Bàn về vạn vật

ban ve

Bàn về vạn vật

 




I. Các bước khảo sát

II. Bản tính của vạn vật 

III. Khái niệm của Aristotle

IV. Khái niệm thời hiện đại

V. Tóm lược

 

I. Các bước khảo sát          

1. Phương pháp

Không chỉ một pháp môn Triết học Phật giáo cho rằng vạn sự trong thế giới này đều tương liên nối kết (interrelation) và tương tác (interaction): “hỗ tương nhiếp nhập”; sự biến đổi xảy tới cho cái này sẽ tác động lên mọi cái khác.

Nếu quả thật quan điểm ấy đúng, và thế giới này là một hệ thống trong đó mọi sự mọi vật mọi biến cố đều tương thông tương xâm thì không quan trọng lắm việc chúng ta bắt đầu cuộc thẩm tra của mình từ chỗ nào.

Có nhiều con đường dẫn tới ngọn “Hoa sơn”, biểu tượng cho cực điểm thăng hoa của nhận thức và giác ngộ. Có thể vài con đường này được ưa thích hơn những con đường khác, nhưng nếu kẻ du hành quyết chí bền gan và cứ tiếp tục tiến bước, không sớm thì muộn y cũng sẽ đặt chân lên đỉnh núi ấy.

Ba điểm khởi hành Một số triết gia thích khởi hành với khoa học. Họ xem khoa học là nguồn thông tin bảo đảm nhất mà chúng ta đang sở hữu. Họ triển khai các nội hàm (implications) của thông tin ấy thành một khái niệm tổng thể (a total conception) về vũ trụ.

Một số triết gia thích khởi hành với kinh nghiệm. Họ cho rằng điểm khởi hành đó thích đáng hơn, vì kinh nghiệm là nguồn thông tin có ngay lập tức ở cấp độ cao nhất tuy thường bị lơ là nhất.

Trong khi đó có một số triết gia khác lại thích khởi hành với lý trí. Họ cho rằng khi xem xét sơ bộ một loại câu hỏi nào đó, lý trí có thể xử lý rất hữu hiệu và có khả năng đưa ra một loại câu trả lời nào đó. Và khởi điểm hợp lý ấy sẽ ngăn không để cho triết gia chấp nhận và thực thi các quan điểm thật ra chỉ có giá trị thỏa mãn cảm xúc chứ không đáng tán thưởng chút nào.

Loại nào cũng phù hợp Bất cứ khởi điểm thẩm tra nào trong cả ba loại vừa kể cũng phù hợp với mục đích của chúng ta. Mỗi loại cho thấy một phương pháp riêng biệt của triết học, tương ứng với cơ sở lý thuyết mà mỗi triết gia chọn lựa cho mình.

Tuy thế, nếu thích khởi hành với sự khảo sát có tính phê phán một số giả định căn bản của cảm quan chung và khoa học, có thể chúng ta sẽ cảm thấy khá gay go và nhiều khi không thuận chiều với sở thích của mình, ngoại trừ sự tiện lợi của nó và khát vọng nhấn mạnh chức năng phê phán của triết học. Ở đây, chúng tôi chọn lựa điểm khởi hành đó để chúng ta cùng dắt dìu nhau lần bước qua ngưỡng cửa triết học.

 

2. Ðối tượng

Ba đối tượng khảo sát Ðối với người bình thường, thế giới dường như làm thành bởi vạn vật (things); vật nào cũng sở hữu phẩm tính (quality) và đồng thời tương liên tương nhập, làm thành tương quan (relation) với các vật khác.

Như vậy, chỉ có ba đối tượng khảo sát: (1) Vạn vật, (2) các phẩm tính, và (3) các tương quan; thế thôi. Bất cứ thông giải nào về vũ trụ cũng phải liên quan tới cả ba hạng mục căn bản (basic categories) ấy.

Ðặt vấn đề Ngang đây, chúng ta không thể không thấy nổi bật hai vấn đề. Một là không biết người bình thường ấy đúng hay sai khi phân tích như thế. Hai là chúng ta phải khảo sát những gì những người ấy quả thật có ý nói qua các thuật ngữ (terms) dùng để gọi các đối tượng đó.

Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận ý nghĩa của “vạn vật”. Trong bốn chương kế tiếp, chúng ta sẽ xem xét “phẩm tính” và “tương quan”, với sự viện dẫn (reference) đặc biệt tới tương quan của thời gian (time) với không gian (space) và quan hệ nhân quả (causality).

Rất có thể cuộc khảo sát mang tính phê phán các khái niệm này sẽ vén lộ cho thấy một số hiểu biết sai lầm đáng kể hoặc mơ hồ đáng kể, có khả năng tác động lên bất cứ lý thuyết tổng quát nào về bản tính của vũ trụ (the nature of universe).

 

II. Bản tính của vạn vật

1. Thử xác định vật

Ba đặc điểm của vật  Ở đây, từ ngữ “vật” (thing) được dùng với mục đích chỉ rõ một thực thể (entity) nhất định, thí dụ xe máy, trâu bò, ngôi sao, hành tinh, nguyên tử, tòa nhà. Nếu hiểu chữ ấy với hàm ý khả dĩ rộng rãi nhất của nó thì một cách khái quát, chúng ta có thể cho rằng vật có ba đặc điểm:

1. Ðặc điểm thứ nhất, vật dường như có tự tính (self-contained) – tự thân nó chứa đựng đầy đủ các đặc tính của nó – và có tính độc lập (independent), theo ý nghĩa có thể phân biệt nó với môi trường (environment) và có thể xê dịch nó từ môi trường này sang môi trường khác mà bản tính (nature) của nó không bị biến đổi (change).

2. Ðặc điểm thứ hai, vật dường như kéo dài (duration) bất biến trong một khoảng thời gian nào đó hoặc thường trực (thường tại, vĩnh viễn, permanence). Một vật có thể chịu những biến đổi trạng thái (changing states) – trái ổi xanh có thể biến thành trái ổi vàng nhưng cũng vẫn là trái ổi đó. Chiếc xe máy dù đang chạy trên đường hay đang đậu một chỗ, cũng vẫn là chiếc xe máy đó.

3. Ðặc điểm thứ ba, vật được giả định rằng tự nó sở hữu các phẩm tính của nó. Trái ổi chín thì tự nó có màu vàng, vị chua hay ngọt và hình tròn. Ðặc điểm thứ ba này gần gũi với đặc điểm thứ hai vì vật là cái gì đó thường tại, được phân biệt với các trạng thái đang biến đổi hoặc với các phẩm tính của nó.

Ðặt vấn đề Ðối với chúng ta, vấn đề là quyết định rằng có quả thật tìm thấy cả ba đặc điểm ấy trong cùng một vật như một đối tượng – hay đối vật hay khách thể – của kinh nghiệm (object of experience) không.

Nếu thấy là không, lúc đó chúng ta buộc lòng phải xét lại quan niệm ấy về vạn vật.

 

2. Vạn vật có tự tính

Thí dụ minh họa Năm ngoái, vào một buổi chiều có nắng vàng và gió nhẹ, tôi ngồi đọc sách nơi thềm đình làng Hàm Hòa, gần bờ sông Nhật Lệ. Nhìn sang bãi cỏ bên cạnh, tôi thấy có khoảng một chục đứa trẻ trong làng đang nô đùa trên bãi cỏ xanh, cạnh các cây dâm bụt đang ra hoa.

Tôi dễ dàng phân biệt bọn trẻ ấy với cỏ xanh và hoa đỏ mà không cần phải tách rời cái này với cái kia. Tôi chẳng cần phải có khả năng đặc biệt nào mới có thể phân biệt những vật ấy. Bọn trẻ tự chúng tạo nên sự phân biệt đó.

Nếu tôi có ý chờ lúc các bà mẹ ra gọi bọn chúng về ăn cơm, có khả năng tôi biết chắc chắn rằng bà mẹ nào sẽ gọi đứa con nào của mình, từng đứa trẻ, cỏ xanh, cây dâm bụt hoa đỏ, những phân biệt ấy chẳng chút nào khó khăn. Dường như các vật ấy có tự tính, nghĩa là nó tự túc, tự thân nó chứa đựng nó, và có tính độc lập. Ta có thể phân biệt chúng tách bạch với môi trường.

Mỗi đứa trẻ, giống như mỗi cọng cỏ và mỗi cây dâm bụt, hình như là một thực thể có tự tính, đang độc chiếm phần không gian riêng của nó và loại trừ mọi cái khác. Hôm qua, có một thằng bé vô ý thức; nó ra sức giành cái chỗ đang bị một bụi dâm bụt độc chiếm nhưng nó gặp phải sức kháng cự đáng kể, và nó không thành công. Nếu tôi nói rằng chúng được phân biệt nhờ những phần không gian khác nhau mà chúng đang chiếm lĩnh, tức là tôi cho rằng tôi hiểu từ ngữ “không gian” có ngụ ý gì. Trong một chương sau, chúng ta sẽ thấy đó là một giả dụ thập phần quan trọng.

Vạn vật có tự tính không Do đó, chúng ta hãy cùng nhau xem xét lời phát biểu rằng vạn vật có tự tính (tính tự túc, tự chứa đựng). Dù chữ “tự tính” có ý nghĩa nào đi nữa, nó bao hàm sự phân biệt cá thể với môi trường.

Chữ “môi trường”, đối với bất cứ đứa bé nào ở đó, cũng bao gồm những đứa bé khác và cỏ và cây dâm bụt cùng với những cái khác nữa trong đó không khí được kể là một. Nếu có sự phân biệt thật sự đứa bé với môi trường thì phải có sự phân biệt đứa bé với không khí.

Ðứa bé nào cũng phải thở để sống; thở thì liên quan tới việc hít một số không khí vào buồng phổi. Giờ đây một thành phần của môi trường đã nhập vào và đang ở bên trong đứa bé khiến tôi không thể định nghĩa môi trường một cách giản dị rằng nó là cái ở bên ngoài con người.

