Từ chùa Bảo Sơn đến Đại tòng lâm Kim Sơn (Huế)
kim son
LTS:
Trong quá
khứ, Phật giáo đã cùng dân tộc chịu chung biết bao biến cố đau thương của lịch
sử. Phật giáo không tách mình ra khỏi vận mệnh an nguy của đất nước, để mưu cầu
an vui và tự tại cho riêng mình, trái lại, luôn luôn hài hòa, uyển chuyển cùng
với truyền thống tâm linh, tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục... của dân tộc.
Có thể nói, công cuộc chấn hưng Phật
giáo Việt Nam trong thế kỷ qua, đã kích thích cao độ niềm tin và lòng tự hào dân
tộc; đã đem lại nhiều thành tựu to lớn và ích lợi không riêng cho Phật giáo, mà
còn chung cho cả đất trời và dân Việt. Hình ảnh những bậc Cao Tăng thạc đức
trong các Đại Tòng lâm không biết nghỉ ngơi, không biết mệt mỏi, bằng trái tim
và khối óc của mình, quý Ngài đã duy trì, bảo vệ chánh pháp, cũng như đã
giữ vững được những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp của văn hóa nước
nhà.
Bằng những sự kiện được trình bày có
tính cách lịch sử trong bài viết của tác giả Tâm Quang, chắc chắn sẽ phản ảnh phần nào những thực tế nêu trên,
nay, BBT xin chia sẻ đến quý độc giả.
Chùa Kim
Sơn, Huế ngày nay
I. Bảo Sơn tự - giai đoạn hình thành và thời kỳ sập đổ
Ngày nay,
có ai còn nhắc đến, hay muốn tìm hiểu lai lịch về Đại Tòng lâm Kim Sơn ở Huế,
chắc không thể không liên tưởng đến ngôi cổ tự trên ngọn đồi Kim Sơn hùng vĩ,
thuộc địa phận thôn Lựu Bảo, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế!
Đó là ngôi Bảo Sơn Tự.
Ngôi cổ tự này, được xây dựng từ năm nào, chúng tôi chưa tìm thấy sử liệu để xác
chứng.
Chỉ thấy, còn có hai
hiện vật: Một là tấm bia đá “Trùng tu Bảo Sơn tự bi văn”, khắc năm Đinh Mùi,
1667, đang được trưng bày tại sân Viện Bảo tàng Mỹ thuật Cung Đình Huế, số 3
đường Lê Trực, thành phố Huế (trước là Bảo tàng viện Khải Định).
Hai là cái chuông gia-trì nhỏ, hiện được
lưu ký tại chùa Khánh Vân, cũng thuộc xã
Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên-Huế.
Tấm bia này, tuy
không còn đọc được chữ khắc trên mặt bia, vì đã quá mờ, nhưng ở lạc khoản, còn
đọc rõ được 10 chữ: “Cảnh Trị ngũ niên, tuế thứ Đinh Vị, Trọng Thu...” (phần
tiếp theo không đọc được).
Căn cứ vào câu ghi ở
lạc khoản này, cho ta thấy: Cảnh Trị là niên hiệu của vua Lê Huyền Tông (Duy Vũ)
(Quý Mão, 1663 - Tân Hợi, 1671). Năm Đinh Vị, ứng với Dương lịch là năm 1667; so
sánh với các chúa Nguyễn ở Nam Hà (Đàng Trong) thì năm này nhằm vào đời chúa
Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền) (Mậu Tý, 1648 - Đinh Mão, 1687). Dấu tích này cho ta
xác định: Trong khoảng thời gian ba năm - từ năm Ất Tỵ, 1665 đến năm Đinh Vị,
1667 - Bảo Sơn tự đã được trùng tu.
Như thế là chùa đã
được xây dựng nhiều năm trước đó. Có thể từ đầu đời chúa Nguyễn Phúc Tần, Mậu
Tý, 1648, sau chùa Thiên Mụ khoảng dưới vài mươi năm (chùa Thiên Mụ xây dựng năm
Tân Sửu, 1601).
Thứ hai là cái chuông
gia trì nhỏ, hiện lưu ký tại chùa Khánh Vân.
Ở thân chuông, có khắc dòng chữ: “Minh
Mạng thập bát niên, nhị nguyệt thập cửu nhật, Bảo Sơn tự Trú trì, pháp danh Tánh
Tại, tự Quảng Khiêm, chú tạo”, vào năm Minh Mạng thứ 18, Mậu Tuất, 1838.
