Chân đế thứ tư: Vòng tròn Bát chánh
Giả sử chúng ta dùng hình ảnh một
cuộc hành trình để biểu thị cho sự tầm đạo. Có một tấm bản đồ chánh mà đức Phật
để lại cho chúng ta, cho hành trình đi đến hạnh phúc và an lạc, được gọi là
Bát chánh đạo, tức Con đường của Tám nguyên tắc hành động chân chánh.
Nhưng tôi thường nghĩ ta nên gọi là Vòng tròn bát chánh thì đúng hơn.
Con đường thì phải đi từ nơi này
đến nơi kia, và khi đến gần nơi kia hơn, ta sẽ cách xa nơi này hơn.
Và con đường thì có tính cách tiến triển từng bước một. Cũng như một cái thang,
ta không thể đột nhiên nhảy ngang vào nấc thứ năm rồi bắt đầu leo lên được. Trên
một con đường thật sự cũng thế, ta phải bắt đầu từ điểm khởi đầu và tiến bước
đều đặn có thứ tự cho đến điểm cuối cùng. Nhưng với một vòng tròn thì ta có thể
bắt đầu ở bất cứ điểm nào, và nó cũng vẫn nằm trên cùng một vòng tròn.
Khi giảng về con đường Bát
chánh của ngài, đức Phật dạy rằng nó có một số những tính chất đặc biệt.
Người ta có thể vững tin là mình đang đi đúng đường nếu thấy được một trong tám
bảng hiệu đặc biệt. Tám bảng chỉ đường đó là: thấy biết chân chánh (chánh
kiến), suy nghĩ chân chánh (chánh tư duy), nói năng chân chánh (chánh
ngữ), hành động chân chánh (chánh nghiệp), mưu sinh chân chánh (chánh
mạng), siêng năng chân chánh (chánh tinh tấn), thiền định chân chánh
(chánh định), và nhớ nghĩ chân chánh (chánh niệm).
Người du khách nhìn thấy một
trong những bảng chỉ đường này sẽ biết là mình đang đi về hướng của an lạc và
hạnh phúc.
Thứ tự mà du khách nhìn thấy
những bảng ấy trên đường không quan trọng. Vì nếu nhìn cho sâu sắc ta sẽ thấy rõ:
Trong một cái có tàng chứa tất cả những cái khác. Chỉ cần một chút của sự
thấy biết chân chánh thôi, ví dụ như một ý nghĩ
cho rằng ta có thể có an lạc cho dù không được thoả mãn, sẽ khơi dậy sự suy
nghĩ chân chánh thúc đẩy ta cố gắng siêng năng chân chánh để phát
triển thêm sự thấy biết chân chánh ấy. Và bất cứ một ai muốn tu tập
nói năng chân chánh, muốn mỗi lời mình nói ra đều hữu ích và đúng với sự
thật, sẽ khám phá rằng ta không thể nào không có sự nhớ nghĩ chân chánh.
Nhớ nghĩ chân chánh có nghĩa là biết chú ý trong mỗi giây mỗi phút, và những
ai thực tập điều đó đều biết rằng nó cần phải có sự thiền định chân chánh.
Ta không thể nào nói rằng, “Bát chánh đạo sao phức tạp quá. Tôi chỉ muốn
tu Nhất chánh đạo thôi!” Việc ấy không thể nào có được. Tất cả đều có
liên hệ mật thiết với nhau.
Vì vậy, trên hành trình đi đến an
lạc và hạnh phúc, bạn có thể bắt đầu ở bất cứ điểm nào. Tôi cũng hơi do dự về
việc gọi sự tu tập ấy là một vòng tròn. Vì một vòng tròn, cho dù là nhỏ bé, cũng
choáng một khoảng không gian. Và không gian sẽ tạo nên một ý niệm về nơi này
và nơi kia. Thật ra chẳng có một nơi kia nào hết. Khi chúng
ta tỉnh thức và an lạc, chúng ta đang thật sự sống ở nơi này hơn bao giờ
hết. Nhưng vì sự tỉnh thức ấy có xảy ra và sự tu tập có hiệu quả, nên chúng ta
cần phải gọi đó là gì. Tôi nghĩ có lẽ ta nên gọi đó là Bát chánh điểm.
Chánh kiến: Bạn tôi Alta và vô thường
Khi người ta nói đến phương thức
tạo hạnh phúc của đức Phật, người ta thường bắt đầu bằng sự thấy biết chân
chánh, tức chánh kiến. Thấy biết chân chánh có nghĩa là tin rằng, ít
nhất cũng đôi chút, là tuy cuộc sống có nhiều sự thất vọng không tránh được,
nhưng ta vẫn có thể có hạnh phúc. Khi nghe vậy, có nhiều người chú ý ngay đến sự
kiện là có một phương thuốc chữa trị cho nỗi khổ trong cuộc đời, nhưng lại miễn
cưỡng không muốn nghĩ đến cái phần không tránh được kia.
Nhưng chính cái phần không tránh được ấy mới thật sự có một công năng khai phóng,
vì không có nó chúng ta sẽ nghĩ rằng mọi việc có thể tốt đẹp mãi mãi, nếu ta
biết khôn khéo hoặc biết cố gắng đúng mức. Nhưng không có gì sẽ hoàn hảo mãi mãi,
vì không có gì trên đời này là thường hằng cả.
Ý thức về vô thường là một thành
phần chủ yếu của tuệ giác. Và mặc dù đức Phật đã giảng dạy rất nhiều việc, nhưng
chính ra đức Phật đã dạy về lý vô thường trong hơi thở cuối của ngài. Truyền
thuyết kể rằng, đó là lời nói trước câu tuyên bố cuối cùng mà đức Phật để lại
trước khi ngài nhập diệt: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường.” Có
nghĩa là: “Mọi vật đều thay đổi.”
Bác Alta, bạn của tôi, mất
khi được bảy mươi chín tuổi. Tôi gặp bác khoảng hai mươi lăm năm trước đó, khi
bác ghi tên học lớp yoga do tôi hướng dẫn. Bác bảo tôi: “Ông nhà tôi vừa
mới mất sau một thời gian dài bệnh hoạn, và bây giờ thì tôi bắt đầu xây dựng đời
mình lại từ đầu.”
Bác trở nên ham thích học những
lớp về tâm linh và theo học hết những khóa do tôi hướng dẫn. Có lẽ bác cho rằng
tôi là thầy của bác, nhưng thật ra bác mới chính là thầy của tôi.
Câu chuyện về bác Alta
bắt đầu biến đổi khoảng mười năm trước đây. Bác bị đau lưng, có lẽ trong một
chuyến chạy bộ ba dặm Anh thường ngày của bác, và vì cơn đau khá dữ dội, bạn của
bác thuyết phục bác nên đi khám bác sĩ.
“Lần cuối bác đi khám sức khoẻ là
lần nào?” Bác sĩ hỏi.
“Chắc cũng đã ba mươi lăm năm rồi.”
Bác Alta đáp.
Đôi lông mày của vị bác sĩ hơi
nhướng cao. “Ba mươi lăm năm? Thế còn bác khám ngực và thử mammograms
thì sao?”
“Tôi chưa thử bao giờ.”
“Còn những ‘thay đổi khác’ thì
như thế nào?”
“Tôi đã trải qua hết.” Bác trả
lời.
Trải qua những biến cố đổi thay
trong cuộc đời là việc mà bác Alta sành sỏi nhất, và với khả năng ấy, bác
là một gương mẫu cho tôi. Chúng tôi đã trở thành bạn thân, bỏ ra nhiều ngày mưa
mùa đông trong phòng khâu vá của bác, thường là để may quần áo cho tôi. Tôi kể
cho bác nghe về gia đình của tôi, và bác kể chuyện của bác – những câu chuyện mà
phụ nữ thường hay tâm sự với nhau trong khi may vá.
Tôi thường cảm thấy nhẹ nhõm khi
thấy những chuyện tôi cho là một vấn đề, đối với bác lại chẳng đáng gì hết. Và
tôi để ý thấy bác có thể kể cho tôi nghe về những khó khăn trong gia đình bác,
mà tôi thấy thật to lớn, trong khi bác vẫn điềm đạm may vá không trật một
đường kim. Tôi biết bác buồn, nhưng bác vẫn có vẻ thoải mái. Tôi thường hỏi:
“Bác không bất mãn sao?” Bác trả lời: “Mình đã làm hết những gì có thể làm rồi
thì bực mình cũng chẳng có ích lợi gì.”
Khi chúng ta thật sự hiểu rằng
bất cứ một việc gì rồi cũng thay đổi, ta sẽ có được một cái nhìn sáng suốt hơn
đối với những biến cố xảy ra trong đời mình. Giả sử như khi gặp một hoàn cảnh
khổ đau nào ta không thể thay đổi được, ít nhất ta cũng có một niềm tin là nỗi
đau ấy sẽ không kéo dài mãi mãi. Nhiều khi, chính cái ý nghĩ cho rằng nỗi
đau sẽ không bao giờ chấm dứt đã khiến ta không thể chịu đựng nổi. Khi an ủi
những ai đang chịu tang, người ta thường nói: “Thời gian sẽ chữa lành tất cả,”
nhưng người nghe khó có thể tin được việc ấy. Trong cơn đau, chuyện ấy thấy mơ
hồ quá.