Một khi không khí đi vào phổi, dưỡng khí hòa nhập vào máu, có phải lúc ấy không khí thôi không còn là thành phần của môi trường mà đã trở thành thành phần của đứa bé? Nếu quả đúng như thế, tôi không còn chỗ nào để vạch lằn ranh phân biệt giữa đứa bé với môi trường.

Tương liên tương tác Trong điều kiện bình thường, bọn trẻ không ăn thịt nhau, cũng như không ăn các vật như cỏ và cây dâm bụt, nên chúng ta vẫn có thể giữ sự phân biệt thật sự giữa bọn trẻ và môi trường của chúng. Chúng ta hãy làm cho quang cảnh thôn dã êm đềm ấy trở nên phức tạp một chút bằng cách cho vào đó một con bò.

Sự phân biệt đứa bé với con bò thì cũng rõ ràng không kém sự phân biệt nó với cây dâm bụt; nhưng tôi biết rằng con bò ấy có thể bị giết, lấy ít thịt của nó nấu một nồi bò kho rồi múc ra một tô cho đứa bé ấy ăn. Một khi hoàn tất việc giết, mổ thịt, nấu và ăn ấy, sự phân biệt giữa đứa bé và con bò biến mất.

Thành chu kỳ sinh hóa Ðược nuôi dạy kỹ lưỡng, đứa bé ấy không ăn cỏ, cũng không ăn các đứa bé khác. Nhưng bò thích ăn cỏ và biến cỏ thành bản thể của chính nó. Khi đứa bé ăn thịt con bò tức là nó đã gián tiếp ăn cỏ. Chúng ta hãy thử làm như “hơi bệnh một tí” để đẩy ý nghĩ đi xa hơn, tới thời điểm đứa bé ấy đã sống đủ ngày đủ tháng đủ năm của nó và trở về đoàn tụ với ông bà tổ tiên. “Ðứa bé” lúc ấy được mai táng. Chẳng bao lâu, thể xác của nó bị rữa nát dưới huyệt mộ, trở thành thành phần của đất. Và trên nấm mồ của nó mọc lên những ngọn cỏ xanh lấy nó làm dưỡng chất.

Tới đây, xin dành cho bạn tưởng tượng tiếp, nhưng rõ ràng chúng ta đang tình cờ thấy một chu kỳ của thiên nhiên, còn gọi là tự nhiên. Cỏ chuyển thể thành con bò; con bò chuyển thể thành đứa bé; đứa bé chuyển thể thành cỏ; và rồi cỏ chuyển thể thành con bò, v.v. Làm sao vòng quay ấy khả thi nếu trong những cái chuyển thành đó, mỗi cái là một thực thể tự tính và độc lập?

 

3. Các quan điểm ban sơ

Thời huyền thoại Những suy ngẫm về các vấn đề ấy đưa tới sự khởi đầu của nền triết học Hi Lạp. Các giải thích trước thời đó về thiên nhiên, vốn dựa trên những truyện thần thoại và truyền thuyết của hai thi sĩ Hi Lạp sống khoảng thế kỷ 8 trước Công nguyên là *Homer và *Hesiod, dường như không đủ thỏa đáng để giải thích sự phát triển của vạn vật đang mở ra trước con mắt quan sát của loài người.

Người thuở đó hẳn đã từng cảm thấy cực kỳ thú vị với lối giải thích đầy chất thơ ấy. Nó tự phân giải thành cuộc tìm kiếm chất liệu tối hậu (ultimate stuff) làm thành vạn vật và các nguyên tắc liên quan tới sự triển khai chúng thành những vật cá biệt hoặc đặc thù (particular things).

Thời triết học tiền-Socrates Khác với chúng ta ngày nay, người Hi Lạp thuở đó không biết rằng có nhiều vật rất khác nhau, thí dụ kim cương và than đá, mà về mặt cơ bản chỉ là một. Nhưng chu kỳ thiên nhiên gợi cho họ thấy rằng vạn vật hẳn phải được cấu tạo bởi một bản thể chung (common substance), có như thế mới có khả năng giải thích sự chuyển thể của vật này thành vật nọ.

*Thales (k.620- k.555 tr.C.N.) là kẻ được hậu thế xem là triết gia đầu tiên vì ông đã đặt cơ sở cho triết học phương Tây. Ông tin rằng vạn vật được làm thành bởi nước. Rõ ràng lối giải thích ấy có những nan giải hiển nhiên. Người ta đề ra các thuyết khác để khắc phục những khiếm khuyết ấy nhưng chúng hầu hết đều xoay quanh ngụ ý ít nhiều tới thành tố – hoặc hành chất (substance) – được xem là cơ bản của thiên nhiên. *Anaximenes (?-k.500 tr.C.N.), nhà siêu hình học trứ danh, bảo là không khí. *Heraclitus nói là lửa. *Empedocles (k.495-k.435) thì kể tới bốn thứ là lửa, nước, khí và đất. Còn *Pythagoras (k. tk 6 tr.C.N.) lại bảo là các con số.

Cùng phát biểu về thế giới vật chất ấy còn có đại triết gia Hi Lạp *Ananximander (k.611-547), kẻ kế thừa và có thể là môn sinh của Thales. Ông thừa nhận rằng nguyên lý đệ nhất không phải là một hành chất đặc thù như nước hoặc không khí, mà là chất apeiron, có tính vừa vô hạn vừa hữu hạn, nó như những nguyên tắc phát sinh (generating principles), chịu trách nhiệm về sự phân biệt bản thể tối hậu (ultimate subtance) thành những vật cá biệt (specific things).

*Democritus (k. 460-370 tr.C.N.) cho rằng chất liệu tối hậu mang hình thức các nguyên tử (atoma). Ðối với triết gia ấy, vạn vật quả thật là những liên kết của các nguyên tử; chúng được hình thành bởi những hội tụ phi hoạch định và phi hướng dẫn của các nguyên tử đang rơi qua một không gian trống rỗng (kenon, chân không, empty space).

Nói chung, thuyết ấy không được người đương thời chấp nhận vì rất khó nhận thức tính khả thi của nó cũng như ý nghĩa của chân không. Thêm nữa, dường như người thuở đó không thể hiểu nổi rằng những sáng tạo của thiên nhiên có thể diễn ra mà không có hành động của một trí tuệ dẫn đạo nào đó.

Trình bày như trên thì quá đổi sơ sài vì lý ra phải dành nhiều chỗ hơn cho những phát biểu rất đặc sắc của các triết gia thời ấy kèm theo vũ trụ quan của mỗi vị và tán thưởng sự tiến bộ của tư tưởng Hi Lạp, mà chúng tôi sẽ đề cập thêm một chút ở phần chú thích tiểu sử của mỗi vị. Tuy thế, ngang đây cũng tạm đủ để cho ta thấy rằng các triết gia Hi Lạp quan tâm tới vấn đề bản thể, hoặc bản chất hay bản tính của vạn vật (nature of things) cùng các nguyên tắc liên quan tới quá trình phát triển và những khác biệt của chúng.

Nội dung triết học của thuở được gọi là tiền-Socrates ấy cùng những vấn đề của nó vẫn đang rất được thời đại chúng ta quan tâm. Bạn có thể đọc thêm về giai đoạn này trong cuốn Ðại cương triết học Tây phương, cùng một soạn giả.

 

4. Nhìn sang đông phương

Cùng thời điểm với Hi Lạp cổ đại, Ðông phương khoảng 25 thế kỷ trước cũng có những nỗ lực khám phá hành chất của vạn vật.

Triết học Ấn Ðộ và chung một bối cảnh văn hóa cổ đại với nó là Phật giáo, cho rằng vạn vật được lập thành bởi bốn yếu tố, gọi là tứ đại hay tứ đại chủng. Chúng gồm có đất (địa), nước (thủy), lửa (hỏa) và gió (phong). Chỉ bốn yếu tố ấy lập thành mọi thể: chất cứng (đất), chất lỏng (nước), hơi nóng (lửa) và yếu tố vận động (gió); vật thể do tứ đại hòa hợp mà thành.

Ðức Phật cũng tuyên bố, theo như được lưu truyền trong kinh sách, rằng vạn sự bởi các pháp (dharmas) mà thành; và theo Phật giáo Nguyên thủy (*Theravada), chỉ có các pháp là có thật. Sang đến Ðại thừa, với *Trung quán tông nhấn mạnh Không tính (không có tự tính) của vạn vật; kế đó, Duy thức tông kết tập tính vô thường của vạn vật thành Chân như diệu hữu như yếu tính cốt lõi của nó.

Triết học cổ đại Trung Hoa đưa ra năm hành chất mà họ gọi là Ngũ hành: kim (sắt), mộc (gỗ), thủy (nước), hỏa (lửa) và thổ (đất). Năm hành chất này kết thành từng cặp tương sinh và từng cặp tương khắc để lập nên vạn thể, trên căn bản Âm Dương không hoàn toàn tách bạch nhau vì trong Thái âm có Thiếu dương và trong Thái dương có Thiếu âm.

Bạn có thể đọc thêm về vấn đề này trong cuốn Ðại cương triết học Ðông phương, cùng một soạn giả.

 

5. Thuyết nguyên tử hiện đại

Tái phát hiện Democritus Kể từ thời Galileo và và triết gia Tin Lành người Pháp *Pierre Bayle (1647-1706), những gợi ý của Democritus về nguyên tử và chân không đã trở thành thành phần trong truyền thống tri thức của chúng ta. Chúng được xem là đặc biệt hữu dụng trong việc giải thích các hiện tượng như cô đặc và giãn nở của khí đốt.