Trong khoảng thời gian 11 năm - từ năm Giáp Tý, 1864 đến năm Ất Hợi, 1875 - dưới
triều vua Tự Đức, sách Đại Nam Nhất thống chí, do Quốc sử quán soạn, trong mục
Tự quán, ghi rõ ràng như sau: “Chùa Bảo Sơn, ở xã An Ninh, huyện Hương Trà,
khoảng đời vua Minh Mạng, Thuận Thiên Cao hoàng hậu đã bỏ của ra sửa lại...”.
Qua hai sự kiện nêu
trên, cho ta thấy, đến đời vua Tự Đức, chùa vẫn còn gọi tên là Bảo Sơn tự.
Trong cuộc binh biến nội cung, do Hồng Bảo, Đoàn Trưng, Đoàn Trực khởi xướng,
vào tối ngày mồng 08 tháng 9 năm Bính Dần, 1866, nhằm mưu sát vua Tự Đức, tức
Dực Tông Anh hoàng đế, để đưa Hồng Bảo lên thay. Âm mưu tạo phản bị đổ bể, khiến
vua Tự Đức nổi trận lôi đình, định tàn sát tất cả chư Tăng và triệt phá hết chùa
viện trên cả nước. Vì trong cuộc tạo phản này, có sự tham gia của nhiều vị sư ở
chùa Khoai, còn gọi là chùa Thiên Phúc, như sư Nguyễn Văn Quý, sư Nguyễn Văn
Viên, sư Nguyễn Văn Lý...
Rất may, do lòng đạo mộ
và tình cảm đối với đạo Phật của Lệ Thiên Hoàng hậu, nên bà đã kịp thời và hết
sức can ngăn. Hơn nữa, do được sủng ái, bà đã làm dịu được cơn thịnh nộ của vua.
Nhờ vậy mà mọi việc xấu không xảy ra.
Cũng từ đó - niên hiệu
Tự Đức thứ 19, Bính Dần, 1866 trở đi, Bảo Sơn tự được vua Tự Đức đổi thành Ngọc
Sơn tự. Phải chăng, Dực Tông Anh Hoàng đế, khi đổi tên Bảo ra tên Ngọc, là có ý
không muốn nhắc đến tên Hồng Bảo, con người đã có tội lớn đối với vua trong cuộc
mưu phản không thành ?
Trải qua
các triều vua kế tiếp, từ giữa niên hiệu Tự Đức, đến các vua:
§
Dục Đức
(Ưng Chân) Quý Mùi
1883(03 ngày)
§
Hiệp Hòa (Hồng Dật) Quý Mùi
1883(4 tháng)
§
Kiến Phúc
(Ưng Đăng) Giáp Thân
1884
§
Hàm Nghi
(Ưng Lịch) Ất Dậu
1885
§
Đồng Khánh (Ưng
Xuy) Bính Tuất
1886
§
Thành Thái
(Bửu Lân) Kỷ Sửu
1889
Ngọc Sơn tự vẫn được duy trì. Tuy đất
nước ở giai đoạn này, thực dân pháp đang áp dụng chính sách đô hộ vô cùng hà
khắc nhưng vua Thành Thái vẫn lưu tâm đến việc sửa sang các Tự quán, trong đó có
Ngọc Sơn tự.
Các sử liệu hiện lưu
hành cho thấy: Ngày 14 tháng 9 niên hiệu Thành Thái thứ 9 (Đinh Dậu, 1897), vua
sắc trùng tu Ngọc Sơn tự. Một năm sau, ngày 20 tháng 02 niên hiệu Thành Thái thứ
10 (Mậu Tuất, 1898) do Bộ lễ tấu trình, vua sắc cho sửa sang các tượng Phật và
pháp khí ở Ngọc Sơn tự. Một năm sau nữa, niên hiệu Thành Thái thứ 11 (Kỷ Hợi,
1899), vua lại sắc phong sư Tâm Minh Nguyễn Đức Tuyển làm Trú trì Ngọc Sơn tự.
Dưới sự trú trì của
sư Tâm Minh Nguyễn Đức Tuyển, Ngọc Sơn tự được duy trì và tồn tại tốt đẹp. Cho
đến gần cuối niên hiệu Thành Thái thứ 16 (Giáp Thìn, 1904), một trận bão khủng
khiếp thổi qua kinh thành Huế, đã làm cho Ngọc Sơn tự sập đổ hoàn toàn.
Từ đó, chùa không
được phục hồi, dù là một Quan tự.
Như thế, có thể nói,
cơn bão kinh hoàng năm Giáp Thìn (1904) đã “xóa tên” Bảo Sơn tự hay Ngọc Sơn tự
trên bản đồ danh lam thắng tích ở miền Trung.