Chánh kiến có nghĩa là ta cảm
thấy khổ đau nhưng vẫn nhớ rằng nỗi đau nào cũng có một giới hạn, và từ đó ta
tìm được an ủi. Và, khi mọi việc là hạnh phúc, ngay cả cực kỳ hạnh phúc, ý thức
về vô thường sẽ không làm giảm bớt niềm vui của ta, mà còn làm tăng trưởng nó
thêm nữa.
Chánh tư duy: Thực tập sự khác biệt
Nhiều năm trước đây, khi tôi mới
được hơn hai mươi tuổi, đi phi cơ đối với tôi vẫn còn là một cái gì mới lạ lắm.
Tôi bay đến thành phố Newyork từ
Atlanta,
Georgia.
Hôm ấy trời mưa to, và chiếc phi cơ chong chóng của tôi không bay cao hơn mây,
nên chúng tôi bị dằn vặt dữ lắm. Tôi ngồi bám cứng lấy chỗ gác tay trên ghế,
nghiến chặt răng, cứ thỉnh thoảng lại đếm nhịp tim của mình, và mong từng phút
cho đến khi phi cơ đáp.
Một “bà đứng tuổi” trong chiếc
ghế cạnh bên (có lẽ cũng khoảng tuổi tôi mà thôi) ngồi bất động, nhận đĩa ăn
trưa từ cô tiếp viên hàng không, và múc ăn. Tôi tự hỏi: “Sao cô ta chẳng sợ gì
hết vậy?” Sau khi phi cơ vừa chạm bánh xuống phi đạo của phi trường Newyork,
tôi thở phào nhẹ nhõm: “Cám ơn thượng đế!” Cô ta quay sang tôi và mỉm cười:
“Đúng vậy!”
Đó là một bài học thật đáng để
tôi nhớ mãi. Cô ta có sợ đó chứ, nhưng cô vẫn thưởng thức được bữa trưa của mình!
Bạn của tôi,
Elizabeth, bị giải phẩu ung thư ngực mười năm trước
đây. Trong khi tôi và Jim, chồng chị, đứng chờ ngoài phòng hồi sức, mấy
cô y tá ghé qua báo cho chúng tôi nghe tin tức về chị và kể lại là thấy chị rất
vui tươi khi được đẩy vào phòng mổ. Họ tỏ vẻ khâm phục sự thoải mái và thái độ
không sợ sệt của chị. Sau này tôi nói lại cho
Elizabeth
nghe về chuyện của mấy cô y tá kể. Tôi hỏi: “Có thật là chị không sợ hãi một
chút nào không?” Chị cười to và nói: “Tôi sợ khiếp đi đó chứ, nhưng tôi nghĩ làm
cho người khác bất an chẳng có ích lợi gì.”
Cô bạn ngồi trên phi cơ cũng như
chị Elizabeth,
cả hai đã không hề chối bỏ cảm xúc của mình. Cả hai nào có ưa thích gì về chuyện
xảy đến cho họ, nhưng họ cũng không có một sự chọn lựa nào khác. Sự chọn lựa duy
nhất mà họ có là thái độ trong việc sử dụng thời gian ấy. Có được khả năng để
chọn lựa một thái độ, một phong cách, đối với tôi, dường như là một tự do lớn.
Có lẽ đó là ý nghĩa sâu sắc nhất của câu “tự do chọn lựa.”
Suy nghĩ chân chánh, tức chánh
tư duy, là những gì phát huy trong tâm thức khi chúng ta hiểu rằng mình có
sự tự do chọn lựa. Sự sống lúc nào cũng sẽ khai mở theo đường lối của nó: dễ
chịu hoặc khó khăn, thất vọng hoặc vui tươi, biết trước được hoặc bất ngờ...
hoặc tất cả những cái vừa kể! Hạnh phúc biết bao khi biết rằng, bất cứ một làn
sóng nào từ biển khơi xô đến ta cũng có thể vui vẻ cưỡi lên nó được. Nếu thiện
nghệ hơn một chút, ta có thể như những người cưỡi ván lướt sóng (surfer)
chuyên môn, mừng vui mỗi khi được gặp những cơn sóng to.
Áp dụng sự suy nghĩ chân chánh
vào đời sống hằng ngày có nghĩa là ta cương quyết hành xử sao cho có thể nới
rộng giới hạn của những phản ứng bị điều kiện của ta. Nếu muốn có những bắp thịt
nở nang, tôi cần phải tận dụng hết mọi cơ hội để tập thể dục. Nếu muốn có một
lối sống thương yêu, rộng lượng và không sợ hãi, tôi cần phải thực tập khắc phục
những khuynh hướng giận dữ, tham lam hoặc mê lầm trong tôi. Cuộc đời là một
phòng tập thể dục tuyệt diệu. Mỗi hoàn cảnh là một cơ hội tu tập. Trong thuật
ngữ của nhà Phật, đó còn được gọi là phát triển sự vô tham, vô sân
và vô si.
Tha thứ
Bà ngoại của Ronna
đã không thực tập vô sân. Trong suốt ba mươi năm cuối đời, bà mang trong lòng
một nỗi hận câm lặng đối với mẹ của Ronna. Sự căm hận ấy vẫn tiếp tục mặc
dù ký ức của bà đã phai mờ. Một hôm, lúc gần kề với cái chết, bà cụ hỏi Ronna:
“Con có nhớ ta giận mẹ con về việc gì không?” Ronna
nhớ, nhưng cô ta thấy nhắc lại cũng chẳng ích lợi gì nên cô đáp: “Không, con
cũng không nhớ nữa!” Bà ngoại cô nói: “Ta cũng quên mất rồi, nhưng ta nhớ là ta
giận nó lắm!”
Tập dượt “bắp thịt” sân hận nhiều
đến độ nó tự hoạt động một mình, chuyện ấy tôi thấy tội nghiệp quá! Tôi bất mãn
nhất là mỗi khi nghe ai nói: “Ngày nào tôi vẫn còn sống, tôi sẽ không bao giờ
tha thứ cho người đó!” Tôi tự nghĩ: “Thật tội nghiệp cho cô ta. Cô đã bị người
kia làm đau khổ, và bây giờ cô còn định ôm giữ nỗi đau ấy mãi bằng cách tôn thờ
nó trong ký ức.”
Việc ấy gợi tôi nhớ đến những
cảnh trong loại phim cao bồi được quay vào thập niên 40, có vị cảnh sát trưởng
bắt một tội phạm nhốt vào xà-lim và đóng cửa lại, nhưng không khóa. Điều
khôi hài là người tù la lối và khua những chấn song sắt ầm ĩ, trong khi khán giả
đều biết rằng anh ta chỉ cần đưa tay mở cửa là có thể bước ra.
Nhưng đôi khi tôi thấy người ta
còn làm những chuyện tệ hơn là chỉ khua những chấn song. Thay vì tự giải cứu,
chúng ta lại khư khư ôm giữ lấy cơn giận mà ta cho là chính đáng, bằng cách cứ
nhắc đi, nhắc lại những đau buồn của mình. Việc đó cũng giống như là ta đang cầm
cây chìa khóa trong tay, vói tay tự khóa nhốt mình lại, rồi quăng chiếc chìa
khóa ra ngoài xa.
Trong một bài pháp đức Phật giảng
tại vườn Jetavana, ngài dạy, những ai cứ tiếp tục nghĩ về những lúc mình
bị lạm dụng hoặc bị làm xấu hổ, sẽ không bao giờ có thể giải thoát ra khỏi sự
sân hận. Và những ai có thể buông bỏ những tư tưởng ấy, ngài dạy tiếp, sẽ có thể
biết thương yêu.
Có lần tôi đang giải thích điều
này cho một lớp của tôi, thì có một cậu học trò nói to: “Lẽ dĩ nhiên, thưa cô.
Tha thứ là cái giá mà ta phải trả cho sự tự do.” Tôi nói: “Tom, câu ấy hay lắm.
Tôi có thể dùng nó để đi dạy được không?” Cậu ta đáp: “Được chứ, nhưng cô phải
nhớ nhắc là ‘Tom nói câu đó.’ Và lúc nào tôi cũng nhắc điều ấy.
Những củ hành tây
Không phải bao giờ bạn cũng có
thể biết được lúc nào, hoặc vì lý do gì, lòng tham lam của mình lại nổi dậy.
Chánh tư duy, tức suy nghĩ chân chánh, là một sự cố gắng để đối trị
lại sự nổi dậy ấy.
Mùa thu năm ngoái, tôi và chị bạn
thân Mary Kay trồng hành tây vào đúng ngày trăng rằm tháng mười. Quyển
lịch niên giám nói rằng trăng tròn sẽ bảo đảm cho việc được mùa to. Công việc
gieo trồng rất là chậm chạp, vì mỗi cọng hành non mỏng manh cần phải được trồng
riêng rẽ, nhưng cũng rất thích thú vì thời tiết rất mát và chúng tôi có dịp tâm
sự với nhau.