Nhiều triết gia chấp nhận thuyết nguyên tử (atomic theory) dù vẫn còn nhiều triết gia khác, thí dụ Descartes, không chịu tin rằng có thể giải thích thế giới một cách giản dị như thế. Sự chính xác của nó dường như được kiến lập nhờ kết quả thuyết nguyên tử hiện đại của *John Dalton (1766-1844). Nhà hóa học người Anh ấy chứng minh rằng hóa học có thể phân giải các vật, thí dụ nước, thành các nguyên tố như hydrô cùng ôxy, và chúng vẫn giữ nguyên trạng trong những kết hợp khác.

Khám phá ê-te Khi thuyết nguyên tử liên kết với các thuyết về bảo toàn vật chất và năng lượng (theories of the conservation of matter and energy), người ta có khả năng giải thích các hiện tượng thiên nhiên (natural phenomena) nhờ áp dụng các nguyên tắc cơ học vốn có trong khoa học mang bản sắc Newton.

Hết thảy mọi vật được xem là những kết hợp của các nguyên tử. Vì nguyên tử có tự tính và độc lập, nên dường như người ta cảm thấy an toàn khi giả định rằng vạn vật cũng được tạo thành bởi chính chúng. Kinh nghiệm thông thường đã chứng minh cho sự ức đoán ấy.

Những nghiên cứu và suy ngẫm tiếp theo đó gợi cho thấy các nan giải trong lý thuyết mang bản sắc Newton. Người theo thuyết Newton giả định rằng khả năng của một hành động ở một cự ly nhất định, chịu ảnh hưởng của mặt trăng lên thủy triều, nhưng dường như điều ấy chỉ khả thi khi có một trung gian.

Sự khám phá ra ê-te đã giải quyết được vấn đề đó. Nhưng dù là một hành chất (a material substance), ê-te phải được hiểu như một trung gian không có sức cưỡng lại cái được truyền qua nó, nghĩa là chẳng khác gì nói rằng ê-te là một hành chất không có những đặc tính của vật chất. Vì theo quan điểm thời ấy, ê-te được xem là một chất tỏa kín vũ trụ mà sóng ánh sáng có thể xuyên qua.

Vi hạt nhỏ hơn nguyên tử Sự khám phá ra năng lực phóng xạ gợi cho thấy các nguyên tử không quá thụ động như đã được giả dụ, và những nghiên cứu xa thêm nữa cũng chứng minh rằng chúng thậm chí cũng không là những thành tố tối hậu của thế giới vật lý.

Từ nguyên tử, ta có các vi hạt hạ nguyên tử (sub-atomic particles), những hạt nhỏ hơn nguyên tử, có ý nói tới các electron, proton và neutron trực tiếp lập thành nguyên tử, và các hạt khác bao gồm các hạt phức hợp, các cộng hưởng và các hạt cơ bản. Chúng được phân loại theo khối lượng, lượn xoáy, điện tích và các đặc tính khác. Các hạt hạ nguyên tử này cũng là các hạt lực (boson) và các hạt vật chất (femion).

Thế nhưng khoa học không dừng lại ở đó. Dưới vi hạt hạ nguyên tử ta tìm thấy các hạt quác (quark), còn gọi là vi lượng. Ðây là một trong những phần cực nhỏ mà người ta cho là hợp thành các hạt cơ bản. Cứ thế, trong tương lai, không biết ta sẽ gặp trong hạt quác cái gì li ti hơn nữa.

Vật chất thành năng lượng Khi Einstein khai triển công trình của nhà vật lý học người Anh *James Clerk Maxwell (1831-1879) thì ngày càng rõ rệt rằng vật chất phải bị giảm thiểu thành năng lượng, hành động ở một cự ly nhất định được thay thế bằng hoạt động trong một phạm vi và toàn bộ tư duy được chuyển hướng từ mô hình tĩnh sang mô hình động.

Nếu quan điểm khoa học hiện đại ấy đúng, lúc đó gợi cho thấy rằng phải buông bỏ cái quan điểm, vốn được suy diễn từ kết cấu của một ngôi nhà, cho rằng vạn vật được xây lên từ những vi hạt tối hậu (ultimate little particles).

Vật là điểm hội tụ Một cách chính xác hơn, chúng ta có thể nói rằng cái chúng ta gọi rằng vật thì chỉ là điểm hội tụ hay tiêu điểm (focusing) của môi trường của nó. Thật sự không thể phân biệt nó với môi trường của nó, vì theo ý nghĩa nào đó, nó là môi trường đó.

Vì thế, ngày nay, ít có triết gia hiện đại nào dám tuyên bố rằng vật có tự tính (self-contained) và độc lập (independent).

 

6. Vật có tính tổng hợp

Trở lại bên đình làng Trong khi tôi đang trầm ngâm suy nghĩ trên thềm đình làng bên sông Nhật Lệ, nơi chôn nhau cắt rốn ấy, bọn trẻ bắt đầu đánh lộn. Ðây không là một cuộc ẩu đả nghiêm trọng với tiếng la hét dữ dội át đi các âm thanh khác, nhưng cũng đủ để chuyển sự chú ý của tôi từ điểm tổng quát của cả bọn sang điểm dị biệt của từng đứa.

Có đứa tả xung hữu đột trong khi có đứa co mình lại. Có đứa ích kỷ chỉ biết thủ thân trong khi có đứa quan tâm tới sự an nguy của “chiến hữu”. Và có một thằng bé dùng tới loại ngôn từ làm tôi nghe ù lỗ tai! Những dị biệt đó không làm tôi ngạc nhiên vì trong những buổi chiều ngồi đây đọc sách, tôi đã có dịp để ý tới lối cư xử của từng đứa khi nô đùa hoặc khi cãi cọ.

Bản tính và môi trường Những dị biệt ấy gợi lên trong tôi ý nghĩ rằng mỗi đứa bé có một thiên hướng hoặc một bản tính riêng. Có thể lấy bản tính ấy làm cơ sở thích đáng hơn trong việc phân biệt từng đứa vì có vẻ như chúng cung cấp một lối thoát ra khỏi tình thế bối rối khó xử khi ta phân biệt thể xác với môi trường.

Có thể tôi đã quá vội vàng khi quyết định như thế. Tôi nhớ lại khi thoạt nghe mấy tiếng chửi thề tục tằn của thằng bé ấy, phản ứng tức thời của tôi là nghi ngờ rằng có điều gì đó không ổn trong giáo dục gia đình của nó. Nếu giáo dục gia đình chịu trách nhiệm về hành động của nó thì bằng một cách nào đó, bản tính của thằng bé ấy phản ánh môi trường sống của nó.

Khó phân biệt vật với môi trường Ðể thuận tiện thảo luận, chúng ta hãy cứ cho rằng mỗi đứa bé có một bản tính với đầy đủ tính cách riêng tư của nó, phân biệt nó với các đứa bé khác. Bản tính này có thể ở với nó từ lúc mới sinh; trong trường hợp ấy, có thể do bởi ảnh hưởng di truyền nào đó hoặc do bởi hành động nào đó của một Ðấng (hay Hữu thể) siêu nhiên (supernatural Being).

Giả thuyết ấy có thể đúng nhưng vào lúc này, nó đặt thành các vấn đề có vẻ không thể nào giải quyết. Nếu quả thật như thế, nó gợi cho thấy rằng bản tính của đứa bé có thể tách biệt với các trải nghiệm của nó và tồn tại bất biến qua mọi thăng trầm của cuộc đời. Không có chứng cớ nào cho thấy có sự phân biệt đó, và những thông tin chúng ta sở hữu cũng cho thấy dường như không có khả năng đó.

Nếu chúng ta cứ giả định, dù đã được vạch rõ ở trên, rằng bản tính của đứa bé không thể nào sửa đổi thì thông tin ấy cũng chẳng có ý nghĩa lắm, vì sau trải nghiệm đầu tiên nó hẳn có một bản tính khác và vấn nạn về nguyên ủy không còn quan trọng nữa.

Chúng ta có thể bị buộc phải xem bản tính của đứa bé là cái gì đó được phát triển trong liên quan tới môi trường, và nếu như thế, chúng ta lại trở về với câu hỏi cũ, đó là làm thế nào phân biệt vật với môi trường của nó?

 

7. Ảnh hưởng của hệ thống

Thế giới là một hệ thống Khi thế giới được nhận thức như một hệ thống thì trong đó không có thành phần nào có tự tính hay độc lập, ngoại trừ khái niệm trừu tượng (abstraction), hay còn gọi là sự trừu tượng hóa. Bản tính của mỗi thành phần được quyết định bởi hoàn cảnh – đôi khi còn gọi là  tình huống – (situation) của nó. Trong các triết gia hiện đại chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khoa học gần đây, đang có sự đồng thuận khái quát rằng thế giới là một hệ thống và vạn vật không có tự tính mà là các điểm hội tụ (focusings) hoặc là các tâm điểm (centers) của hoàn cảnh. Những dị biệt của các triết thuyết tùy thuộc vào khái niệm của họ về “chất liệu” (stuff) tối hậu của vũ trụ.

Chủ nghĩa duy vật (materialism) giảm thiểu (hay giản lược, reduce) (matter) nên mọi sự đều có tính vật chất, ngoài ra chẳng có gì khác. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm (idealism) chấp nhận hành động điều kiện hóa của vật chất (conditioning of matter) lên nhân cách và tâm trí nhưng không chấp nhận vật chất là tối hậu; nó tìm thấy trong vật chất khả năng nâng cao tâm trí và các giá trị tinh thần, như một bằng chứng cho thấy rằng vũ trụ quả thật có tính tinh thần (mental) hoặc tính tâm linh (spiritual).

Là đại biểu cho *triết học tiến trình (process philosophy), Whitehead không quan tâm tới ưu quyền của vật chất hay tâm trí nhưng ông nhấn mạnh bản tính hữu cơ (organic nature) của vạn vật trong đó mỗi vật được nhận thức như một điểm hội tụ của môi trường. Do đó, triết học hiện đại từ khước sự phân biệt giữa vật với môi trường của nó, như một cách nhìn vạn vật bằng sự trừu tượng hóa (abstraction).