Nếu kể từ đầu đời
chúa Nguyễn Phúc Tần, Mậu Tý, 1648 đến trận bão năm Giáp Thìn, 1904 thì Bảo Sơn
tự đã tồn tại được 356 năm.
Tuy không được phục
hồi nhưng 4 năm sau đó - vào ngày 22 tháng 8 niên hiệu Duy Tân thứ 2 (Mậu
Thân,1908) - Bộ Lễ có phiến tấu lên vua rằng: “...Về đất chùa, theo lời bẩm của
Tự trưởng chùa này là Lý Chánh Tâm, xin cho cất riêng một ngôi nhà nhỏ để thờ
chư Tăng đời trước, đã có công với chùa. Việc này có thể xem như việc riêng. Xin
cho y tự tiện”.
Phiến tấu lên, được
vua Duy Tân (1907-1916) chuẩn tấu. Thế nhưng, suốt khoảng thời gian 36 năm sau
đó, từ năm Mậu Thân, 1908 đến năm Giáp Thân, 1944 ngôi nhà Tăng nhỏ do Tự trưởng
Lý Chánh Tâm dựng lên cũng không còn đủ sức để níu kéo phần nào về một thời vàng
son của ngôi Bảo Sơn tự. Sự hùng vĩ của ngọn đồi Kim Sơn, từ đó cứ dần dần chìm
trong hoang phế.
II. Phật giáo Việt
Nam - công cuộc chấn hưng và những thành tựu to lớn
Để làm một gạch nối
giữa Bảo Sơn tự và Đại Tòng lâm Kim Sơn ở Huế.
Tưởng cũng nên phác
qua đôi nét về công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Hai cuộc vận động chấn
hưng Phật giáo ở chính quốc Ấn Độ và trên đất nước Trung Hoa, diễn ra rầm rộ, đã
tác động mạnh đến chư vị Tăng già và giới cư sĩ có tâm huyết ở Việt Nam.
Công cuộc chấn hưng
Phật giáo Việt Nam bắt đầu từ năm Canh Thân, 1920, do quý Cao Tăng ở miền Nam
Việt Nam khởi xướng.
Mở đầu, quý Ngài lập
Lục Hòa Hội (có sử liệu vẫn còn ghi là Lục Hòa Liên hiệp hội), mục đích để tạo
sự đoàn kết và làm động cơ vận động cho công cuộc chấn hưng.
Đầu năm Kỷ Tỵ, 1929,
Tổ Khánh Hòa, ở chùa Tiên Linh, Bến Tre, đích thân đi vận động hầu hết các chùa
lớn ở miền Nam. Tổ còn cử vị đệ tử của mình, là sư Thiện Chiếu, hướng dẫn một
phái đoàn ra miền Trung và miền Bắc để vận động cho phong trào.
Nhằm cổ động cho
phong trào chấn hưng đạt kết quả, ngày mồng 9 tháng 7 năm Kỷ Tỵ (ngày
13.8.1929), Tổ cho xuất bản tạp chí Pháp Âm. Hợp lực với Bổn sư, sư Thiện Chiếu
cũng cho xuất bản tạp chí Phật Hóa Tân thanh niên. Đây là hai tạp chí Phật giáo
đầu tiên viết bằng tiếng Việt. Có thể nói, hai tạp chí này đã khai nguyên cho
nhiều tạp chí Phật giáo viết bằng tiếng Việt sau này.
Hưởng ứng mạnh mẽ vào công cuộc chấn hưng do Tổ Khánh Hòa chủ xướng, ngày 13
tháng 7 năm Tân Mùi (ngày 26.8.1931), quý Cao Tăng cùng nhiều cư sĩ nhiệt tâm ở
miền Nam lập nên Nam Kỳ nghiên cứu Phật học hội. Lần đầu tiên, một hội Phật học
ra đời đã quy tụ hầu hết những nhà tâm huyết đối với sự hưng vong của Phật giáo.
Tổ Khánh
Hòa hiến cúng một ngôi chùa cho hội để lập Pháp bảo phường - làm nơi tôn trí đại
tạng kinh để nghiên cứu.
Ngày 25
tháng Giêng năm Nhâm Thân (ngày 01.3.1932), Hội cho xuất bản tạp chí Từ Bi Âm,
do Hòa thượng Nguyễn Chánh Tâm làm Chủ nhiệm, Hòa thượng Bích Liên làm chủ bút,
Hòa thượng Liên Tôn làm phó chủ bút. Cụ Trí Độ (Bình Định), sư Thiện Dung (Mỹ
Tho), sư Giác Nhật, sư Nhật Chánh (Cần Thơ) làm trợ bút.