Chúng tôi chúc mừng lẫn nhau về
việc đã chọn được một ngày lành tháng tốt để khởi công. Tôi nói: “Nếu chúng ta
thật sự thu hoạch được một mùa thật to thì sao? Chị có nghĩ là tụi mình
có thể cất chúng trong nhà hết không? Hay là phải phơi khô? Ta có phải thái nhỏ
ra, bỏ vào bao và giữ trong tủ lạnh không?”
Mary Kay nói: “Mình có thể đem
biếu một số cho những tiệm ăn dành cho người nghèo, hoặc là cho những nơi nuôi
người không nhà.”
Mary Kay là giám
đốc của một nhà tạm trú dành cho những người vô gia cư, và tôi cũng thường hay
mang đồ đến đó cho. Dù vậy, dẫu biết rằng tôi có thể ra chợ mua một xe củ hành
đem tặng họ, nhưng tôi muốn là những cây hành từ khu vườn này phải đi vào
bụng của tôi. Một cây hành là một cây hành, và tôi trồng là vì tôi thích
trồng, không phải vì tôi không thể mua được. Mặc dù vậy, tôi cũng cảm thấy rất
khó chịu về một sự mất mát giả tưởng trong tương lai. Đó là một nỗi đau thật sự,
một tâm dính mắc vào một cái gì nó nghĩ là nó cần, cho dù đó chỉ là một cọng
hành.
Tôi không muốn phải thú tội về sự
tham lam của mình, tránh lãnh thêm khổ đau, nên tôi vượt qua nó. Tôi nói thật
lòng: “Lẽ dĩ nhiên tụi mình sẽ đem cho.” Và tôi cảm thấy vô cùng sảng khoái.
Tại thành phố
Alexander
Valley tại
California
nơi tôi cư ngụ, ở một tiệm hàng có một bảng hiệu ghi: “Tự do không phải là quyền
cho phép bạn làm bất cứ việc gì bạn muốn, mà là để làm những gì bạn nên làm.”
Cháu ngoại tôi và tu viện
Mấy năm trước đây, tôi có phát
nguyện rằng khi đối diện với bất cứ một việc gì mà tôi sợ hãi, và nếu tôi nghĩ
là mình có thể làm được, tôi sẽ làm. Châm ngôn của tôi là: “Nếu người khác làm
được, thì tôi cũng có thể làm được.” Nguyên tắc ấy đã thúc đẩy tôi làm những
việc mà bình thường có lẽ tôi đã chịu khuất phục. Nó cho phép tôi dám lặn xuống
đáy sâu để thấy được một thế giới kỳ diệu dưới lòng đại dương, và nó cũng đã
nâng đỡ tôi qua những kinh nghiệm mãnh liệt và dị thường trong thiền tập, để tôi
có thể nhìn được tận mặt một thế giới kỳ diệu của nội tâm.
Sợ hãi là một thói quen của tâm
thức. Có người có thói quen ấy nhiều hơn kẻ khác. Nhưng nó bao giờ cũng là dư
thừa và không cần thiết. Bị giam hãm bởi sự sợ hãi là một hình tướng của si mê.
Ta chỉ có thể hoặc là làm được một việc gì, hoặc là không làm được, thế thôi.
Nếu tôi thật sự không thể làm được – ví dụ như tôi rất vụng về về máy móc, lái
máy bay là chuyện không khôn ngoan chút nào hết – tôi sẽ không làm. Và nếu tôi
thật sự có khả năng, và nếu đó là một công việc lành mạnh, tôi sẽ bắt buộc mình
phải cố gắng.
Có một hôm tôi khám phá ra rằng,
sự sợ hãi thật ra chỉ là một chuỗi tác động của tế bào thần kinh trong bộ óc mà
thôi! Thấy được điều ấy, tôi rất bất mãn là sao mình lại chịu giam cầm bởi những
dòng điện đơn sơ chạy ngoằn ngoèo trong đầu ấy!
Các bà nội, bà ngoại thường đóng
vai trò của một vị thầy tâm linh. Bà ngoại tôi là vị thầy đầu tiên của tôi, và
tôi hy vọng sẽ tiếp tục được nhận lãnh vai trò ấy của bà cho các thế hệ về sau.
Bài học mà tôi lãnh hội nhiều nhất từ bà là phải biết cương quyết chịu đựng khi
đối diện với những hoàn cảnh khó khăn. Bà sẽ hỏi: “Ở đâu nói rằng ta lúc nào
cũng phải được vui vẻ?”
Có một lần tôi dẫn đứa cháu tôi,
Collin, đến thăm chị bạn Mary, lúc nó mới lên ba tuổi. Mary
là một tu sĩ thuộc dòng nữ tu Dominican ở
San Rafael. Lúc chúng tôi đến viếng thăm, chị đang
sống tại một tu viện thật đẹp và đồ sộ, đã được sử dụng làm trung tâm cho dòng
tu của chị trong nhiều năm qua.
Tu viện có những cánh cửa to lớn,
nặng nề và hùng vĩ, với những chiếc cầu thang rất dài dẫn lên chúng. Mary
kể cho tôi nghe những cánh cửa ấy đối với chị dễ sợ như thế nào khi lần đầu chị
đến đây, cách nay đã hơn ba mươi năm, khi chị mới bước vào dòng tu. Thằng bé
Collin
cũng chẳng thích chút nào.
“Cháu không thích mấy bậc cầu
thang này, bà ngoại. Mình về đi!”
“Bây giờ không phải là lúc đi về.
Bây giờ là lúc chúng ta thăm viếng bác Mary.”
“Nhưng cháu thật
là không thích mấy nấc thang này, ngoại!”
“Cháu đâu cần phải thích chúng,
Collin. Cháu chỉ cần leo lên chúng mà thôi. Nắm tay ngoại đi, hai bà cháu
mình cùng đi với nhau.”
Chúng tôi đã ở lại thăm Mary,
và dĩ nhiên Collin cũng thích thú lắm. Nó dám leo lên cả chiếc cầu thang
chánh dài nhất của tu viện. “Xem kìa bà ngoại, nhìn những bậc thang ấy kìa!” Nó
cảm thấy hãnh diện về chiến thắng của nó, và tôi thì cảm thấy rất vui về những
bước đầu trên con đường tu tập tâm linh của nó.
Tôi thường kể lại chuyện của
Collin cho các học trò của tôi, đặc biệt cho những ai đang thực tập thiền
quán trong một khóa tu. Tôi kể câu chuyện ấy những khi nghe một thiền sinh nào
nói: “Tôi đang kinh nghiệm thân và tâm tôi một cách rất khác lạ, tôi cảm thấy sợ
hãi quá!” Tôi muốn họ biết rằng cái gì mới lạ và khác thường bao giờ cũng có thể
gây nên một cảm giác sợ hãi hết, nhưng cái sợ ấy không cần thiết. Nếu có một ai
đó nắm tay ta, “sợ hãi” sẽ đổi thành “thú vị”, và “thú vị” là một trong những
yếu tố của sự giác ngộ.
Chánh nghiệp: Hành động chân chánh
Những giới luật đạo đức đa số đều
có dính dáng đến sự cấm đoán: không được làm cái này, không được làm cái kia.
Tất cả các truyền thống tâm linh mà tôi biết, ít nhiều gì cũng thường có chung
một bảng danh sách liệt kê những điều ngăn cấm. Chuyện đó cũng dễ hiểu, vì tất
cả những điều cấm ấy đều được phát triển từ ý thức rằng, nếu chúng ta không sáng
suốt, sự thúc đẩy tự nhiên của tâm tham lam và sân hận trong ta sẽ khiến ta làm
những việc lạm dụng hoặc có hại cho kẻ khác. Điều luật cơ bản nhất là: “Đừng gây
thêm khổ đau.”
Trong kinh điển Phật giáo, khi
nói đến chánh nghiệp người ta dùng chữ hiri và ottappa,
thường được dịch là “biết hổ thẹn” và “biết khiếp sợ.” Hổ thẹn và khiếp sợ có
mang một ngụ ý hơi tiêu cực, nhưng tôi thích những chữ ấy. Tôi tôn trọng cái ý
niệm về một trách nhiệm to tát mà những danh từ ấy muốn chuyển đạt. Nói chung
lại, chúng có nghĩa là mỗi một hành động nào của ta cũng đều có một khả năng
gây nên khổ đau, và mỗi một việc làm nào của ta cũng đều có những hậu quả lan
rộng, mà ta không bao giờ có thể tưởng tượng nổi.
Nhưng việc ấy không có nghĩa là
ta không nên làm gì hết, mà có nghĩa là ta nên hành động cho thật cẩn trọng. Tất
cả mọi hành động đều quan trọng.
Ông Ngoại tôi và những trái cam
Dường như ngay từ lúc vừa có trí
khôn là tôi đã biết chuyện ông ngoại và những trái cam! Tôi đoán có lẽ tôi đã
nghe ông kể khi tôi mới lên chín hoặc mười gì đó. Chắc tôi đã thắc mắc hỏi ông,
vì thấy ông làm việc tại một cây xăng mà không hề biết lái xe.
Ông Ngoại tôi kể: “Khi mới đến
Hoa Kỳ Ngoại mới được hai mươi lăm tuổi, và có người tập cho Ngoại đi xe đạp.
