minh của chúng ta.
Bây giờ nói đến chuyện làm thế nào để phát triển lòng can đảm, đây
qủa là một vấn đề khó nuốt! Tuy nhiên thực ra, tôi tin một cách chắc chắn rằng
toàn bộ cuốn Nhập bồ đề hành kinh (Bhodicharyavatara) của Bồ Tát Tịch
Thiên (Shantideva), ngay từ những dòng đầu tiên của chương nhất cho đến đoạn
cuối của chương mười và phần kết luận đều nêu lên chủ đề về con đường đưa đến
tỉnh thức cũng như phương thức tu dưỡng lòng can đảm và quyết tâm. Tuy nhiên tùy
theo căn cơ, tâm tính và trình độ thông minh khác nhau của mỗi cá nhân, có người
có thể ưa thích giá trị của kỹ thuật được đưa ra trong cuốn sách này nhưng cũng
có người lại chọn một đường lối khác hơn.
Tôi hoàn toàn tâm đắc với câu nói sau đây của Geshe Potawa: “Vòng
luân hồi sinh tử không có điểm khởi đầu cũng như nguồn gốc cho nên nó không thể
tự chấm dứt. Ta không thể so sánh nó như một trái cây trên cành, cho dù không ai
chăm sóc vẫn lớn lên, chín tới và rơi rụng khi bắt đầu thối rửa.” Thế cho nên
một khi bạn cảm thấy chán ngán cái vòng luẩn quẩn của tử sinh và có ý hướng muốn
tìm cách phá vỡ nó để thoát ra, thật là sai lầm khi khoanh tay ngồi chờ sự giải
thoát tìm đến với bạn. Thời gian tự nó không thể mang đến sự chấm dứt của vòng
sinh tử. Bạn phải là người chủ động từ đầu; bạn phải khởi đi một cách có ý thức
từ bước đầu tiên nhằm đảo ngược tiến trình của vòng luân hồi sinh tử. Khoanh tay
ngồi chờ dòng sinh tử tự chấm dứt chỉ là hy vọng hảo huyền, nếu không nói
là biểu hiện của một cuộc sống vô nghĩa.
Thưa Ngài, vô chấp và vô phân biệt khác biệt
nhau như thế nào?
Hoàn toàn khác nhau. Vô phân biệt bao hàm
một thái độ hoàn toàn xả bỏ trước đối tượng, trong khi vô chấp vẫn còn mang một
vài vướng mắc, dính líu.
Ðể làm sáng tỏ vấn đề, ta nên hiểu thế nào là chấp trước. Có hai
loại chấp trước: Loại thứ nhất được gây ra do trạng thái tâm hồn bị quấy đục bởi
dục vọng hoặc các yếu tố tâm linh tiêu cực khác và do đó cần phải được loại bỏ.
Loại thứ hai là sự lôi cuốn bởi các đối tượng của lòng từ bi -sự lôi cuốn này
không phải là kết quả của những tình cảm hay tư tưởng tiêu cực- do đó cần
phải được đào sâu và củng cố.
Khi chúng ta thực tập thiền định về tánh không, chúng ta làm công
việc giải trừ những kiến thức sai lầm về hiện tượng và sự vật, những kiến thức
sai lầm đã làm cho chúng ta tin chắc rằng mọi vật đều bền vững và hiện hữu một
cách độc lập. Thật là điều quan trọng để sửa chữa những kiến giải sai lầm này,
tuy nhiên trong nỗ lực nhằm nâng cao tiềm năng của những phẩm chất lành mạnh và
tích cực cũng như loại bỏ các xu hướng tiêu cực, độc hại trong mỗi chúng ta, quả
là điều khó khăn khi giữ cho ý thức của ta luôn luôn tỉnh táo để có thể phân
biệt được cái nào nên trau dồi cái nào nên loại bỏ. Những tính năng phân biệt
của chúng ta như thế vẫn còn nguyên vẹn.
Cũng cùng một tâm cảnh như thế, vị Bồ tát phải nhổ đến tận gốc rễ và
loại bỏ hoàn toàn tính kiêu căng tự phụ. Một vị Bồ tát khiêm nhường phải tự hạ
mình trước mọi loài chúng sanh, đây là điều hoàn toàn tự nhiên. Ðiều này chẳng
mảy may cản trở cái năng lực phi thường và lòng dũng cảm tuyệt vời
của Bồ tát trong tâm nguyện giải thoát mọi loài chúng sanh ra khỏi khổ nạn.
Tâm đại từ bi này, vốn đã không còn bị vướng mắc bởi mọi hình thức chấp trước
tiêu cực, là một thí dụ chứng tỏ cho thấy thái độ dính líu tích cực ở một mức độ
quan trọng lớn lao hơn cho phúc lợi của kẻ khác thay vì cho hạnh phúc của riêng
cá nhân mình.