Đặc biệt là Hòa thượng Nguyễn Chánh Tâm, Chủ nhiệm tạp chí
đã hiến cúng 33.000 m2 ruộng (tương đương với 3ha 30a) trong 15 năm
để lấy huê lợi, trợ giúp cho sự hoạt động của tạp chí Từ Bi Âm và góp phần nuôi
Tăng đồ học đạo.
Cuối năm Tân Mùi, 1931, Tổ Khánh Hòa, Tổ Huệ Quang, Khánh
Anh, Pháp Hải, cùng Hòa thượng Chánh Tâm, Viên Giác tiếp tục lập nên Liên đoàn
học xã. Mục đích là để đào tạo Tăng tài và hoằng dương chánh pháp.
Cũng
trong năm này, Hòa thượng Huệ Đăng, chùa Thiên Thai ở Bà Rịa, thành lập Thiên
Thai Thiền giáo tông, Thiện Hữu hội và cho xuất bản tạp chí Bát Nhã Âm. Bát Nhã
Âm là một tạp chí đã truyền bá giáo lý một cách sâu rộng trên cả nước lúc bấy
giờ.
Năm Giáp
Tuất, 1934, Tổ Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh, Pháp Hải, quý Hòa thượng Liên
Trì, Viên Giác, cùng nhiều vị cư sĩ lập nên Lưỡng Xuyên Phật học hội. Cũng với
mục đích là để đào tạo Tăng tài và hoằng dương chánh pháp.
Tóm lại, mở đầu cho công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt
Nam, chư Tổ, chư vị Hòa thượng, cùng nhiều cư sĩ ở miền Nam Việt Nam đã đóng góp
nhiều công lao to lớn, quý Ngài đã gây dựng nên một sự nghiệp hoằng pháp vô cùng
hiển hách cho công cuộc chấn hưng.
Tại Miền Trung,
Sau khi Nam kỳ nghiên cứu Phật học hội tại miền Nam ra đời
được một năm, vào ngày mồng 8 tháng 2 năm Nhâm Thân (ngày 14.3.1932) tại Huế, An
Nam Phật học hội thành lập. Trụ sở của hội đầu tiên đặt ở chùa Trúc Lâm, một
thời gian sau mới dời về Tổ đình Từ
Đàm.
Hội được
sự chứng minh của quý Hòa thượng:
-
Giác Tiên
(1880 - 1936)
-
Giác Nhiên
(1878 - 1979)
-
Giác Hạnh
(1880 - 1981)
-
Giác Bổn
( ?
- 1940 )
Cùng một
Ban Quản trị, gồm có các cư sĩ:
- Bác sĩ Tâm Minh
Lê Đình Thám
(Chánh Hội Trưởng)
- Cư sĩ:
Lê Quang Thiết
(Phó Hội Trưởng)
- Cư sĩ:
Lê Thanh Cảnh
(Hội Viên)
- Bác sĩ:
Trương Xưởng
_
- Cư sĩ:
Tôn Thất Quyền
_
- Cư sĩ:
Nguyễn Xuân Tiêu
_
- Cư sĩ:
Hoàng Xuân Ba
_
- Cư sĩ:
Lê Bá Ý
_
- Cư sĩ:
Tôn Thất Tùng
_
An Nam Phật học ra
đời đã khai quang một con đường mới cho Phật giáo miền Trung. Khung cảnh tối tăm
của Phật giáo trong nhiều thập kỷ qua đã bắt đầu hé rạng.
Ngày 16 tháng 11 năm
Quý Dậu (Ngày 01.01.1934), An Nam Phật học cho xuất bản tạp chí Viên Âm. Viên Âm
là tạp chí Phật giáo đầu tiên được phát hành tại miền Trung, là cơ quan truyền
bá chánh pháp rất rộng rãi và hữu hiệu của hội. Viên Âm còn là nơi quy tụ nhiều
cây bút lỗi lạc trong giới Tăng già và cư sĩ của Phật giáo miền Trung lúc bấy
giờ.
Ngày nay, tạp chí
Viên Âm vẫn còn được lưu trữ trong tủ sách các Tu viện, Thiền viện, Phật học
viện để làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập cho mọi giới. Sự kiện ấy
cũng đủ nói lên tầm ảnh hưởng của tạp chí Viên Âm đến dường nào!
Đến đây, tưởng cũng
nên ghi lại tất cả các lớp Phật học, các Đạo tràng giảng dạy Phật Pháp tại các
Tổ đình, trước khi An Nam Phật học hội cho thành lập và khai giảng Phật học viện
tại chùa Tây Thiên, Thừa Thiên-Huế.