Ngoại chạy chưa được vững lắm, và một hôm ông Ngoại vô ý đụng nhằm một bà đang
ôm những giỏ giấy đi chợ. Một chiếc giỏ rơi xuống đất, và những trái cam đổ ra
lăn lóc khắp nơi trên mặt đường. Ngoại quá hối hận về hậu quả mình gây ra, và từ
đó quyết định sẽ không bao giờ lái một loại xe nào nữa hết!”
Tôi phản đối: “Nhưng đó chỉ mới
có một lần thôi mà.”
Ông ngoại nói: “Việc đó không
thành vấn đề. Sau khi Ngoại biết được cảm giác đụng phải người khác như thế nào
rồi, Ngoại không bao giờ muốn đâm vào ai một lần nữa.”
Có lẽ đó là một mức độ hơi cực
đoan của hiri và ottappa, nhưng tôi cảm thấy kính phục ông Ngoại
tôi rất nhiều. Và trong suốt đời ông, tôi đã nghe ông lặp đi lặp lại câu chuyện
ấy rất nhiều lần. Tôi có cảm tưởng là Ngoại tôi rất hài lòng với quyết định của
mình. Ông sống với một ước vọng là sẽ không làm đau khổ ai hết. Như ông đã nói:
“Tôi không bao giờ muốn gây thêm phiền phức gì cho bất cứ ai.”
Chánh nghiệp tích cực: Cứu cấp trên phi cơ
Thật ra, những sự cấm đoán chỉ
mới là một phần của chánh nghiệp mà thôi. Phần còn lại là biết tận dụng
mọi cơ hội để làm vơi bớt khổ đau. Nhận lãnh trọn thế giới này không chỉ là một
hành động cao thượng đối với kẻ khác mà thôi, mà còn to tát hơn thế nhiều. Đó là
một việc làm rất tốt lành cho chính ta.
Đôi khi hồi tưởng lại quá khứ,
tôi cảm thấy rất buồn vì đã bỏ lỡ những cơ hội mà tôi có thể hành động để làm
vơi đi phần nào khổ đau cho người khác.
Năm năm trước đây, tôi đã để lỡ
một cơ hội trên một chuyến bay, tôi vẫn còn nhớ mãi và học được rất nhiều từ đó.
Tuần vừa qua, suýt chút nữa là tôi lại đánh mất thêm một cơ hội nữa, nhưng tôi ý
thức kịp thời. Sau đó, tôi tự hỏi, không biết lỗi lầm đầu tiên của tôi có được
bôi xóa nhờ sự sửa sai lần sau này hay không. Và tôi ý thức rằng, việc ấy không
liên quan gì hết!
Hành động chân chánh, tức
chánh nghiệp, là một đòi hỏi thường xuyên trong suốt cuộc đời. Không có một
thời điểm nào để ta có thể dừng lại và cân bằng số điểm, xem mình thắng bại ra
sao. Nếu có một hành động nào là cần thiết và hành động ấy tốt lành, thì nó cần
phải được thực hiện. Việc ấy nghe như là một sứ mạng rất to tát, như một lời
nguyện của vị Bồ Tát, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, muốn đoạn dứt hết
mọi phiền não, mà sự thật là vậy.
Nhưng thật ra, việc ấy cũng
không quá khó như ta nghĩ. Những quyết định của ta sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Vì trốn tránh không phải là một sự chọn lựa, nên công việc chỉ là ý thức được
những việc nào là tốt lành và thực hành chúng mà thôi.
Chuyện trên phi cơ: Sai lầm
Tôi ngồi yên trong ghế của mình,
buộc dây an toàn xong, trong khi những hành khách cuối cùng bước lên phi cơ từ
Boston
đi San Francisco.
Bỗng có giọng nói cáu kỉnh của một bà mẹ gây sự chú ý cho tôi. Tôi ngước nhìn
lên và thấy gương mặt bà ta đỏ bừng và căng thẳng. Đứa con trai nhỏ mặt tái mét
và sợ sệt. Bà ta loay hoay với mấy chiếc giỏ xách tay, đẩy đứa bé đi tới trước
đến chỗ ngồi của bà, mắng nhiếc nó trong từng bước một. Tôi nhíu mặt và nhìn
sang chỗ khác, tôi có những ý nghĩ không tốt về bà ta.
Chuyến bay dài sáu giờ đồng hồ.
Hai mẹ con ngồi phía sau tôi cách chừng vài dãy ghế, đều đặn, tôi có thể nghe
tiếng gay gắt của bà. Mỗi lần nghe tiếng bà là tôi cảm thấy bực mình. Tôi ước gì
mình đã đi trên một chuyến bay khác. Tôi cảm thấy khó chịu vì bà ta đã làm hỏng
cái hy vọng rằng đây sẽ là một dịp cho tôi nghỉ ngơi. Tôi lo lắng cho đứa bé
trai, và tưởng tượng ra những hình ảnh đen tối cho tương lai và cuộc đời của nó.
Tôi nghĩ rồi sẽ có một ngày nào đó, những hành động của người đàn bà này sẽ trở
lại ám ảnh bà ta. Tôi ngồi yên trong ghế, suy nghĩ đủ hết tất cả mọi chuyện, trừ
việc giúp đỡ họ.
Trong lúc đó, tôi không có một
giải pháp can thiệp nào hết. Có lẽ tôi quá bực mình, tôi nghĩ tôi sẽ lại thốt ra
những lời bất nhã. Tôi tự hỏi: “Mình biết nói gì để có thể giúp ích được cho
họ?”
Phi cơ đáp xuống, người đàn bà và đứa con trai mất
dạng vào trong đám đông. Khi ấy, có lẽ vì cơn lũ lụt phê phán đã dừng, tôi biết
được việc gì mình đã có thể làm. Tôi đã có thể dừng lại bên chỗ dãy ghế của bà
ta, mỉm cười và nói: “Đi xa với một đứa bé như thế này chắc chắn là cực lắm,
phải không? Tôi cũng có lần đã đi như vậy, lâu lắm rồi, và tôi vẫn còn nhớ mãi.
Bà đi như thế này lâu chưa? Bà có phải chờ đợi ở phi trường lâu không? Bà đi về
đâu? Có ai ra đón không?...” Dĩ nhiên là tôi không cần phải hỏi tất cả
những câu ấy. Chừng một hoặc hai câu cũng đủ tỏ cho bà ta biết rằng tôi thấy
được nỗi cực nhọc của bà và lưu tâm đến. Việc đó chắc chắn sẽ giúp được phần nào.
Nào ai biết được việc gì đã có thể xảy ra nếu tôi
và bà nói chuyện với nhau? Có lẽ tôi đã có thể nói cho bà ta nghe một vài điều
hữu ích về vấn đề nuôi dạy con. Có lẽ tôi đã có thể khiến cho bà cố gắng thay
đổi một phần nào. Có lẽ cuộc đời của đứa bé trai ấy sẽ được thay đổi.
Những việc đáng lẽ tôi đã
phải làm trở nên rất rõ ràng sau đó, khi nó đã là quá trễ. Tôi cảm thấy hối hận.
Nhà Phật có dạy rằng hành động này sẽ “làm điều kiện” cho hành động khác, và sự
không-hành-động của tôi đã làm điều kiện cho một quyết định là sẽ hành động
tốt hơn về sau.
Chuyện trên phi cơ: Sửa sai
Năm năm sau, một lần nữa, tôi
ngồi yên trong ghế trên chuyến bay United 33, từ
Boston đến San
Francisco, tôi hy vọng sẽ được sáu giờ rảnh rang để
viết lách, vì chỉ còn vài tuần nữa là đến kỳ hạn cho bản thảo của quyển sách
này. Người đàn bà ngồi cạnh tôi có vẻ bất an, bồn chồn trong ghế ngồi, háo hức
muốn nói chuyện. Bà kể tôi nghe, gần đây bà bị té và đầu xương cụt của bà bị bầm
tím, bây giờ mỗi khi ngồi nó đau đớn lắm. Bà giải thích là bà hơi lo và không
vui, vì chuyến bay này khá dài mà lại không được phép hút thuốc.
Tôi bỏ một thời gian để nói
chuyện, hy vọng rồi bà ta sẽ ổn định xuống để tôi có thể trở lại viết lách mà
không tỏ ra mất lịch sự. Tôi lào xào sắp xếp lại mớ giấy tờ của mình, cố ý cho
bà thấy là tôi muốn được yên để làm việc. Mỗi lần chúng tôi kết thúc một chủ đề
và tôi bắt đầu quay sang chỗ khác, bà ta lại bắt đầu một đề tài mới.
Giờ ăn trưa đến và đi. Tôi hy
vọng là dịp nói chuyện trong giờ ăn sẽ cho phép tôi được yên sau đó, để có thể
nghiêm chỉnh tiếp tục sự viết lách của mình, nhưng việc ấy đã không xảy ra.
Chuyến bay càng kéo dài, bà ta càng trở nên bất an. Lưng của bà đau và bà thèm
thuốc lá.
Thật ra chính là bà, chứ không
phải tôi, đã đánh thức tôi dậy trước khi tôi phạm lỗi một lần nữa. Chúng tôi kể
cho nhau nghe về việc làm của mình, và bà thắc mắc, hỏi một chuỗi câu hỏi về
công việc của một người đi hướng dẫn thiền tập. Tôi dạy cho những ai? Những gì
tôi dạy có ích lợi cho những người bị căng thẳng không? Nó có khó không? Nếu bà
muốn học thì sao? Bà hăm hở nhờ tôi ghi tên những quyển sách bà có thể đọc,
những cuộn băng bà có thể mua, những nơi bà có thể tìm đến học...