Một người biết sử dụng trí thông minh của mình song song với việc
thực hành tu dưỡng tinh thần, tức là nếu cần thiết, sử dụng cả pháp cùng với
những tính năng sáng tạo của tâm thần, họ sẽ học được cách khám phá ra những sắc
thái vi tế giữa một bên chỉ biết chăm sóc đến bản ngả của mình, một hình thức
của chấp trước, và bên kia là những tình cảm cao thượng biết cống hiến đời mình
cho hạnh phúc tha nhân. Chỉ có sự hoà hợp duy nhất giữa pháp và trí huệ
mới có thể đưa ta đến sự phát triển các tính năng vững chắc của nhận thức phân
biệt. Thế cho nên tôi thường phát biểu rằng khi nói đến bản ngã tức là cũng đồng
thời nói đến một ý thức tự giác vững mạnh. Một trong những hình thức biểu hiện
của ngã tức là không quan tâm đến kẻ khác, không thèm đếm xỉa đến hạnh phúc của
tha nhân và đi xa hơn nữa là khai thác mọi cơ hội nhằm mang đến lợi nhuận cho cá
nhân mình, miễn sao cho mình vui thích là đủ! Thái độ tinh thần này dứt khoát là
rất tiêu cực, cần phải loại trừ.
Ngược lại, một khía cạnh khác của ngã có thể được xem như là sự biểu
hiện của niềm tự tin lớn lao, loại niềm tin khiến chúng ta có thể nói một cách
mạnh dạn rằng: “Tôi có thể làm được việc này, việc kia. Tôi có khả năng mang lại
những điều tốt đẹp cho mọi người. Tôi có thể đạt đến hoàn toàn giác ngộ để cứu
độ chúng sanh.” Loại tình cảm này chắc chắn là không thể bị loại bỏ mà
ngược lại cần phải được phát triển và củng cố. Như thế, những tiến bộ trên hành
trình tu tập sẽ giúp cho tâm hồn ta ngày càng thư giản, tỉnh lặng cùng một lúc
với trạng thái hoàn toàn tỉnh thức, sáng suốt biểu hiện khả năng quán chiếu nội
tâm và tập trung trí tuệ cao độ.
Thưa Ngài, có gì khác biệt giữa giận dữ và
hận thù?
Cá nhân tôi phân biệt hai thứ tình cảm loạn
động này như sau. Hận thù phát sinh ra do nỗi oán hận người mà động cơ thúc đẩy
chắc chắn không bao giờ phát xuất từ lòng từ bi. Tình cảm này vì thế phải được
hoàn toàn loại bỏ. Giận dữ mặt khác chỉ là hệ quả của một phản ứng tình cảm cấp
thời,mà theo kinh điển, vẫn có thể được sử dụng trong hành trình tu chứng. Giận
dữ trong một vài trường hợp có thể được coi như là sự biểu lộ của lòng từ bi
chẳng hạn như được sử dụng như là một chất xúc tác hay là một sức thúc đẩy cần
thiết trước một hành động khẩn cấp.
Xin Ngài định nghĩa về khái niệm thế nào là
có một kẻ thù?
Khi bạn “đỏ
mặt” lên vì giận dữ một người nào đó, hãy hỏi cái tâm trạng nóng giận của bạn
lúc đó kẻ thù là cái gì? Trong cuốn Nhập bồ đề hành kinh của Shantideva
(Bhodicharyavatara), chương nói về lòng khoan dung và nhẫn nhục đã có một định
nghĩa rất rõ về kẻ thù, tức là người trực tiếp hăm dọa đến đời sống của ta, của
bạn bè quyến thuộc, của tất cả những gì là tài sản, sở hữu của ta, v.v... Bạn
của những kẻ thù ta cũng được xem như là kẻ thù. Tuy nhiên với phương pháp
tu tập chuyển hoá tư tưởng (Tây Tạng gọi là lodjong), một người có thể thiết lập
được mối tương quan bình đẳng không phân biệt giữa mình và người khác, và do đó
đi đến nhận thức rằng không có gì được gọi là thù hay bạn. Ðây không phải là sự
phủ nhận sự hiện hữu của khái niệm bạn thù: Thù vẫn là thù, bạn vẫn là bạn. Tuy
nhiên phương pháp tu tập này chỉ cho ta thấy rằng ta không có lý do gì để phải
giận dữ bất cứ ai được coi như là kẻ thù của ta, cũng như không nên vướng
mắc vào một lối đối xử đặc biệt nào đối với những người được ta coi như là bạn
bè, quyến thuộc. Nhìn ở góc cạnh này, hắn ta là kẻ thù của tôi vì hắn đã gây nên
những thiệt hại cho tôi, nhưng nhìn ở một góc cạnh khác, tôi có thể xem y như
một người bạn vì y đã cho tôi cơ hội thực tập nhẫn nhục và phát triển lòng khoan
dung. Với quan điểm này ta không còn xem y như là kẻ thù địch, mà ngược lại rất
hữu ích, hữu dụng đối với ta.
Dựa trên
những giáo lý Phật giáo, làm thế nào để chúng ta học hỏi được những kinh nghiệm
về các hành vi bạo động, như chiến tranh chẳng hạn?
Ðiều quan
trọng nhất là tránh chuyện sát sanh. Ý tưởng cho rằng một người có thể được
quyền tước đi mạng sống của kẻ khác phải được hoàn toàn tẩy sạch trong tâm trí
của mọi người.
Việt dịch: Tâm Hà Lê
Công Đa
(Trích: Beyond Dogma-Vượt Khỏi Giáo Điều)