Tại Bình Định, năm
Canh Thân 1920, Hòa thượng Phước Huệ, ở Tổ đình Thập Tháp, Thiền sư Phổ Huệ ở
chùa Tịnh Lâm tổ chức các lớp học cho Tăng chúng tại hai chùa Thập Tháp và Long
Khánh.
Tại Thừa Thiên Huế,
cũng trong năm Canh Thân, 1920, có Thiền sư Thanh Tú Tuệ Pháp, Trú trì chùa
Thiên Hưng, Thiền sư Thanh Thái Tuệ Minh, Trú trì chùa Từ Hiếu, Thiền sư Như
Thông Đắc Ân, trú trì Tổ đình Quốc Ân, Thiền sư Thanh Ninh Tâm Tịnh, khai sơn
chùa Tây Thiên, các Ngài đều mở các lớp Phật học và Đạo tràng để giảng dạy tại
các chùa Tổ.
Năm Kỷ Tỵ, 1929, Hòa
thượng Giác Tiên tổ chức lớp Phật học tại chùa Trúc Lâm. Hòa thượng đích thân
vào cung thỉnh Hòa thượng Phước Huệ ở Tổ đình Thập Tháp ra giảng dạy. Đặc biệt ở
lớp học này, có một vị cư sĩ theo học thường xuyên, đó là Bác sĩ Lê Đình Thám.
Lúc bấy giờ, Bác sĩ đang đảm trách chức vụ Y sĩ trưởng Viện bào chế và Vi trùng
học Louis Pasteur tại Huế (có thời gian là Y sĩ trưởng Quản đốc Lao viện
P.Pasquier, cũng tại Huế).
Năm Quý
Dậu, 1933, Hòa thượng Giác Tiên cùng một số đệ tử của Ngài, tổ chức lớp Sơ đẳng
Phật học cho giới Sa di tại chùa Vạn Phước. Theo học lớp này có gồm 50 vị Sa di.
Chương trình học được quy định là 5 năm, nhưng mới học được hai năm, đến đầu năm
Ất Hợi, 1935 lớp nầy lại dời về chùa Báo Quốc. Lúc này, đã có Đại sư Trí Độ từ
Bình Định ra nhận trách vụ Đốc giáo.
Năm Giáp Tuất, 1934,
Hòa thượng Giác Tiên và Giảng sư Mật Khế, tổ chức và khai giảng lớp Cao đẳng
Phật học tại chùa Trúc Lâm. Lớp Cao đẳng nầy vẫn được Hòa thượng Phước Huệ giảng
dạy. Nhưng rất tiếc, lớp nầy mới hoạt động được một năm, đến năm Ất Hợi, 1935
thì Giảng sư Mật Khế viên tịch (1904-1935). Qua năm sau nữa, Bính Tý, 1936, Hòa
thượng Giác Tiên cũng viên tịch (1880-1936).
An Nam Phật học hội
đứng ra cáng đáng và tiếp tục duy trì lớp Cao đẳng nầy. Sau đó, đưa vào hệ thống
của trường An Nam Phật học.
Năm Ất Hợi, 1935,
trường An Nam Phật học tiếp tục mở thêm lớp Trung đẳng tại chùa Tường Vân, do
Thiền sư Tịnh- Khiết trông coi và Hòa thượng Phước Huệ giảng dạy. Lớp nầy, mới
học chưa được một năm thì phải dời lên và sáp nhập vào Phật học viện Tây Thiên.
Về phía học Ni:
Năm Nhâm Thân, 1932,
sư bà Trừng Ninh Diệu Hương (1884-1971) mở lớp học Ni và thành lập Ni trường tại
chùa Từ Đàm. Đến năm Giáp Tuất, 1934, sau khi xây dựng chùa Diệu Đức xong, lớp
nầy dời về chùa Diệu Đức. Về sau gọi là Ni viện Diệu Đức Huế. Đây là lớp học Ni
đầu tiên tại Huế.
Ngày 19
tháng 9 năm Ất Hợi, (ngày 16.10.1935) An Nam Phật học hội quyết định thành lập
và khai giảng Phật học viện với đầy đủ 3 trường: Sơ đẳng, Trung đẳng và Cao đẳng
tại chùa Tây Thiên.
Đây là một Phật học viện được An Nam Phật học hội tổ chức
rất quy mô và có hệ thống nhất trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại miền
Trung. Phật học viện đặt dưới sự chủ giảng của Quốc sư Phước Huệ, cùng sự giảng
dạy của Hòa thượng Phổ Huệ, Đại sư Trí Độ, Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám,v.v...