Cuối cùng, tôi hiểu. Tôi nói: “Bà
có muốn tôi chỉ cho bà phương pháp thiền tập ngay bây giờ không? Nó có thể sẽ
làm bà cảm thấy dễ chịu hơn.”
Bà đáp: “Vâng, tôi muốn chứ. Tôi
rất muốn.”
Tôi bỏ viết xuống. Tôi giảng cho
bà nghe vài lời hướng dẫn về thiền tập. Bà ta ngồi yên trong một thời gian. Và
sau đó chúng tôi bàn về kinh nghiệm của bà.
Bà nói bà cảm thấy được thoải mái
hơn. Tôi giải thích, cảm giác thoải mái hơn một chút sẽ làm cho bà cảm
thấy thoải mái hơn thật nhiều, bởi vì bây giờ bà có thể tin chắc là mình
có khả năng vượt qua được chuyến bay này. Chúng tôi nói về việc tâm của ta có
thể nắm lấy một sự khó chịu nho nhỏ thôi và thổi phòng nó lên thật to.
Tôi bắt đầu nhận ra là mình đang
có những giờ phút rất vui. Tôi chợt thấy, thật là rất buồn cười khi ta bận rộn
viết về niềm vui của những hành động vô kỷ và từ ái, về việc đem tình thương ra
ban rải mỗi khi có dịp, trong khi ta lại cố chối bỏ một người đang khổ đau ngồi
ngay sát bên ta. Trong nửa giờ cuối của chuyến bay bà ta ngủ say, và tôi đã viết
một bài thật hay.
Chánh ngữ: Một lời đã nói, bốn ngựa không
theo kịp
Một tấm bảng trong cửa tiệm cạnh
nhà tôi ghi:
Cẩn thận trong việc chọn lời của bạn
Giữ cho chúng ngắn gọn và ngọt ngào
Bạn không bao giờ biết sẽ có một ngày
Những lời nào rồi bạn sẽ
phải nhận.
Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về sự
kiện là đức Phật đã dành riêng một chi phần đặc biệt trong Bát chánh đạo
cho sự nói năng chân chánh, tức Chánh ngữ. Ngài có thể đơn giản hóa bằng
cách nhập nó vào chung với Chánh nghiệp, tức hành động chân chánh, cũng
được vậy! Vì nói năng cũng là một hình thái của hành động. Có thời gian tôi nghĩ
có lẽ đức Phật để nó riêng ra là vì chúng ta nói nhiều quá. Nhưng rồi sau đó tôi
đã đổi ý – vì biết có một số người không nói gì nhiều hết. Bây giờ, tôi
nghĩ nó được phân loại riêng là vì lời nói của ta có một năng lực rất lớn.
Vài năm trước đây, tôi có đọc
được một câu trên một trang báo. Nó được in ở cuối trang như một câu châm ngôn
chêm vào cho đầy hết trang báo, vì bài viết vẫn còn dư một khoảng trống. Tôi
không còn nhớ bài viết về đề tài gì, cũng như trên tờ báo nào, nhưng tôi vẫn còn
nhớ rõ câu ấy: “Gậy và đá chỉ đôi khi có thể làm gãy xương ta, nhưng lời
nói thì lúc nào
cũng có thể gây thương tích cho ta.”
Đôi khi trong lớp tôi thường hỏi:
“Em nào đã từng bị gãy xương giơ tay lên.” Sau khi các em đưa tay lên, tôi nói:
“Em nào bây giờ vẫn còn đau vì gãy xương thì cứ để tay cho tôi xem.” Thường thì
tất cả những bàn tay đều bỏ xuống. Sau đó tôi hỏi tiếp: “Giơ tay lên nếu có em
nào vẫn còn cảm thấy đau đớn về một chuyện gì đó mà ai nói với em trong một năm
vừa qua.” Rất nhiều bàn tay đưa lên. “Giữ tay ở đó nếu em nào vẫn còn cảm thấy
khổ đau vì một lời phê bình của ai về mình trong năm năm qua.” Những bàn tay vẫn
còn đưa cao. “Mười năm qua... hai mươi năm qua... ba mươi năm qua... lời nói của
ai khi em mới được năm tuổi.” Nhiều bàn tay vẫn còn giơ cao. Họ quay chung quanh
nhìn nhau và mỉm cười, ngượng ngùng, nhưng tôi không nghĩ là có ai vui vẻ gì. Đó
là một giây phút thật dễ thương của sự chia sẻ lòng từ ái, của việc làm chứng
nhân cho một gánh nặng mà tất cả chúng ta đang mang trên vai, một nỗi đau của
những lời phê bình gây thương tích.
Có lẽ chúng ta nghĩ nếu mình là
người lớn, ta phải bỏ qua được những lời chê trách trẻ con của người khác. Tôi
tự hỏi, nếu ta có bao giờ thật sự quên bỏ được chúng không! Tôi nghĩ tất cả
chúng ta đều rất dễ bị thương tích, như một cái bánh kem-su, bên ngoài
tuy dòn nhưng bên trong rất là mong manh, và cũng rất là ngọt ngào.
Vào thập niên 60, châm ngôn của
xã hội thời ấy là: “Hãy bộc lộ tất cả!” Tôi cứ tưởng tượng về việc mình sẽ viết
một quyển sách có tựa đề “Giữ hết lại bên trong”. Tôi cảm thấy lo âu vì
thấy mọi người không ý thức được rằng chúng ta có thể dễ bị thương tích đến mức
nào. Nhưng mấy năm gần đây, tôi đã đổi tựa quyển sách của tôi thành “Hãy
giữ lại bên trong cho đến khi tìm được một cách bộc lộ có ích.”
Tôi tin là chúng ta có bổn phận
phải nói sự thật. Nói lên sự thật là một phương cách giúp ta chăm sóc kẻ khác.
Đức Phật dạy chúng ta phải hoàn toàn chân thật, nhưng ngài cũng dạy thêm là bất
cứ một lời nói nào của ta cũng phải có hai yếu tố: chân chánh và hữu ích.
Khi dạy về Chánh ngữ, đức
Phật cũng cung cấp cho ta một kim chỉ nam trong việc sửa sai người khác. Một sự
khiển trách, đức Phật dạy, phải có đủ những yếu tố sau đây: hợp thời, chân thật,
nhẹ nhàng, dễ thương và bổ ích. Khi tôi nói cho người ta nghe về những tiêu
chuẩn ấy, họ thường kêu lên: “Nhưng nếu vậy thì sẽ không còn ai có thể khiển
trách ai được nữa hết!”
Tôi thì nghĩ khác. Tôi nghĩ với
chánh ngữ người ta vẫn có thể phát biểu ý kiến hoặc nhận xét của mình qua
một đường lối mà người kia có thể lắng nghe và sử dụng được, mà không hề cảm
thấy mình bị thấp kém.
Luật sáu mươi giây
Trình độ sơ cấp của chánh ngữ
là những lời nói không gây đổ vỡ thêm cho bất cứ một hoàn cảnh nào. Việc này sẽ
ngăn ngừa được những lỗi lầm căn bản, như là nói dối hoặc cố ý dùng những lời
gây khổ đau. Trình độ cao cấp của chánh ngữ sẽ giúp duy trì sự quân bình
của hoàn cảnh, bằng cách không cộng thêm vào đó yếu tố phá hoại của việc nói ra
những lời thị phi.
Những lời thị phi tức là lời nói
về một người nào đó không có mặt. Trừ những trường hợp hiếm hoi khi có thể ta
cần phải phát biểu một vấn đề nào đó thay mặt cho một người khác. Khi nói chuyện
gièm pha về một người thứ ba là ta đang mời gọi người nghe cùng chia sẻ khoảng
không gian cáu kỉnh, bất an trong tâm mình. Nói chuyện ca ngợi về một người thứ
ba có thể khiến cho người nghe cảm thấy họ là không quan trọng. Như vậy tại sao
ta lại không chọn nói về những gì đang có mặt trong hiện tại?
Sau đây là một bài tập về
chánh ngữ cho trình độ cao cấp. Bắt đầu ngày mai khi bạn thức dậy, đừng nói
chuyện phiếm. Chú ý xem việc gì sẽ xảy ra nếu bạn không phê bình về bất cứ một
ai không có mặt. Cẩn thận lắng nghe tiếng nói trong tâm khi nó chuẩn bị để phê
phán, và bạn hãy tự hỏi: “Tại sao mình phải nói như thế?”
Thấy được ý định của ta là phương
cách hay nhất để biết được lời phê phán mà ta sắp nói ra có là chánh ngữ
hay không. Ý định của ta có tốt lành không, có thật sự là một ý muốn giúp đỡ
người khác hay không? Hay chỉ là để khoe khoang? Hoặc là gièm pha?