Một thí dụ minh họa Từ ngữ “đường”, nếu đứng riêng một mình, nó dường như mang ý nghĩa vô tận. Muốn xác định ý nghĩa của nó, ta phải cung cấp cho nó một số chữ khác để làm thành một câu. Câu ấy phải đáp ứng đòi hỏi đưa ra một ý nghĩa riêng biệt cho chữ “đường”.

Trong câu này, “đường” có nghĩa là sản phẩm của một xí nghiệp. Trong câu kia, “đường” có nghĩa là lối di chuyển cho một sinh vật hoặc xe cộ. Trong câu nọ, “đường” có nghĩa là phương cách đi kèm với đời sống và cư xử. Chữ “đường” cũng có thể đi với chữ “hoàng” hoặc chữ “bệ” nằm trong một câu khác nữa để diễn tả tác phong hay tướng mạo của một người. Ðường đi với từ đường có nghĩa là nhà thờ tổ tiên của một họ. Ấy là chưa kể phân đường, đường chủ của các bang hội, v.v. Những ý nghĩa khác nhau ấy không thể hiện chữ “đường” như một từ ngữ có tự tính, mà là phản ánh ảnh hưởng của ngữ cảnh.

Hiểu theo bối cảnh Chúng ta đều biết rằng khi tách một lời phát biểu ra khỏi diễn từ hoặc văn bản hay bối cảnh phát biểu của nó, ta có thể gây hiểu lầm hay xuyên tạc, vì việc bỏ ngữ cảnh hoặc bối cảnh qua một bên có khả năng đưa tới sự hiểu sai dụng ý của người phát biểu.

Sự kiện ấy xác nhận rằng mọi vật, cũng giống như các từ ngữ, đều tùy thuộc vào môi trường mà có ý nghĩa và bản tính của chúng; nếu trong khi xem xét, chúng ta tách rời chúng ra khỏi môi trường của chúng thì có khả năng đưa tới hiểu sai.

Sống giữa môi trường Trong lời tường thuật ở đoạn trên về cuộc đánh lộn của bọn trẻ, tôi có đề cập tới sự kiện một thằng bé buột miệng nói lên những lời bất xứng với nó, và tôi có nêu ý tưởng rằng đó có thể do bởi không khí giáo dục gia đình. Thực tế, lỗi không hẳn do bởi sự giáo dục không đầy đủ của gia đình vì trẻ em dễ bị nhiễm nhiều loại ảnh hưởng khác nhau. Ðiều tôi muốn nhấn mạnh là cá tính hoặc nhân cách hoặc bản tính của thằng bé có thể được quyết định phần nào bởi môi trường.

Giống với các bậc cha mẹ không lúc này thì lúc khác, thỉnh thoảng vẫn thường nhắc nhở con mình về vấn đề chọn bạn, rằng “Con phải để ý xem cậu ấy/cô ấy là con cái nhà ai?” Lời khuyên khôn ngoan đó cho thấy nhân cách của chúng ta phản ánh loại gia đình chúng ta được giáo dưỡng, và dĩ nhiên, nhân cách ấy còn bị biến đổi do những giao tiếp xã hội. Con người phản ánh môi trường; mỗi người là môi trường của nó. “Con ơi nhớ lấy lời cha, Ðừng đi nước mặn mà hà ăn chân” (Ca dao); “Hãy nói cho tôi biết anh kết bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là loại người nào” (Châm ngôn Pháp).

Cách đây hơn hai mươi bốn thế kỷ, mẹ thầy *Mạnh Tử (k.372-289 tr.C.N.) có lý khi bà nhiều lần thay đổi chỗ ở của gia đình để con bà được sống trong môi trường lành mạnh, phù hợp với định hướng giáo dưỡng của bà. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Thật không quá đáng khi nói rằng mỗi người đơn giản chỉ là một tổng hợp hoặc một điểm hội tụ của hoàn cảnh mang tính môi trường sống của nó trong đó bao gồm kể cả những gì được cung cấp qua di truyền và do các trạng thái về trước của cá nhân đó. Không ai chào đời với một nhân cách. Nhân cách là cái được triển khai từ những cái tự thân chúng không là nhân cách.

Kiểu mẫu của Descartes Có vẻ cũng đúng như thế đối với cuộc sống trí thức của chúng ta. Descartes tin rằng mình nên bắt đầu cuộc tra vấn triết học bằng hành động loại bỏ toàn bộ kiến thức đã tiếp nhận từ những nguồn bên ngoài lý trí của ông.

Nếu noi gương ông, chúng ta có thể thấy mình “hơi bị“ bối rối vì số lượng quá nhỏ các ý tưởng mà chúng ta có thể thật sự bảo là của mình. Toàn bộ thông tin chúng ta nhận được từ cha mẹ, thầy cô, các diễn giả, bạn bè, các phương tiện truyền thông, v.v. đều phải bị gạt sang một bên; chỉ còn lại bản thân chúng ta ở trong trạng thái nghèo nàn về mặt trí thức.

Không thể không tùy thuộc Có lẽ bạn sẽ phản ứng rằng có thể gọi là của mình những thông tin được chúng ta tiếp nhận bằng giác quan mà không có thêm những suy ngẫm của kẻ khác. Thế nhưng khi muốn đề cập tới những thông tin ấy, bạn cũng vẫn phải phân biệt chúng bằng lời nói và chữ nghĩa bạn đã học được từ những kẻ khác suốt một thời gian rất dài, kể từ lúc bập bẹ tập nói cho tới nay.

Chừng nào ngôn từ ấy còn thiết yếu cho việc sắp xếp kinh nghiệm của chúng ta thì dường như chừng đó chúng vẫn phải hội đủ một số chức năng như tưởng tượng và hồi tưởng. Trong chừng mực ấy chúng ta vẫn còn tùy thuộc vào người khác. Ngoài loại thông tin qua giác quan ấy, những gì được gọi là của bản thân chúng ta đều có xuất xứ từ ngoại giới, và thế thì thêm lần nữa, rõ ràng chúng ta không là tác giả của những ý tưởng ấy.

Nếu có ý tưởng nào là của chính ta thì đó phải là ý tưởng được chúng ta triển khai từ nguồn lý trí của mình. Ðiều này đặc biệt hàm ý sự sở hữu một sức mạnh tinh thần độc lập với nội dung. Thế nhưng dường như đã có sự đồng thuận khái quát rằng cuộc sống tinh thần của chúng ta đồng nghĩa với nội dung của nó và rằng nội dung ấy – ngoại trừ những nối kết giữa các ý tưởng mà chúng ta có thể lập thành hoặc những cái nhìn thấu suốt (insights) mà chúng ta có thể nảy sinh – đến từ một nguồn nào đó khác.

Kinh nghiệm chọn tín ngưỡng Có thể thuyết phục người ta chấp nhận quan điểm tùy thuộc vào môi trường bằng cách viện dẫn niềm tin tôn giáo. Chưa từng có ai bẩm sinh là tín đồ Kitô giáo, đạo Islam hoặc ngay cả Phật giáo.

Tại Việt Nam, bạn không thể nào có con số chính xác tín đồ Phật giáo. Về mặt chính thức, người ta trở thành tín đồ Phật giáo sau khi trải qua nghi thức Qui y Tam Bảo với một nhà sư, nhưng trong thực tế (môi trường), có vô số người theo đạo thờ cúng tổ tiên, Nho giáo và ngay cả Ðạo giáo, cũng tự xem mình là người Phật giáo. Do đó, bạn có thể lấy con số Phật tử tại Việt Nam trong quãng từ 20% tới 80% tổng số dân chúng; số nào cũng không có khả năng sai.

Tôi chào đời trong một gia đình (môi trường) đã theo sẵn một tín ngưỡng nhất định, và việc tôi chấp nhận quan điểm của gia đình là điều bình thường. Tuy thường được gọi là “đạo dòng” nhưng trong Kitô giáo, không người nào sinh ra là tín đồ Công giáo, Tin Lành, Nhân chứng Giê-hô-va, v.v. Người ấy kế thừa từ những bậc cao niên trong gia đình, dòng họ, các ý tưởng của một hệ thống tương ứng.

Dần dà người ta ngày càng dễ dàng ứng xử với niềm tin kế thừa ấy như thể chúng được kiến lập bởi chứng cớ không thể chối cãi và cứ thế, người ta hành động như thể mình đã xem xét đầy đủ chứng cớ trước khi tán thành các tín điều, nhưng rõ ràng rằng sự chấp nhận ban đầu không thật sự có lý do mang tính lịch sử nào. Về sau, dưới ảnh hưởng của những kẻ khác, người ta có thể thay đổi tín ngưỡng của mình; và ngay cả việc đó cũng không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận ý tưởng từ những nguồn khác.

 

III. Thường trực và biến đổi

1. Khát vọng thường tại

Tính tiến trình của thực tại Hầu hết các triết gia hiện đại đều đồng ý rằng không thực thể nào có tự tính (tự chứa bản tính, tự túc) và độc lập với ảnh hưởng của môi trường. Quan niệm mới mẻ đó liên quan tới sự chấp nhận thực tại mang tính chất tiến trình (reality of process). Mọi sự đều đang biến đổi. Ðối với qui luật căn bản đó không có và không thể có ngoại lệ. Nói theo kiểu Heraclitus hai mươi lăm thế kỷ trước là “Không ai có thể bước xuống dòng sông cũ vì nước giữa đôi bờ đã đổi khác”. Tuy thế ta vẫn thật sự có cảm giác rằng vạn vật đang kéo dài.

Khái quát, cái tôi hôm nay không là cái tôi hôm qua, cũng chẳng phải cái tôi ngày mai. Chúng ta nhận ra mình là con người rất khác với con người nhiều năm trước đây, kẻ đã thừa nhận người cha người mẹ ấy và đã đáp lại khi người ta gọi bằng cái tên ấy. Tuy thế, ta vẫn là con người ấy. Nếu chúng ta là một hệ thống đang biến đổi, phô bày trong bản thân ta những yếu tố khác của môi trường thì làm thế nào cắt nghĩa được sự kiện bản sắc liên tục này?