Nhờ công lao giảng dạy của các bậc Thầy lỗi lạc ấy mà Phật học viện Tây Thiên
trở thành một trung tâm đào tạo Tăng tài nghiêm túc và có chất lượng học tập cao
nhất của Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.
Tuy
nhiên, đấy chưa hẳn là mô hình mà An Nam Phật học hội bằng lòng. An Nam Phật học
hội muốn có một mô hình Phật học viện lý tưởng hơn, to lớn, điển hình và cụ thể
hơn. Một Phật học viện có đầy đủ nhu cầu cần thiết và thích hợp cho việc học tập
và tu trì của tất cả học Tăng, có thể sánh bằng Phật học viện Nalanda ở Ấn Độ.
Mô hình đó đã được phác họa và triển khai: “Đại Tòng lâm Kim Sơn”.
Tóm lại,
trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, có thể nói, đây là giai đoạn cực thịnh
của các Trung tâm đào tạo Tăng tài tại miền Trung mà công cuộc chấn hưng Phật
giáo Việt Nam đã đem lại.
III. Đại Tòng lâm Kim Sơn - giai đoạn hình thành và thời kỳ tan rã
Sự hình
thành và phát triển mạnh mẽ của Đại Tòng lâm Kim Sơn ở Huế, là kết quả trong quá
trình nỗ lực của công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam.
Trước khi
tổ chức kỳ thi tốt nghiệp tại Phật học viện Báo Quốc giữa năm Quý Mùi, 1943, An
Nam Phật học hội đã có dự án xây dựng tại đồi Kim Sơn, đất cũ của ngôi Bảo Sơn
tự, ở thôn Lựu Bảo, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, thành một
Phật học viện quy mô, có tầm cỡ của một Đại học viện Phật giáo.
Bác sĩ
Tâm Minh Lê Đình Thám, trên cương vị Chánh Hội trưởng An Nam Phật học hội và Đại
sư Trí Độ, là hai nhân vật lỗi lạc đã bỏ ra nhiều công sức, để phác họa và nỗ
lực tiến hành dự án lớn lao này. Quý Ngài muốn lập lên trên ngọn đồi Kim sơn
hùng vĩ, đẹp đẽ nầy một Phật học viện đồ sộ và tập trung như kiểu Phật học viện
Nalanda ở Ấn độ.
Cấp học
và thời gian học dự tính sẽ phân làm 3 cấp, từ Sơ đẳng đến Cao đẳng, mỗi cấp học
hai năm. Việc ăn ở của học Tăng, được trường chu cấp hoàn toàn trong suốt thời
gian theo học. Chương trình học sẽ được phân bổ đầy đủ cho mỗi cấp học. Kỳ thi
tốt nghiệp của mỗi cấp sẽ có phần thi viết và phần thi nói,...
Đầu năm
Giáp Thân, 1944, dự án được xúc tiến xây dựng. Hơn nửa năm sau, những ngôi nhà
mới mẻ, khang trang đã được dựng lên trên ngọn đồi Kim Sơn. Từ đó, sự hoang phế
trong bao nhiêu năm cũng lùi dần.
Việc di
chuyển các Phật học viện về Đại Tòng lâm Kim Sơn lần lượt được tiến hành.
Trước khi
chuyển về Đại Tòng lâm Kim Sơn, tại Phật học viện Báo Quốc, Huế, vào năm Quý
Mùi, 1943, có một kỳ thi khác thường. Kỳ thi nầy đã được Hòa thượng Trí Quang -
lúc bấy giờ là một học Tăng - ghi lại như sau: “Phật học viện có học trình 10
năm: 3 năm Sơ đẳng, 3 năm Trung đẳng, 2 năm Cao đẳng và 2 năm Siêu đẳng. Mỗi năm
có một kỳ thi. Đề tài lấy trong kinh sách học trong năm đó. Kỳ thi 2487 (1943)
là tốt nghiệp Trung đẳng. Đột nhiên, có quyết định thi hết kinh sách đã học từ
năm đó trở lui. Có vài môn thi vốn không học, như thi viết luận Hoa văn, thi nói
nghi lễ mà các điệu Tán là chính. Viện cho biết, thi tuyển sẽ khó khăn và trúng
tuyển kỳ thi nầy là trúng tuyển tốt nghiệp. Học trình 2 năm Cao đẳng và 2 năm
Siêu đẳng sẽ dồn lên làm một và không thi nữa”.