Đôi khi bàn chuyện thị phi có vẻ
như vô hại, một cố gắng để gợi chuyện, để trám cái khoảng trống im lặng giữa hai
người. Tôi nghĩ chúng ta ưa nói chuyện phiếm vì sợ người bạn của mình sẽ nghĩ
rằng ta không cảm thấy đủ thích thú để nói chuyện với họ. Khi ta có thể có mặt
với một người nào đó và nói: “Tôi đang có một thời gian tuyệt vời và rất thích
cùng đi dạo với bạn (ăn với bạn, lắng nghe nhạc với bạn, uống trà với bạn), nên
chúng ta không cần phải nói chuyện gì”, đó là một hạnh phúc lớn.
Tôi xuất thân từ một gia đình của
những “nhà vô địch” thích nói chuyện, cho nên tôi rất ngạc nhiên khi khám phá ra
là mình lại rất thích những khoá tu thiền im lặng. Rửa xà-lách, xắt
cà-rốt trong thinh lặng với một người khác cũng rất là thân mật. Thật vậy,
chia sẻ cái không gian thinh lặng của công việc làm xà-lách với một người
lạ trong vòng một tuần khơi dậy cảm giác chúng tôi là những người bạn rất thân
thiết.
Một trình độ rất cao của chánh
ngữ đòi hỏi ta phải ý thức được ý định của mình trong tất cả mọi sự
truyền thông, không phải chỉ trong việc nói chuyện phiếm mà thôi. Tôi cũng bắt
đầu xem xét lại lời nói của chính mình sau một thời gian tu tập trong thinh lặng.
Khi trở về nhà, cũng mất dăm ba ngày trước khi lời nói của tôi trở lại cái tốc
độ phản ứng quen thuộc của nó. Tôi đã có thể ghi nhận được cái khoảng thời gian,
từ khi câu trả lời khởi lên trong tâm tôi cho đến khi nó thoát ra khỏi miệng.
Tôi có đủ thời giờ để ý thức được động cơ nào đã thúc đẩy mình.
Xét ra thì những động cơ thúc đẩy
tôi cũng rất tốt đó, nhưng chúng không tốt như tôi đã tưởng. Có lẽ 80 phần trăm
những câu trả lời của tôi là để trình bày sự thật, 10 phần trăm là bị thúc đẩy
vì muốn phô trương cách thức khéo léo mà tôi sẽ trình bày chúng, và 10 phần trăm
còn lại là muốn gây một thiên kiến nơi người nghe. Đôi khi còn tệ hơn thế nữa!
Đôi khi 10 phần trăm chót ấy là một hình thức che đậy, một thủ đoạn để trả đũa
người khác, cho một sự khinh thường, có thật hoặc tưởng tượng nào đó.
Lúc mới đầu, tôi rất nản lòng khi
khám phá ra tôi đã lạm dụng năng khiếu sử dụng ngôn ngữ của mình, lấy đó làm một
phương tiện kín đáo để hành xử không đẹp. Nhưng tôi cảm thấy thật nhẹ nhàng sau
khi quyết định sẽ không làm thế nữa. Chánh ngữ ơ một trình độ cao cấp xét
ra cũng không phải là khó lắm. Một khi tâm ta đã được hướng dẫn để quán sát tìm
những thông điệp ẩn tàng, nó sẽ hành động theo đó một cách tự nhiên. Quyết định
thay đổi ấy đã giản dị hóa cuộc đời của tôi rất nhiều, vì tôi không còn lo nhiều
về việc phải thu dọn về sau nữa.
Và chánh ngữ ở trình độ
tối cao là ta phải biết trung thực hoàn toàn. Điều đó đòi hỏi nơi ta một sự có
mặt trọn vẹn. Tôi học được điều này từ Jim, một nhà tâm lý học tôi có dịp
làm quen khi chúng tôi cùng dạy chung tại một cuộc hội thảo đối thoại giữa Phật
giáo và Công giáo. Tôi đã đọc những quyển sách của ông viết, và rất mừng được
dịp đi ăn chiều với tác giả.
“Chị nghĩ sao về đề tài A,
Sylvia?” ông hỏi. (Tôi dùng đề tài A, B, C... vì không còn nhớ chúng tôi nói
về vấn đề gì, và những điều tôi học từ Jim chỉ là cái phương cách mà ông
nói hơn là từ nơi chủ đề.)
“Tôi nghĩ như thế này, thế này và
thế này,” tôi trả lời lập tức. “Còn anh nghĩ sao về đề tài B và C?”
Ông ta chỉ ngồi yên lặng. “Chết
rồi,” tôi thầm nghĩ. “Có lẽ mình đã làm gì mích lòng ông ta chăng. Chắc là điều
mình hỏi có tính cách cá nhân quá. Hay có lẽ mình đã nêu ra nhiều đề tài quá.”
Nhưng rồi ông từ tốn trả lời:
“Tôi nghĩ như thế này, thế này về B và C. Còn chị nghĩ sao về vấn đề D?”
“Ồ, vấn đề D ư?,” tôi đáp ngay,
“Tôi nghĩ như thế này, thế này và thế này. Còn E và F thì sao?”
Và ông lại ngồi im lặng. Tôi chợt
thức tỉnh và thấy được chuyện gì đang xảy ra. Khi tôi hỏi ông nghĩ gì,
ông thật sự có bỏ ra thời giờ để suy nghĩ. Ông trả lời bằng cách
nói cho tôi nghe những gì ông đang nghĩ ngay bây giờ, không phải của ngày hôm
qua hoặc của tuần trước. Tôi cảm thấy mình được ông quý trọng. Tôi cảm thấy ông
tôn trọng những câu hỏi của tôi đủ để nói cho tôi nghe một sự thật hiện tại nhất
về nó.
Bài thực tập của chánh ngữ
ở trình độ tối cao tức là luật Sáu mươi giây trong khi trò chuyện. Bất cứ
khi nào có ai đặt một câu hỏi, người đáp cần phải im lặng trong sáu mươi giây
trước khi trả lời. Vì sự dừng lại ấy là bắt buộc, cho nên câu trả lời của ta sẽ
có nhiều cơ hội để bao gồm sự suy ngẫm, xem xét ý định, duyệt lại giọng nói –
tất cả những gì là tối cần thiết cho một câu trả lời sáng suốt.
Chánh mạng: Chị Pearl và công việc ủi quần áo
Chánh mạng, tức sự
mưu sinh chân chánh, dường như khó thực tập đối với ngày nay hơn là vào thời đức
Phật. Điều luật thì cũng vẫn vậy: Chánh mạng có nghĩa là tổ chức sự mưu
sinh của mình sao cho không lạm dụng, không bóc lột, không gây hại cho ai. Dù
sao, vào thời đại ngày nay, thế nào là lạm dụng, là bóc lột thì cũng không nhất
thiết được rõ ràng cho lắm.
Vào thời đức Phật, những loại
nghề nào bất thiện rất dễ phân biệt. Làm binh sĩ, nuôi nô lệ, sản xuất võ khí và
những chất say – tất cả những điều đó đều là những nghề bị ngăn cấm. Ở thời đại
chúng ta, binh sĩ đôi khi còn có nhiệm vụ của người duy trì hòa bình. Và ta cũng
khó mà biết được sự tốt lành của tất cả mọi sản phẩm của bất cứ công ty nào,
nhất là trong thời đại mà các công ty mua bán, phụ thuộc lẫn nhau. Nào ai biết
được những gì được sản xuất bởi công ty phụ thuộc với công ty làm bột giặt của
tôi?
Ngày nay khi người ta nói: “Ông
ấy, bà ấy là một người rất thành công” thường có nghĩa là “Ông ấy, bà ấy có rất
nhiều tiền.” Điều đó không nhất thiết có nghĩa là họ có đạo đức, có nhân cách
hoặc là có hạnh phúc. Giáo lý của đức Phật về chánh mạng không hề loại bỏ
những hạng người giàu có – ngài dạy cho tất cả mọi người, trong đó có hàng vua
chúa – nhưng nó không hề được dựa trên của cải vật chất. Nó được dựa trên sự
tốt lành.
Đối với tôi, một hình ảnh trọn
vẹn về chánh mạng to lớn hơn là những cấm đoán được phản ảnh qua sự chọn
lựa bên ngoài của ta. Sự chọn lựa tốt lành trong noi tâm – ví dụ
một thái độ lành mạnh về công việc làm của ta – cũng có thể đóng góp cho sự an
lạc và hạnh phúc của ta nhiều lắm. Phương cách mưu sinh của mỗi người là một cơ
hội để ta phát huy đức tự trọng.
Bạn của tôi, chị
Pearl, sinh sống bằng nghề giúp việc nhà, khi bốn đứa
con tôi còn bé và tôi mới bắt đầu đeo đuổi cao học. Tôi rất hãnh diện vì được
nhận vào một trường đại học có uy tín, và chị Pearl
thì rất vui với công việc mới của mình.
Chị Pearl nấu ăn rất khéo,
mấy đứa con tôi mê những món chị làm. Chị lái xe chở chúng đi học, nhớ những giờ
hẹn bác sĩ, và săn sóc khi chúng bệnh. Một chiều nọ, sau một ngày ở trường, tôi
về nhà thấy chị đã ủi xong hết đống quần áo mà tôi nghĩ phải mất cả tuần. Những
bộ đồ phẳng phiu được treo trên chiếc máng áo trông thật đẹp.