Ðịnh luật của tư duy Vấn đề thường trực (permanence) và biến đổi (change) chiếm một phạm vi rộng lớn từ đầu tới cuối kinh nghiệm. Nó hấp dẫn lạ thường vì chắc chắn ta không thể tránh né và hình như cũng chẳng cách gì giải quyết. Tôi không thể nói rằng người ấy vừa mập hơn vừa gầy hơn thân phụ của y mà không tự mâu thuẫn hoặc đưa ra một lời phát biểu không thể hiểu nổi. Ðó là một trong những định luật cơ bản của tư duy.

Theo Aristotle, có hai nguyên tắc luận lý rất căn bản:

a. Cái là nó thì không là cái gì đó khác;

b. Hoặc là “p” hoặc là “không p”, không thể vừa là cả hai

Hơn 2.000 năm sau, *Leibniz cũng đưa ra hai định luật về luận lý học hình thức để xác định cái chắc chắn.

a. Ðịnh luật mâu thuẫn: Một lời phát biểu trong tự thân nó có mâu thuẫn, thì không thể nào đúng.         

b. Ðịnh luật loại trừ trung dung: Bất cứ lời phát biểu nào hoặc nó đúng, hoặc lời mâu thuẫn với nó đúng.

Nguyên tắc và định luật ấy của Aristotle lẫn Leibniz về tư duy đều vạch rõ rằng không thể khẳng định trong cùng một thời điểm và về cùng một đối tượng những thuộc tính mâu thuẫn nhau. Nếu tôi nói rằng cái gì đó vừa như cũ vừa biến đổi – nói cách khác, vừa thường tại vừa vô thường – tức là tôi vi phạm định luật cơ bản của tư duy, và lời phát biểu ấy của tôi hoặc sai thấy rõ hoặc vô nghĩa; thế mà thực tế thế này thế nọ cứ buộc tôi cứ phải liên tục đưa ra lời phát biểu kiểu đó.

Biển xanh  thành ruộng dâu Ðã có thời kỳ các ngọn núi dường như độc lập với thời gian và con người tìm thấy trên các đỉnh đồi muôn thuở ấy hình ảnh minh họa sự bền vững của Thượng đế. Cũng đã có thời những tình nhân thắm thiết xem lời thề thốt mặn nồng là “lời non sông”, “lời thề non hẹn biển”; mượn hình ảnh núi sông và biển tiêu biểu cho tính son sắt cố định của lời vàng đá. Giờ đây chúng ta đều biết rằng những núi cùng đồi, sông cùng biển, đều có lịch sử: chúng được tạo thành, đang biến đổi và sẽ mất đi. Nói theo hình tượng nghệ thuật Trung Hoa là “Thương hải biến vi tang điền: Biển xanh hóa thành ruộng dâu”.

Cũng giống như các hiện tượng thiên nhiên khác, những sơn đảo trong vịnh Hạ Long, những núi đồi trong dải Trường Sơn đều đang liên tục biến đổi. Tuy thế, tôi biết rằng mình sẽ tìm thấy đèo Hải Vân ở cùng một chỗ nó đứng năm ngoái, cách Lăng Cô một cây cầu. Và cũng từ Châu Ðốc, tôi có thể nhận ra, gọi đúng tên ngọn núi Sam đang vươn lên trên bầu trời xanh kia, bên bờ kinh Vĩnh Tế. Chắc chắn chúng đúng là những đèo những núi ấy. Thế nhưng, nếu khoa học chính xác thì hết thảy chúng đang đổi khác!

Khao khát thường tại Cái đang đúng với rặng Trường Sơn kia thì nói chung, cũng đúng với các quốc gia, các xã hội, các cộng đoàn, con người và vạn vật. Vẫn còn chùa Tam Thanh ở Ðồng Ðăng nhưng đâu rồi nàng Tô Phụ. Lục địa Atlantic đang chìm khuất dưới biển sâu. Vương quốc Phù Nam hay Champa đã biến mất. Một số sắc tộc tuyệt chủng. Các nền văn minh nối tiếp nhau tàn lụi và các đế quốc lần lượt diễu hành vào quá khứ. Không một tổ chức chính trị nào tồn tại vĩnh viễn.

Tuy thế, tính thường tại có một yêu cầu khẩn thiết và đầy xúc động, đó là nỗi thúc bách trong tâm tư chúng ta phải tìm cho ra cái gì đó trường tồn bất biến, và còn nữa, chúng ta chỉ xem thật sự có giá trị những cái có khả năng kéo dài. Ngay cả lòng của đấng quân vương quyền uy tột đỉnh như Tần Thủy Hoàng hoặc Hán Võ đế vẫn khắc khoải đêm ngày chờ đợi kết quả cuộc tìm kiếm thuốc trường sinh ở ngoài biển khơi!

Ðịnh chuẩn đạo đức cũng biến đổi Các định chuẩn đạo đức (moral standards) của xã hội được xem là thiết yếu để duy trì sự ổn định của xã hội; bất cứ nỗ lực nào nhằm thay đổi các kiểu thức (model) hay khuôn mẫu (pattern) đã được chấp nhận đều bị đón nhận với ánh mắt nghi ngờ, thậm chí thù nghịch. Tuy thế, không xã hội nào có khả năng duy trì bất biến các định chuẩn của nó. Không kẻ nào hoặc tổ chức nào có khả năng đáp ứng yêu cầu khôi phục quá khứ vì giờ đây, cái đang đi qua hay đã thuộc về dĩ vãng thì vô phương phục hồi.

Tuy thế, nếu chúng ta bác bỏ các định chuẩn cũ mà không suy xét thấu đáo thì có khả năng đưa tới tình trạng hỗn loạn, *vô chính phủ (anarchy). Yêu cầu về thường tại là một yêu cầu không bao giờ được đáp ứng thỏa đáng; dường như nó đòi hỏi phải làm cho cân bằng hoặc phải bù đắp các kết quả của cuộc vô thường không thể tránh.

Xét theo không gian Những phân tử vật chất (material particles) trong khoa học mang bản sắc Newton vẫn tồn tại bất biến trong tự thân chúng; mọi biến đổi đều liên quan tới các vật làm nên các thành phần của chúng. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ đầu đã có thể quả quyết điều đó vì chỉ có thể xác định các phân tử trong liên quan tới không gian.

Các phân tử được định vị trong không gian và mọi biến đổi chỉ là những biến đổi nơi tọa lạc; tự thân mỗi phân tử vẫn tồn tại bất biến suốt quá trình diễn biến của thời gian. Ðầu thế kỷ 21 này, nữ khoa học gia xinh đẹp Lisa Randall đã ngẩn ngơ khi sau một cuộc thí nghiệm, bà cân lại thấy thiếu một số lượng vi hạt; chúng hình như “chạy lạc” vào một “cõi không gian” nào đó chưa ai biết tới.

Bị buộc phải điều chỉnh các khái niệm của những người từ cuối thế kỷ 17 theo phái Newton, các nhà khoa học hiện đại nhấn mạnh tầm quan trọng của thời gian. Việc thẩm định các vật mà không tham chiếu lịch sử của chúng nay đã không còn chính xác, và đã thuộc về quá khứ.

Xét theo thời gian Trong triết học hiện đại, sự nhấn mạnh tới thời gian của khoa học hiện đại được diễn tả bằng khái niệm về tiến trình (concept of process). Từ đó ta có thuyết triết học tiến trình (philosophy of process). Giờ đây, khi cân nhắc một vật, chúng ta phải xem xét nó dưới ánh sáng của thời gian. Ðiều đó có nghĩa rằng biến đổi – hay vô thường – là một thực tế căn bản của vật.

Nếu trước đây, các triết gia có vấn đề giải thích sự vô thường trong cái một cách căn bản là thường tại thì ngày nay các nhà tư tưởng hiện đại phải giải quyết vấn đề thường tại trong cái một cách căn bản là vô thường. Có vẻ như chứng cớ của kinh nghiệm chỉ dấu cho thấy rằng vạn vật vừa thường tại vừa vô thường.

 

2. Ý nghĩa của thường tại

Yếu tính không biến đổi Khi bảo vật thường tại thông qua vô thường, tôi có ý nói rằng vật có cái lõi cốt tủy (an essential core) giúp lưu giữ những đặc tính khác nhau trong yếu tính (essence) của nó, vượt quá mọi biến đổi. Thí dụ trái ổi vẫn có những đặc tính làm thành yếu tính của trái ổi tuy trước đây xanh non nay chín vàng. Tuy thế, chúng ta sẽ cảm thấy cực kỳ khó khăn khi tìm cách xác định hay mô tả cái lõi cốt tủy ấy, hay nói như Duy thức tông là Chân như Diệu hữu.

Triết gia Anh *Francis H. Bradley (1846-1924) minh họa vấn đề đó bằng đôi vớ của nhà quí tộc John Curler. Có người tặng Curler đôi vớ dệt bằng tơ, mang vào rất êm mát, ông thích quá. Sau một thời gian, vớ thủng lòi ngón chân cái. Khi muốn vá, không có tơ sợi, Curler đành phải dùng chỉ sợi se bằng bông vải. Vớ thủng ngang đâu nhà quí tộc ấy vá ngang đó.

Theo thời gian, Curler vá hết lỗ này tới lỗ khác bằng chỉ bông vải. Cuối cùng, toàn bộ sợi tơ bị thay thế bằng sợi vải. Tới lúc đó, có phải cũng vẫn là đôi vớ ấy? Bradley cho rằng nó vẫn là đôi vớ ấy. Nếu thế, bản sắc (identity) của đôi vớ cốt ở chỗ nào trong khi toàn bộ nội dung của nó đã thay đổi?