Trong kỳ
thi tốt nghiệp nầy, có đến 50 học Tăng tham dự nhưng chỉ có 6 học Tăng được chọn
đậu hẳn, 4 học Tăng được vớt phần thi nói.
Sáu học Tăng đậu hẳn trong kỳ thi nầy, hiện là quý Hòa thượng:
- Trí Quang, Pháp danh
Nhật Quang,
Pháp hiệu Trí Hải
( 1923 - ... )
- Trí Đức, Pháp danh Tâm
Phật,
Pháp hiệu Thiện Siêu
(1921-2001)
- Trí Nghiễm, Pháp danh
Tâm Thị,
Pháp hiệu Thiện Minh
(1922-1978)
- Trí Thuyên
(1923-1947)
- Trí Tịnh
( ?
- ? )
- Trí Thành
( ?
- ? )
Về chữ TRÍ của 6 Pháp hiệu trên, đã được Hòa thượng Trí Quang, ghi lại như sau:
“Sau kỳ thi 2487 (1943), Phật học viện tổ chức lễ phát nguyện cho giới Sa di, do
Ngài Như Đông Đắc Quang, Trú trì Tổ đình Quốc Ân, chứng minh. Ngài Trí Độ cho
mỗi người một Pháp hiệu với chữ Trí đứng đầu. Cái tên Trí Quang có từ đó”.
Lễ tốt nghiệp ra trường cũng được Hòa thượng ghi lại, chi tiết như sau: “Và hai
năm sau, Ất Dậu, 2489 (1945) tại Đại Tòng lâm Kim Sơn, cách con sông sau chùa
Thiên Mụ, cơ sở mới của Phật học viện, lễ tốt nghiệp được tổ chức, chỉ vài ngày,
trước ngày Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương”.
Quân Nhật đảo chánh
quân Pháp xảy ra vào lúc 20g25’ ngày 09.3.1945 (ngày 25 tháng Giêng năm Ất Dậu),
đã làm thay đổi cục diện chính trị nước Việt Nam lúc bấy giờ.
Quân Pháp bại trận,
nhường quyền cai trị cho quân Nhật, đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam vốn khó
khăn lại càng khó khăn hơn. Dân chúng lâm vào cảnh lầm than, đói rét, hơn hai
triệu người dân Việt Nam, từ các tỉnh ở miền Bắc đến Thừa Thiên đều bị chết đói.
Trong hoàn cảnh ấy,
Đại Tòng lâm Kim Sơn dù chưa tan rã hoàn toàn, nhưng cũng lâm vào cảnh khó khăn,
thiếu thốn, kinh tế và tài chính hầu như cạn kiệt.
Trước
tình trạng khốn đốn ấy, An Nam Phật học hội đã có quyết định kịp thời và đúng
đắn. Sự kiện lịch sử nầy, đã được Hòa thượng Thiện Hoa, lúc bấy giờ đang theo học lớp Cao đẳng
tại Đại Tòng lâm Kim Sơn ghi lại như sau: “Đến năm 1945, sau ngày Nhật đảo chánh
Pháp, Phật học viện Kim Sơn (Huế) không duy trì được, nên phần lớn Giáo sư và
học Tăng được đưa vào Nam. Lúc bấy giờ, Hội An Nam Phật học, ủy thác cho chúng
tôi (TT.Thiện Hoa) trở về Nam, vận động với một đại thí chủ - ông Trương Hoằng
Lâu - ở Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, đài thọ tài chính và thành lập Phật học đường tại
chùa Phật Quang, xứ Bang Chong, quận Trà Ôn, để tiếp tục chương trình giáo dục
Phật giáo. Trường khai giảng gần một năm, rồi bị khủng hoảng một thời gian ngắn.
Vì đến năm 1946-1947, đa số Tăng Ni trên toàn quốc, đều theo tiếng gọi của Tổ
quốc, tham gia phong trào “chống Pháp cứu nước”, thành lập “Phật giáo cứu
quốc...”.
Cuối năm
Bính Tuất, 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đến hồi quyết liệt.
Ngày 17.12.1946, thực dân Pháp tái chiếm nước Việt Nam. Tiếng súng bắt đầu nổ ở
thủ đô Hà Nội và lan ra khắp cả nước.
Ngày
20.12.1946 (ngày 27.11 năm Bính Tuất), Mặt trận Việt Minh ban bố lời kêu gọi
toàn dân “Trường kỳ kháng chiến”.
Ngày
16.01.1947 (ngày 25.12. năm Bính Tuất), thực dân Pháp xua quân đổ bộ lên Huế.
Dân chúng Huế tản cư.