“Chị Pearl,” tôi kêu lên,
“quần áo chị ủi trông đẹp quá!”
“Đẹp thật,” chị đáp. “Tôi rất
hãnh diện với tài ủi đồ của mình!”
Tôi rất sung sướng vì đã được
đánh thức bởi câu trả lời của chị. Tôi vẫn còn ghi nhớ nó mãi cho đến ngày hôm
nay, ba mươi năm sau. Không phải là tôi có một thái độ tự cao về những công việc
chuyên nghiệp đâu! Không phải vậy! Điều mà tôi học được ở chị
Pearl là ngay trong giờ phút này thì cái mà bạn làm,
bên ngoài, chỉ mới là phân nửa của công việc mà thôi. Phân nửa còn lại, bên
trong, là bạn nhận thức về nó như thế nào!
Chánh tinh tấn: “Nhớ, hãy vui vẻ”
Trong đạo Phật, những lời dạy về
chánh tinh tấn, tức sự siêng năng chân chánh, rất rõ rệt. Đức Phật dùng chữ
thiện và bất thiện để nói đến những gì dẫn đến hạnh phúc và những gì
đưa đến khổ đau.
Nguyên tắc của chánh tinh tấn
là: Hãy ghi nhận những cảm giác tốt lành như là tính thân thiện, từ ái, hoặc
rộng lượng, khi chúng có mặt trong tâm, và khuyến khích cho chúng phát triển.
Tập hành động dựa trên những cảm xúc ấy là một phương cách để ta phát huy hạnh
phúc. Và ta cũng cần ghi nhận những cảm xúc bất thiện, như là giận dữ và tham
lam, khi chúng khởi lên trong tâm, và cố gắng đừng làm cho chúng phát triển
thêm. Hơn nữa, đức Phật còn khuyên rằng, những cảm xúc bất thiện cần phải được
loại trừ ra khỏi tâm ta.
Tôi tin đức Phật có ý nói là
chúng ta có thể chọn lựa về trạng thái trong tâm mình. Nhưng nói thì bao giờ
cũng dễ hơn làm. Tham lam và giận dữ, ít nhất là trong những sự bộc phát nho
nhỏ, có một tác dụng khơi động năng lượng, và năng lượng ấy rất là quyến rũ.
Nhiều năm về trước, có một lần
tôi lái xe đến phi trường Oakland
vào khoảng nửa đêm để đón chồng tôi trở về trên một chuyến bay khuya. Con đường
xa lộ cảnh vật vắng tanh và đều đều. Tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, và chợt sợ
là mình có thể bị ngủ gục trong khi cầm tay lái. Đột nhiên, trong dòng tư tưởng
tôi chợt nhớ đến một vấn đề giữa tôi với một người bà con xa và cảm thấy bực
mình về những điều người ấy đã nói về tôi.
“Chị ấy táo tợn đến thế là cùng!”
tôi nghĩ, và ngay khi ấy tôi cảm thấy mình trở nên thật tỉnh táo. Một đòn tức
giận đúng lúc đã đánh tiêu tan sự buồn ngủ trong tôi.
“Chà, cái này hay thật!” Tôi tự
chúc mừng mình về một khám phá mới. “Trạng thái của tâm có thể thay thế lẫn nhau
được. Tôi có thể đem cái này để thay thế cái kia trong tâm. Tôi có thể đánh thức
mình dậy bằng cách nghĩ những tư tưởng tức giận!”
Và tôi đã làm như vậy. Trên đường
đến phi trường, tôi nghĩ đến những tư tưởng tức giận và lặp lại trong đầu những
câu đối thoại khác nhau: lời tôi nói, những gì chị ta cho là tôi nói, những gì
tôi có thể kể cho mọi người nghe về điều chị ấy nói là tôi đã nói. Đến lúc tôi
quẹo vào bãi đậu xe của phi trường, tôi đã tỉnh như sáo sậu. Tôi không nhớ rõ,
nhưng tôi có thể đoán là có lẽ sau đó tôi đã cảm thấy cáu kỉnh và bực bội thật
sự.
Hai ngày sau, tôi đem câu chuyện
ấy kể lại cho thầy tôi nghe, nghĩ rằng thế nào ông ta cũng khen ngợi tôi về cái
tuệ giác mới này, về sự liên hệ mật thiết giữa thân tâm. Nghe xong ông cười và
nói: “Phải rồi, sự thay thế lẫn nhau của những tâm thức khác nhau là có đấy.
Nhưng dù sao,” ông nói thêm, “chị có thể làm cho mình tỉnh táo bằng những tư
tưởng khơi dậy tình cảm cũng được, và như thế có phải thú vị hơn không!”
Sau một thời gian, tôi bắt đầu
nhận thấy ngoài những cơn bộc phát nhỏ của lòng tham và cơn giận – cũng chính là
những phản ứng tự nhiên của tâm đối với những kinh nghiệm dễ chịu và khó chịu –
sự bám víu vào hai thành tố ấy sẽ làm ta mệt mỏi lắm. Kéo dài sự mong ước và kéo
dài sự ghét bỏ, cả hai đều sẽ làm cho ta bực bội và chán nản. Chúng làm cho tâm
ta mỏi mệt. Đó cũng là một trong những lý do mà ta khó có thể loại trừ chúng.
Tôi nghĩ, vì ta cảm thấy mệt mỏi nên không còn muốn thoát ra hoặc nhìn vấn đề
cho thấu suốt nữa. Vì vậy, chúng ta cần những điều luật để nhắc nhở mình. Và đôi
khi ta cũng phải cần đến người chung quanh nữa.
Một hôm trong khi lái xe ngang
qua cầu Golden Gate, trên đường đến đón
một người bạn cùng đi xem nhạc kịch, tâm tôi lúc ấy mang một tâm trạng
bực dọc không hiểu vì lý do gì. Tôi không thấy được cái không gian bao la của
vịnh biển đang ôm ấp thành phố San
Francisco mới lên đèn. Tôi lái xe chầm chậm lại ngang
phòng thu phí qua cầu và trình vé của mình cho người gác cổng. “Bà có một ngày
thật
tuyệt vời nhá!” Anh ta nói. Ái chà! Một dòng điện tỉnh thức chạy suốt qua người
tôi. “Từ nãy giờ mình làm trò trống gì vậy?” Tôi nghĩ. “Bây giờ đây, ta sắp gặp
một người bạn mà ta quý mến, ta đang đi làm một chuyện ta ưa thích nhất, và ta
lại bực dọc!”
Không ai chối cãi là ngay giờ đây
trên thế giới này vẫn đang có những việc đáng buồn, và ngay cả trong đời sống
của tôi cũng vậy. Nhưng sự bực dọc sẽ không làm cho bất cứ một sự việc nào trở
nên tốt đẹp hơn. Thật ra, nó còn có thể làm cho sự việc trở nên tệ hơn nữa là
khác. Đức Phật dạy: “Mỗi giây phút của tâm sẽ làm điều kiện cho giây phút kế
tiếp.” Sự bực dọc trì níu tâm ta xuống bằng chính sự mỏi mệt của nó. Hạnh phúc
nâng đẩy tâm ta lên và giúp nó tiến bước trở lại.
Chị Sharon, người tôi đã
theo học thiền quán về tâm từ (metta meditation), thường kết thúc buổi
trình pháp của tôi với chị bằng câu: “Nhớ nhá Sylvia, hãy vui vẻ!” Ban
đầu tôi cứ nghĩ đó là một lời nói xã giao thông thường của những người sống ở
vùng này. Mất một thời gian rất lâu tôi mới hiểu rằng đó chính là một lời hướng
dẫn tu tập cho tôi.
Chánh định: Làm nhẹ đi nỗi đau
Đức Phật dạy, chánh định
là một khả năng để cho sự chú ý của ta được thẩm thấu vào một đối tượng duy
nhất. Chú tâm vào một điểm duy nhất sẽ làm phát sinh một phẩm tính rất cá biệt
trong tâm ta. Đó là một cảm giác dễ chịu, quân bình, thư thái rất đặc biệt – một
trạng thái mà trong kinh điển gọi là “một tâm mềm dịu.”
Lúc trước tôi có hướng dẫn một
lớp gọi là “Thực tập định tâm qua sự thêu may”. Chúng tôi gặp nhau mỗi kỳ
hai tiếng tại một thiền phòng. Trong một giờ đầu, tất cả chúng tôi ngồi trong
thinh lặng và thêu may. Mọi người thêu thùa, đan may và thực tập từng đường kim
mũi chỉ. Trong phòng chỉ có tiếng lách cách của những mũi kim thêu, tiếng sột
soạt của sợi chỉ xuyên qua bạt vải, bên ngoài có khi là trời mưa, tuyết. Trong
giờ thứ hai, mọi người vẫn tiếp tục công việc thêu may của mình, và chúng tôi
nói chuyện.
Trong giờ nói chuyện, chúng tôi
không hề đề cập gì đến công việc thêu may. Chúng tôi nói về đời sống, về nỗi lo
sợ, những vất vả, những muộn phiền. Lời nói của chúng tôi phát xuất từ một không
gian tĩnh lặng, và chúng tôi lắng nghe nhau trong một không gian quân bình. Mọi
người đều đồng ý rằng chính một giờ thực tập định tâm trước đó đã giúp cho chúng
tôi có thể chia sẻ một cách thật sâu sắc. Sự thực tập định tâm cùng lúc vừa làm
vững mạnh vừa làm êm dịu tâm. Đó không phải là một sự nghịch lý. Đó là một sự
thật.