Nhờ đâu nhận được người xưa Cũng có thể minh họa vấn đề đó bằng khả năng nhận diện một người nào đó rất lâu bạn không gặp. Hôm qua, tôi tái ngộ một người bạn cũ, xa cách nhau mấy chục năm trời. Tôi có thể gọi tên anh ấy, trò chuyện với anh về một số kỷ niệm cả hai có chung dưới mái trường Providence – Thiên Hựu, Huế. Nhưng, làm thế nào tôi nhận ra người bạn thuở nhỏ đó?

Không thể do bởi thể xác của anh ấy, vì giống như đôi vớ của John Curler, mọi tế bào trong con người của bạn tôi đều đã bị thay thế. Cũng không phải bởi vóc dáng của anh ấy vì sau bốn chục năm xa cách, anh ngày càng mập ra, hoặc thậm chí không còn cân đối như lúc gặp nhau lần cuối, vào buổi chiều người bạn cùng lớp ấy trao cho tôi cuốn “lưu bút ngày xanh”!

Cũng không phải nhờ vẻ ngoài của anh ấy vì trong thời gian nhập ngũ, tham gia chiến trận, anh bị mất một cánh tay, vẹo mũi và trên mặt đầy sẹo. Cũng không phải vì lối nói lắp bắp của anh ấy vì tôi nhận ra anh không do bởi trò chuyện. Và dù gì đi nữa, những năm tháng quá khứ đã đè nặng lên đôi vai của bạn tôi trách nhiệm gia đình cùng công chuyện làm ăn khiến thái độ vui vẻ hoạt bát ngày nào nay đã biến thành thẩn thờ thất chí!

Ðặt vấn đề Dù có phân tích vấn đề ấy tới mấy đi nữa, tôi vẫn không thể tìm ra câu trả lời: tôi chắc chắn rằng anh ấy cũng vẫn là con người đó, tuy thế, tôi biết anh đang hoàn toàn khác. Làm thế nào một vật vừa vẫn là cái cũ vừa đang hoàn toàn khác?

Khi tôi viết những dòng này thì bên ngoài cửa sổ kia, xứ lạnh Canada đang mùa đông tuyết phủ, nhờ vậy tôi bỗng nhớ tới một thí dụ của triết gia Pháp *Henry Bergson (1859-1941).

Nếu tôi nắn một trái banh nhỏ bằng tuyết, và từ trên đầu dốc, tôi bắt đầu thả nó lăn xuống. Càng lăn theo triền dốc, nó càng bị tuyết bám theo. Tới khi nằm yên một chỗ ở cuối dốc, nó phình ra, lớn gấp mấy lần lúc mới bắt đầu lăn từ đầu dốc. Tuy vậy, tôi vẫn gọi, không chút lưỡng lự, rằng nó cũng vẫn là trái banh tuyết ấy tuy lúc này nó đang khác.

Có điều gì đó sai lầm khi cho rằng có một cốt lõi thiết yếu khiến cho trái banh tuyết ở cuối dốc vẫn là trái banh tuyết trên đầu dốc trong khi bản thân nó đã tích lũy thêm nhiều tuyết. Khi tôi dừng trái banh tuyết ấy lại trong thực tế hay chỉ trong ý nghĩ của tôi, bằng cụm từ “trái banh tuyết”, tôi có ý nói toàn bộ tuyết kết hợp với nhau làm thành một đối vật.

Quá trình tích lũy tuyết gia tăng kích cỡ nhưng không làm thay đổi bản tính của trái banh tuyết. Nó chính là cái nó đang là ở bất cứ khoảnh khắc nào tôi xem xét nó. Thật phi lý khi cho rằng trái banh tuyết ấy có một bản tính thường trực và bất biến trong khi tuyết càng lúc càng bám theo nó. Chúng ta chỉ có thể nói rằng trái banh tuyết ấy là cái hiện hữu trong quá trình tích lũy tuyết.

Có phải tôi vẫn là tôi Khi tôi hướng hành động xem xét đó sang bản thân, tôi thấy mình vẫn là một kiểu mẫu bản sắc xuyên qua biến đổi. Và tôi có khuynh hướng giả định rằng tôi là một cái tôi thường tại đối với những gì xảy ra, tới độ tôi có thể phân biệt mình với các trạng thái của mình và nói rằng các trạng thái thì biến đổi nhưng tôi vẫn tiếp tục tồn tại cái tôi ấy; nói theo kiểu thi sĩ “Tôi vẫn người tình muôn thuở ấy!”

Tôi chỉ có thể liên hệ với cái tôi ấy bằng phương cách độc nhất là nội quan (introspection), tức là tự mình xem xét nội tâm mình. Và dù có cố tới mấy đi nữa, tôi không bao giờ có thể tìm thấy cái tôi tách biệt với trạng thái của nó. Trong cuốn Treatise of Human Nature (Luận về bản tính con người, 1739-40) triết gia và sử gia Anh *David Hume (1711- 1776) kể lại:

“Về phần tôi, khi thăm dò thật sâu vào trong bản thân (myself), tôi luôn luôn quờ quạng theo sự nhận thức thế này này thế nọ, về nóng hay lạnh, sáng hay tối, yêu thương hay thù hận, đau đớn hay khoái lạc. Tôi chẳng bao giờ và chẳng lúc nào có thể bắt được bản thân mà không có nhận thức này nọ, và tôi luôn luôn chỉ có thể quan sát sự nhận thức, ngoài nó ra, chẳng có cái gì khác”.

Trong cuốn Ðời không tâm điểm (Nxb Văn học, Hà Nội 2002), nơi trang 12, tôi có kể lại câu chuyện khi người mẹ của Pupul Jayakar hỏi *Krishnamurti (1895-1986) rằng liệu bà có gặp lại người chồng vừa qua đời, ở thế giới bên kia không. Vị đạo sư gốc Ấn Ðộ ấy đã hỏi lại bà rằng:

“Bà muốn tôi nói với bà rằng sau khi qua đời bà sẽ gặp lại chồng mình, có điều bà muốn gặp người đàn ông nào? Người đàn ông làm lễ thành hôn với bà, người đàn ông sống chung khi bà còn trẻ, người đàn ông đã từ trần hay người đàn ông hiện nay, người đã từng sống? [.] Người chồng nào bà muốn gặp lại?”

Chỉ là tích lũy trải nghiệm Chừng nào chứng cớ của kinh nghiệm còn thao tác, chừng đó không có gì thường tại xuyên qua các biến đổi. Ðó là lý do tại sao Henry Bergson nêu lên ý tưởng rằng cái tôi quả thật giống như trái banh tuyết; ngoài sự tích lũy các trải nghiệm nó không là cái gì khác.

Trong cuốn L’Evolution créatrice (Tiến hóa sáng tạo, 1907), triết gia Pháp ấy viết: “Trạng thái tâm lý của tôi – trong khi nó thăng tiến trên con đường thời gian – liên tục phình lên với quá trình tiếp diễn mà nó tích lủy; nó tiếp tục gia tăng – tiếp tục lăn trên chính nó, như trái banh tuyết lăn trên tuyết”.

 

3. Vật là biến cố

Tiến trình là tối hậu Cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm đều đồng ý rằng tiến trình là tối hậu nhưng cả hai không đưa ra giải pháp rõ ràng cho vấn đề bản sắc cụ thể của nó. Triết gia duy tâm người Anh *Bernard Bosanquet (1848-1923), thừa nhận trong cuốn The Value and Destiny of the Individual (Giá trị và số mệnh của cá nhân, 1912) rằng không thể có giải pháp cho vấn đề ấy và rằng chúng ta phải chấp nhận “thực tại có vẻ là thế” (prima facie reality) của các cá thể (individuals) như một cái gì đó ta thấy mà không thể nào cắt nghĩa.

Trong cuốn Appearance and Reality (Vẻ ngoài và thực tại, 1893) Bradley cũng đưa lời quả quyết giống như thế: “Tôi thừa nhận sự kiện mang tính chất manh mún thật sự ấy (the fact of actual fragmentariness); chúng ta không thể giải thích. Kinh nghiệm hẳn thao tác tại các tâm điểm hữu hạn và khoác lấy hình thức “sự này” (thisness) hữu hạn ấy, đó là loại kinh nghiệm mà nói cho cùng không thể nào cắt nghĩa”.

Và khi quả quyết rằng con người chỉ là sản phẩm của môi trường vật chất (a product of material environment), người duy vật chủ nghĩa hẳn cũng đã đạt tới kết luận giống như thế.

Khuôn mẫu tồn tại trong điều chỉnh Whitehead cố gắng giải quyết vấn đề ấy bằng cách nhận dạng tính thường trực của mỗi vật với khuôn mẫu được tìm thấy trong từng thực thể có thật (actual entity). Chúng ta thấy rằng mỗi cá thể có một khuôn mẫu hoặc một cấu trúc (structure) khiến nó hoàn toàn không mang tính tất định chủ nghĩa và được tự do tới một mức độ nào đó, vì khuôn mẫu cho phép cá thể chọn lọc các thành tố môi trường đang thâm nhập tiến trình lập thành nó. Khuôn mẫu được đồng hóa với mục đích chủ quan hoặc lý tưởng mà mỗi vật sở hữu.

Toàn bộ nội dung của “vật” biến đổi liên tục nhưng khuôn mẫu vừa tồn tại theo thời gian với sự điều chỉnh khả dĩ nào đó, vừa cung cấp định hướng cho sự tổng hợp. Nước trong vũng xoáy đến rồi đi, liên tục bị thay thế, và không có gì liên tục ngoại trừ khuôn mẫu vũng xoáy. Chừng nào còn có thể nói vũng xoáy ấy tồn tại thì chừng đó cái tồn tại chính là khuôn mẫu của nó chứ không phải nội dung của nó.