Từ đó, Tăng chúng ở Đại Tòng lâm Kim Sơn hoàn toàn phân
tán, chạy lánh nạn khắp mọi nơi. Chỉ còn duy nhất một vị Tăng trẻ ở lại gìn giữ
Đại Tòng lâm. Đó là Giảng sư Trí Thuyên - Giảng sư Trí Thuyên tục danh là Trần
Trọng Thuyên, sinh năm Quý Hợi, 1923, tại Quảng Ngãi. Năm 12 tuổi, Giảng sư đến
đầu sư tại chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi, sau đó được Bổn sư gởi ra Huế, tham học
tại trường An Nam Phật học.
Bảo tháp Hòa thượng Trí Thuyên trong
khuôn viên chùa Kim Sơn
Giảng sư
là một trong sáu vị học Tăng xuất sắc, đã được chấm đậu hẳn trong kỳ thi tốt
nghiệp năm Quý Mùi, 1943. Năm Giáp Thân, 1944, Giảng sư thọ Tỳ kheo giới. Sau
khi thọ Đại giới, được An Nam Phật học hội mời làm Giảng sư và theo Đại chúng
lên ở Đại Tòng lâm Kim Sơn.
Thời gian
nầy, quý vị Phật tử ở chung quanh Tòng Lâm, đảm nhận phần cúng dường cơm nước
cho Giảng sư. Đặc biệt, Giảng sư chỉ dùng duy nhất một bữa Ngọ.
Sáng ngày
mồng 1 tháng 2 năm Đinh Hợi (ngày 21.2.1947), giặc Pháp đóng quân ở đồn Văn
Thánh - Huế, đã mở trận bố ráp khắp vùng An Vân - Lựu Bảo - Kim Sơn. Chúng lên
Tòng Lâm lùng sục và khám xét khắp nơi. Chúng tìm thấy trong kho chứa nông cụ,
một thanh trường kiếm. Sau đó chúng bắt Thầy dẫn về đồn. Qua đồn, không gặp được
tên chỉ huy, nên chúng cho Thầy về sau khi đã tra hỏi việc cất giấu thanh gươm,
và hẹn 2 giờ chiều hôm sau sẽ qua gặp lại Thầy.
Đúng hai
giờ chiều ngày mồng 2 tháng 2 năm Đinh Hợi (ngày 22.02.1947), dân chúng ở chung
quanh Đại Tòng lâm, thình lình nghe hai tiếng súng nổ lớn. Tất cả mọi người đều
bàng hoàng, và linh tính như có điều gì không may đã xảy ra.
Trưa hôm
sau, các Phật tử không thấy Giảng sư xuống dùng cơm. Mọi người đổ xô lên tìm,
không thấy Thầy đâu, chỉ thấy sau vườn Tòng Lâm có một chỗ đất mới, có dính
nhiều vết máu bầm đen, đang bị che phủ bởi nhiều cành cây mới chặt, lá còn
tươi,...
Vài hôm
sau đó Đại Tòng lâm Kim Sơn đã biến thành một đồn binh của giặc Pháp chiếm đóng.
Như thế, Đại Tòng lâm Kim Sơn, sau gần 3 năm xây dựng và phát triển rực rỡ, đến
đây xem như hoàn toàn tan rã.
Ngày nay, Đại Tòng lâm Kim Sơn tuy đã đi vào quá khứ,
nhưng dấu tích lịch sử vẻ vang và tên tuổi của chư vị Cao Tăng lỗi lạc, xuất
thân từ Đại Tòng lâm nầy, vẫn còn ghi đậm trên trang sử vàng son của Phật giáo
Việt Nam nói chung và Phật giáo miền Trung nói riêng.
Dấu tích
của một thời huy hoàng sẽ còn vang vọng và sống mãi với tên gọi: ĐẠI TÒNG LÂM
KIM SƠN.²
TÂM QUANG
Tài liệu tham khảo:
§
Tiểu truyện tự ghi của Hòa thượng
Thích Trí Quang, trích từ: http// quangduc.com.
§ 50 năm chấn
hưng Phật giáo Việt nam, HT Thiện Hoa (soạn), Sài gòn, 1970.
§
Niên biểu Việt Nam, Vụ bảo tồn Bảo
tàng (soạn), Nxb: Khoa học Xã hội, Hà nội, 1984.
§ Tiểu sử Bác sĩ Tâm
Minh Lê Đình Thám, trích từ “GĐPT Thừa Thiên Huế, kỷ niệm 50 năm GĐPT Việt
Nam”, Huế-2001.
§
Việt nam đất nước-con người, Nxb: Thông tấn, Bình Định, 2003. Và cùng một số tư
liệu khác.