Tôi khám phá ra được hiệu quả của
sự định tâm này lần đầu tiên vào cuối một khoá tu thiền trong thinh lặng hai
tuần, tại tiểu bang Washington
vào năm 1977. Vì đây là một trong những khóa tu tập đầu tiên của tôi nên mọi
việc trong khóa tu đều là mới lạ và khó khăn. Thân tôi đau vì ngồi lâu, tôi vật
lộn với những cơn buồn ngủ, và hoàn toàn cảm thấy lẫn lộn về những lời hướng
dẫn.
Tôi bắt đầu cho rằng kinh nghiệm
này cũng giống như một cuộc phiêu lưu của tâm, và cảm thấy nếu hoàn tất được nó
sẽ là một chiến thắng lớn. Mỗi ngày qua, cái đau nơi thân tôi dần dà mất đi và
tôi cũng cảm thấy bớt buồn ngủ, nhưng không có một sự kiện gì là kỳ diệu xảy ra
hết. Vào ngày cuối cùng, nếu có ai hỏi tôi: “Chị có thấy khác biệt gì không?”
Tôi chắc chắn sẽ trả lời rằng: “Không!”
Chiều hôm ấy, sau khi khóa tu
thinh lặng chấm dứt, tôi gọi điện thoại về cho nhà tôi ở
California, để sắp xếp cho anh ra phi trường đón.
Trong câu chuyện, tôi hỏi thăm về ba tôi, ông trông rất khỏe mạnh ngày trước khi
tôi đi. “Anh muốn được thành thật với em,” nhà tôi nói “Anh muốn báo cho em biết
là ba em bị bệnh ung thư, mà đây là một căn bệnh bất trị.” Ngay trong giây phút
ấy, tôi chợt khám phá ra là mình đã
có khác biệt đó chứ!
Những tin buồn thì thường như là
những nhát búa chém vào tim. Ngay khi tôi nghe tin về ba tôi, tôi biết mình đã
nhận lãnh nó theo một cách hơi khác thường. Không phải là tôi không buồn. Tôi
cảm thấy đau đớn lắm chứ. Ba tôi còn trẻ, cường tráng, và vừa là một người bạn
tốt của tôi. Tin ấy như là một nhát búa giáng xuống tôi, nhưng nhát búa ấy đã
rơi vào một tấm nệm êm thay vì là một vách đá. Tôi run rẩy nhưng tôi không sụp
đổ. Tôi cảm thấy một cơn đau và một nỗi buồn sâu xa. Và rồi tôi bước ra ngoài,
hoà nhập với những thiền sinh khác và chúng tôi uống trà.
Tôi không hề có tham vọng tu tập
sao cho tâm mình sẽ không còn cảm thấy đau buồn trước những mất mát nữa. Tôi
muốn được cảm xúc cho thật sâu sắc, và mỗi lần tôi bị tan vỡ con tim, tôi sẽ
hiện trở lại với một tâm từ ái rộng lớn hơn. Tôi nghĩ tôi sẽ dám để cho tim mình
bị vỡ tan dễ dàng hơn, vì biết rằng tôi sẽ không bao giờ vỡ nát mãi mãi.
Chánh niệm: Ba tôi và cuốn phim cuối
Chánh niệm là một
sự chấp nhận có ý thức và quân bình về kinh nghiệm hiện tại của mình. Thật ra nó
chỉ đơn giản như vậy thôi. Nó là một sự cởi mở hoặc tiếp nhận giây phút hiện tại
này, dễ chịu hoặc khó chịu, đúng thật như đang hiện hữu, mà không hề bám víu
hoặc ghét bỏ. Theo tôi nghĩ, có ba cách giúp ta hiểu được mục đích của sự tu tập
chánh niệm.
Phương cách thứ nhất là thấy được
chánh niệm sẽ đưa đến tuệ giác như thế nào. Khi ta có thể duy trì khả năng tỉnh
thức và giữ quân bình trong từng giây phút của hiện tại, những chân lý của kinh
nghiệm sống tự chúng sẽ biểu lộ như là tuệ giác. Và khi tuệ giác tăng trưởng,
những tập quán nào của tâm có khuynh hướng thích bám víu vào những gì không thể
nắm bắt được sẽ dần dần suy giảm, và khổ đau cũng từ đó bớt đi.
Phương cách thứ hai là thấy được
chính sự tu tập chánh niệm tự nó sẽ hóa giải tâm ta khỏi những tập quán thúc đẩy
ta chạy trốn những gì khó chịu. Ta ngồi (hoặc đứng, hoặc đi, hoặc nằm, hay trong
bất cứ một tư thế nào), giờ này sang giờ kế, thực tập duy trì một sự tĩnh
lặng và tỉnh giác qua tất cả những phạm trù của các trạng thái thân và tâm, khi
chúng khởi lên – và không làm bất cứ một điều gì để thay đổi những kinh
nghiệm ấy, mà chỉ khám phá rằng ta có thể chịu đựng chúng được. Nhờ vậy
ta thấy được sự tu tập tự nó là một liều thuốc giải độc cho chứng bệnh phản ứng
hấp tấp thông thường của tâm khi đối diện với mỗi giây phút mới.
Phương cách thứ ba là nghĩ đến sự
tu tập chánh niệm tự nó chính là sự giải thoát, thay vì là dẫn đến
sự giải thoát. Mỗi giây phút sáng tỏ không bị quấy động bởi sự giằng co giữa sự
khen chê, ghét bỏ và ham muốn, là một giây phút giải thoát. Cuộc sống của ta chỉ
được làm bằng những giây phút mà thôi. Thời gian mà ta thật sự có là ngay giờ
phút này đây. Để dành những giây phút tự do bây giờ cho một sự an nhàn trong
tương lai có thể là tốt đó, nhưng chúng không thể nào bảo đảm cho ta một sự tự
do mãi mãi. Suy tính cho sự giải thoát trong tương lai có thể tạo điều kiện cho
chánh tư duy và chánh tinh tấn, nhưng nếu nó tạo nên một sự phấn
đấu hoặc một cảm giác thiếu sút hoặc bất toàn trong tâm ngay giờ phút này, thì
ta đâu có thật sự tự do!
Có lẽ các bạn cũng đã nghe câu
chuyện một người bị cọp rượt chạy đến trước một bờ vực thẳm. Luýnh quýnh ông ta
nhảy đại xuống vực, tay nắm được một sợi dây nho rừng mọc bên sườn núi, treo lơ
lửng giữa không trung. Phía dưới ông là vực sâu thăm thẳm, bên trên ông là con
cọp đói đang gầm gừ. Trong khi bị đu đưa lủng lẳng nửa chừng trong không khí, có
một con chuột bắt đầu gặm nhấm sợi dây nho rừng mà ông đang nắm. Tình trạng của
ông thật bấp bênh vô cùng. Lúc ấy, ông chợt thấy cạnh bên mình có một trái nho
chín đỏ mọc hoang, ông vói tay hái lấy và ăn. Hương vị của trái nho mới ngọt
ngào làm sao!
Ba tôi qua đời vì chứng bệnh ung
thư tủy sống, một loại bệnh ung thư có thể đối trị nhưng không chữa được. Trong
suốt bảy năm bệnh hoạn, ông xoay xở đối phó với sự suy sụp của sức khoẻ và sự
gia tăng của cơn đau bằng một sức chịu đựng không lay chuyển. Ông sử dụng gậy
chống, rồi đến xe lăn để đối phó với sự suy thoái của thể xác, mà vẫn tiếp tục
có một đời sống giao du rất bận rộn. Chúng tôi đã rất cởi mở và bàn luận rất
thường về cái chết không tránh khỏi của ông trong một tương lai không xa. Ông có
vẻ như đã hòa giải được với cái chết, mà không hề cảm thấy tuyệt vọng hoặc chán
đời. Chúng tôi nói đùa là không biết gia đình của đứa cháu nào là thích hợp cho
sự tái sinh của ông đây, nếu thật sự là ông sẽ có một sự chọn lựa.
Một hôm, khi chứng bệnh của Ba
tôi đã trở nên trầm trọng, tinh thần của ông dường như cũng đã suy sụp theo rất
nhiều. Với một ngày mới đang mờ mịt trước mặt, tôi nói với ông: “Hai ba con mình
đi xem phim nha!” Ông nhìn tôi với một ánh mắt hoài nghi: “Con biết không, Ba
sắp chết đến nơi rồi!” Tôi đáp: “Đúng rồi, nhưng không phải là hôm nay đâu
ba.”
Chúng tôi đi xem phim Raiders
of the Lost Ark. Hai ba con tôi thích lắm. Chúng tôi ăn tối tại Pacific
Cafe, tiệm ăn mà ông ưa thích nhất. Hôm sau, ông bắt đầu bị sưng phổi phải
đưa vào bệnh viện. Vài tuần sau ba tôi qua đời.
Nguyễn Duy Nhiên dịch