Từ đâu ra khuôn mẫu Quan điểm ấy gợi lên câu hỏi quan trọng rằng khuôn mẫu đến từ đâu? Lời đáp của Whitehead cho câu hỏi đó vừa không rõ ràng vừa thiếu sức thuyết phục.

Các triết gia chấp nhận bản tính có hệ thống của các cá thể (the systematic nature of individuals), đã giả định hết sức khái quát rằng khuôn mẫu hay cấu trúc ấy, bằng cách này hoặc bằng cách khác, tiềm ẩn trong nội dung của chính nó. Giải pháp này phù hợp với khuynh hướng của vật lý học hiện đại khi phát biểu về vạn vật trong liên quan tới cấu trúc của chúng chứ không liên quan tới bản tính của chúng.

Vật là biến cố Theo quan điểm thời hiện đại, từ ngữ “vật” (thing) làm người ta lầm đường lạc lối. Nên thay thế nó bằng từ ngữ “biến cố” hoặc “sự cố” (event). Chừng nào các biến cố còn được xem xét theo lý thuyết thực nghiệm, chừng đó phải xem xét chúng trong liên quan tới tiến trình và cấu trúc hoặc khuôn mẫu hình học (geometrical pattern).

Khuynh hướng hiện đại là nhận dạng bản thể hoặc vật bằng cấu trúc để thấy cấu trúc ấy, bằng cách này cách nọ được hàm chứa trong chính nội dung của nó, chứ không trong lớp tiềm ẩn bên dưới (substratum) mang tính bí nhiệm nào đó hoặc cái cốt lõi thường trực (permanent core) nào đó.

Cấu trúc trong tiến trình Nếu vạn vật được thông giải là các nội dung được cấu trúc trong quá trình diễn tiến thì hẳn không thể quả quyết rằng vật tự nó sở hữu các phẩm tính (có tự tính, tự túc) và rằng có thể phân biệt chúng theo khả năng tồn tại bất biến xuyên qua sự biến đổi phẩm tính của mỗi vật (thường tại). Theo một ý nghĩa nào đó, mối liên hệ giữa vật và phẩm tính của nó phải rất mật thiết vì vật hoặc sự kiện phải được định nghĩa như một kết hợp các phẩm tính.

Ðiều này thêm lần nữa thể hiện sự đoạn tuyệt triệt để với triết học cổ truyền cũng như với cảm quan chung. Trái ổi có vẻ vẫn là trái ổi trong khi nó biến đổi từ xanh sang vàng. Lời phát biểu ấy hẳn sai vì theo triết học tiến trình, vật không bao giờ thật sự đang là mà nó lúc nào cũng đang trở thành.

Không thể phân biệt bất cứ vật nào với đặc tính của nó, cũng như không thể gắn liền bản thể (substance) với các thuộc tính (attributes) hay đặc tính  (properties). Không thể phân biệt con người với đặc tính của nó, cũng không thể bảo phải ắt có thuộc tính này hay gồm đủ đặc tính nọ mới là con người.

 

IV. Khái niệm của Aristotle

1. Bản thể nguyên thủy

Aristotle, một trong các triết gia vĩ đại nhất của Hi Lạp, đã quan tâm tới vấn đề bản tính của vạn vật. Chúng ta có thể coi từ ngữ “vật” như bao hàm cái được Aristotle ngụ ý là bản thể nguyên thủy (primary substance). Ông định nghĩa bản thể nguyên thủy là “cái luôn luôn là chủ ngữ, không bao giờ là thuộc từ” (that which is always a subject and never a predicate).

Khi tôi nói “con trâu ấy khỏe”, chữ “khỏe” thay thế cho đặc tính hoặc thuộc tính, cái cũng có thể khẳng định một cách thích đáng rằng nó thuộc về con trâu ấy. Có nhiều đặc tính khác có thể là thuộc tính thích đáng của con trâu ấy, thí dụ cao một thước rưỡi. Tuy thế, tôi nhận thấy mình không bao giờ có thể xác nhận thuộc tính của một con trâu riêng biệt bằng bất cứ vật cá thể nào khác. Ðó là điều được ngụ ý khi nói rằng nó luôn luôn là chủ ngữ và không bao giờ là thuộc từ.

Người ta không thể khẳng định bản thể này bằng một bản thể khác, giống như người ta không thể lập thành một câu thích đáng mà không có chủ từ. Quan sát thông thường đủ để chứng minh sự chính xác của phân tích ấy. Thế thì vấn đề là phát hiện cái gì lập thành bản thể nguyên thủy và làm cho nó khác với mọi vật khác.

 

2. Aristotle và vật chất

Vật chất là tiềm năng Aristotle đoan chắc rằng mỗi vật là một kếp hợp của vật chất và dạng thức (combination of matter and form). Ðối với Aristotle, vật chất không có nghĩa là các phân tử tối hậu đang chiếm lĩnh một phần không gian để loại bỏ các phân tử khác, như đối với Newton, và nếu chúng ta dẫn nhập ý tưởng này vào cuộc suy nghĩ của chúng ta về triết học của ông, nó sẽ làm lẫn lộn lung tung hết.

Có lẽ cách dễ dàng để nắm bắt điều Aristotle ngụ ý trong từ ngữ vật chất là chúng ta hãy nghĩ tới nó theo ý nghĩa nguyên liệu (sense of material) được dùng để làm thành các vật khác. Vật chất đối với bản thể cá thể (individual substance) giống như đồng đối với pho tượng, gỗ đối với chiếc bàn, nguyên liệu thô đối với sản phẩm đã hoàn tất. Do đó, vật chất là cái gì đó có tính tiềm năng (potential), giống như đồng là cái tiềm năng của pho tượng và gỗ là cái tiềm năng của chiếc bàn.

Vật chất nguyên sơ Bạn có thể phản đối, bảo rằng đồng và gỗ là vật hoặc bản thể. Aristotle hẳn đồng ý với bạn. Nhưng minh họa ấy phải nhường chỗ cho một phân tích sâu thêm, rằng chúng ta sẽ hỏi cái gì là cái tiềm năng của đồng và gỗ. Nếu khám phá ra cái đó, chúng ta sẽ có vật chất liên quan tới các vật đó. Lúc đó chúng ta lại phải hỏi về vật chất của vật đó và cứ thế tiếp tục cho tới khi chúng ta đi tới giới hạn chót của chuỗi câu hỏi ấy, và ở đó chúng ta không còn có vật mà chỉ có cái tiềm năng của vật.

Khi đi tới cái không là vật mà chỉ là tiềm năng, tức là chúng ta tới vật chất nguyên sơ (prime matter) và ta có thể thấy ý nghĩa chân chính và trạng thái chân chính của vật chất. Bởi vì vật chất ấy chẳng là cái gì cả, nó không thể hiện hữu và chúng ta không thể nói nó là thế này hay thế nọ. Ðiều duy nhất chúng ta có thể làm là gọi nó là cái tiềm năng đơn thuần (pure potentiality).

Khi Aristotle nói mọi vật trong vũ trụ là sự phối hợp của vật chất và dạng thức, chúng ta phải hiểu rằng mọi vật, về mặt lý thuyết, đều có thể phân tích thành cái tiềm năng như là một trong các mặt của nó.

 

3. Aristotle và dạng thức

Vật chất chưa là vật Cái tiềm năng không là vật; nó không thể là vật cho tới khi có nó được hiện thực hóa. Aristotle quả quyết rằng việc đó được thực hiện thông qua dạng thức (form). Ðất sét là cái tiềm năng của chén, nhưng nó không là chén cho tới khi nó nhận được dạng thức của chén.

Khi đã nhận được dạng thức, tiềm năng biến thành hiện thực; nó trở thành một vật được xác định rõ ràng.

Dạng thức hiện thực hóa vật Do đó, chúng ta có thể cho rằng dạng thức là sự thực hiện cái tiềm năng, là việc làm cho vật trở thành cái nó đang là. Như thế, dạng thức không hiện hữu nếu không có cái gì đó đã được thực hiện thành dạng thức. Giống y như vật chất, dạng thức không thể tự nó hiện hữu; nó là khía cạnh bất phân ly của bất cứ vật hiện hữu nào. Dạng thức chén không hiện hữu khi chưa làm xong cái chén. Do đó, theo quan điểm của Aristotle, đó là sự phân tích thích đáng một vật và có thể thấy phân tích ấy áp dụng đúng cho bất cứ vật hiện hữu nào.

Dạng thức là cái làm cho vật trở thành một loại vật nhất định. Do đó dạng thức lập thành yếu tính của vật. Nó thiết yếu cho vật vì nó biến vật trở thành một loại nhất định. Nếu không có dạng thức, hạt bắp không thể trở thành cây bắp rồi trái bắp. Yếu tính của vật cũng chính là định nghĩa thích đáng về nó và được nắm bắt bởi lý trí.

Yếu tinh và bản tính Khi chúng ta xem xét một vật theo ý nghĩa của nó hoặc theo cái nó đang là tức là chúng ta phát biểu về yếu tính (essence) của nó; nếu chúng ta quan tâm tới động thái (behaviour) của nó tức là chúng ta đề cập tới bản tính (nature) của nó. Yếu tính và bản tính là hai thuật ngữ đồng nghĩa; chúng chỉ biểu thị các cách thức khác nhau khi nhìn một vật; yếu tính thì tĩnh (static) còn bản tính thì động (dynamic).

Ở một đoạn trên, chúng ta đã vạch rõ rằng vật cá thể bị biến đổi xuyên qua thời gian. Vì thế, giải thích của Aristotle về vạn vật bằng yếu tính và bản tính nếu muốn ứng nghiệm, thì phải cắt nghĩa vấn đề đó. Có vẻ dạng thức của vật rõ ràng là không biến đổi, ngược lại, về mặt yếu tính, phát triển hẳn có nghĩa rằng vật biến thành cái gì đó khác một cách cốt tủy.

Dĩ nhiên, khi nói rằng đứa bé biến đổi thành người lớn chúng ta không có ý cho rằng nó thôi là con người. Nếu đứa bé ấy biến đổi thành con trâu hoặc con bò, chúng ta sẽ phải nói rằng yếu tính của nó bị biến đổi. Và điều đó không thể được.

Tùy thuộc của biến đổi Biến đổi chỉ tùy thuộc vào ngẫu nhiên (accident) hay đặc tính (property) hay phẩm tính (quality) của vật. Hôm nay, Lê văn Tám hạnh phúc, nhưng hôm qua cậu ấy buồn. Hai trạng thái biến đổi ấy không ảnh hưởng lên yếu tính của Lê văn Tám.

Trong cuốn An Introduction to Philosophy (Nhập môn triết học, 1947), triết gia Pháp *Jacques Maritain (1882-1973), phát biểu rằng “Chừng nào một vật còn hiện hữu thì bản thể của nó không biến đổi”. Quan điểm ấy đưa tới hệ quả là có thể phân biệt rõ ràng vật và các phẩm tính của nó.

 

4. Học thuyết Thomas

Ảnh hưởng của Aristotle Các tác phẩm của Aristotle được người A Rập lưu giữ suốt thời kỳ gọi là *Ðêm trường Trung cổ, được các triết gia ở phần thế giới đó khai thác, góp phần làm thành *triết học Hồi giáo. Cuộc xâm lăng châu Âu của người A Rập cũng là cơ hội quí báu cho các học giả châu Âu tiếp cận chúng. Triết gia Ý và là nhà thần học vĩ đại của Công giáo La Mã *Thomas Aquinas (1225-1274) tìm thấy trong học thuyết Aristotle một cơ sở thích đáng cho triết học Kitô giáo về vũ trụ.

Aquinas biến cải chúng ở những chỗ cần thiết, cho thích hợp với ý tưởng Kitô giáo. Ngày nay, vì chủ thuyết của Thomas Aquinas (Thomism) được các triết gia Công giáo La Mã chấp nhận một cách tổng quát là triết học duy nhất và thỏa đáng nên ảnh hưởng của Aristotle vẫn còn mạnh mẽ trong thời đại chúng ta.

Thuyết của Thomas Ðối với người theo thuyết Thomas Aquinas, quan tâm nguyên thủy của triết học là sự thấu hiểu có tính trí thức bản tính của vạn vật. Họ phân biệt sắc nét triết học với khoa học thực nghiệm (empirical science).

Ðối với họ, triết học quan tâm tới cái mà vật đang là trong khi nhà khoa học chỉ quan tâm tới tương quan của các vật; triết gia tìm kiếm tri thức về vật, trong khi đó khoa học gia không để ý tới bản tính của vật mà chỉ quan tâm tới khả năng có thể kiểm soát quá trình xảy ra hoặc có thể ngăn chận quá trình sản sinh các biến cố, từ những nguyên nhân phát khởi của nó.

Cũng đối với người theo thuyết Thomas, triết học là sự thẩm tra cao hơn khoa học vì tri thức chân chính về động thái chỉ có thể phát sinh từ tri thức về bản tính của vật. Vì bản tính của vật được vén lộ cho chúng ta qua các đặc tính (properties) hay phẩm tính (quality) của nó, nên tri thức chân chính phải mang tính phẩm tính. Lượng tính (quantity) là một trong các phương diện ngẫu nhiên của vật; chừng nào các nhà khoa học còn quan tâm tới lượng tính mà thôi, chừng đó họ vẫn ở một cấp bậc khác của sự trừu tượng hóa (a different level of abstraction) và họ không thể nào cung cấp tri thức xác thực.

Ðổi từ thế kỷ 16 Từ thời của Galileo, triết học mang bản sắc Aristotle là đối tượng phê phán của các khoa học gia và triết gia. Các nhà khoa học thời đó quả quyết rằng lối tiếp cận hữu hiệu vào bản tính phải mang tính lượng tính, và thay thế sự phân loại bằng sự đo lường ở nơi nào có thể.

Theo người mang bản sắc Aristotle, lý trí quả thật nắm bắt được bản tính của vạn vật; và nếu động thái của một vật bị quyết định bởi bản tính của nó thì có lẽ cái độc nhất khoa học cần tới là quan sát giản dị và suy ngẫm hợp lý về các khái niệm được lý trí nắm bắt.

Trong khi nhấn mạnh thí nghiệm, khoa học hiện đại hoàn toàn chống lại sự suy ngẫm đơn thuần lý tính và ít chú ý tới sự quan sát đơn thuần.

 

V. Quan điểm hiện đại

1. Ðặt cơ sở trên khoa học

Các dạng thức chắc nịch của Aristotle có tính bất biến, chúng là cái đã định trong sự phối hợp với vật chất, làm cho vật hiện hữu đúng cái nó đang là. Như một phối hợp của vật chất và dạng thức, vật được ứng xử theo lối loại suy (analogy) từ chủ từ trong một câu theo đó nó có thể được khẳng định hay bị phủ định. Như vậy, vật bị phân biệt với các phẩm tính của nó và có thể nói là nó sở hữu chúng.

Xét lại Aristotle Triết gia Hoa Kỳ *John Dewey (1859-1952) tuyên bố rằng Aristotle đã bị lạc lối theo cấu trúc của ngôn ngữ và xem nó là hiển nhiên vì không câu nào có thể được diễn tả mà không có một danh từ (substantive), như thế phải hiện hữu trong bản tính một bản thể hỗ trợ cho những thuộc tính hoặc phẩm tính.

Dewey cho rằng không tìm thấy trong khoa học hiện đại yếu tố nào chứng minh cho khái niệm vật tồn tại bất biến (thường tại) trong khi các phẩm tính của nó bị biến đổi (vô thường), và rằng chỉ dẫn của khoa học thì chắc chắn tốt hơn chỉ dẫn của cấu trúc câu văn.

 

2. Cần giải thích bản thể

Hầu hết triết gia hiện đại đã bỏ rơi quan điểm có tính truyền thống Aristotle ấy. Họ cảm thấy bị tác động bởi khoa học định lượng (quantitative science) mới mẻ nhưng họ phải cần một khoảng thời gian mới thoát ra được ý tưởng về bản thể đang tiềm ẩn và sở hữu các thuộc tính. Như có thể thấy trong các tác phẩm của Descartes và triết gia Anh *John Locke (1632-1704), vấn đề là định nghĩa bản thể sao cho phù hợp với các đòi hỏi mang tính định lượng.

Ổn định trong biến đổi Dường như cần phải giải thích về tính chất ổn định hiển nhiên của bản thể của một loại nào đó trong khi vật thuộc loại đó đang biến đổi, và cần phải đưa ra một hậu thuẫn nào đó cho các phẩm tính vốn có vẻ không có khả năng hiện hữu nếu chẳng có cái gì sở hữu chúng.

Cho tới thế kỷ 19 là lúc ý tưởng sở hữu ấy được người duy tâm chủ nghĩa đưa vào triết học, dường như chẳng có chọn lựa nào ngoài lối ứng xử với vạn vật như những thực thể thường tại có tự tính (self-contained permanent entities) và đang sở hữu phẩm tính.

 

VI. Tóm lược

Cái gì là vật Người bình thường quan sát thế giới và cho rằng nó được làm thành bởi vạn vật. Ðối với họ, đó là một giả định có chứng cớ nhất. Sự đồng thuận mang tính cảm quan chung đó không phải lúc nào cũng quá mạo hiểm như vẻ ngoài của nó vì khi cảm quan chung mâu thuẫn với những khám phá của khoa học thì phát sinh lòng ngờ vực mạnh mẽ tính chất chính xác của nó. Lúc đó, sự nan giải có phần nào tùy thuộc vấn đề ý nghĩa, và người ta thấy rằng những hàm ý trong từ ngữ “vật” chẳng rõ ràng chút nào.

Chúng ta đã nêu lên rằng theo cảm quan chung, vật có tự tính, độc lập và thường tại trong khi những đặc tính của nó bị biến đổi, và qua đó nó được nhận ra. Nếu đó là ý nghĩa của vật thì những giới hạn áp dụng của nó không phải lúc nào cũng rõ ràng. Chắc chắn về mặt bình thường, ta có thể xếp loại những cái thấy rõ trước mắt như núi đồi, cỏ cây và loài người là vật nhưng nếu áp dụng từ ngữ “vật” cho những cái khó thấy, thí dụ một ánh chớp hoặc điện tử, thì chẳng dễ dàng chút nào.

Nếu có thể nhận ra vật nhờ sự tồn tại kéo dài của nó thì chúng ta hẳn hữu lý khi nêu lên câu hỏi rằng nó cần phải kéo dài trong bao lâu mới có thể được gọi là vật. Không khó khăn lắm khi áp dụng từ ngữ “vật” cho các hiện tượng vật lý nhưng liệu có chính xác hay không khi gọi một ước vọng, một giấc mộng hay một ý tưởng là “vật”? Nếu không, căn cứ vào đâu để phân biệt?  Nói rằng cái này có tính vật lý, cái kia có tính tinh thần tức là đã có tiên kiến (prejudge) về cái đó và đã quả quyết rằng có thể có sự phân biệt rõ rệt giữa hai thứ bậc.

Không có lớp tiềm ẩn Nếu có ai đó tiếp tục quả quyết rằng vật có tự tính và độc lập, kẻ đó phải đương đầu với chứng cớ của khoa học hiện đại và triết học hiện đại, vì cả hai đều đồng ý rằng trong vũ trụ này không cái nào có hoặc có thể có đặc tính đó. Nếu ta cho rằng vật có một lớp tiềm ẩn nằm bên dưới (substratum) những biến đổi trạng thái của nó, giống như John Locke đã nói, thì ta phải chứng minh điều đó.

Nếu có lớp tiềm ẩn bên dưới ấy thì ta chỉ có thể biết tới nó bằng lý trí; nó không là một sự kiện mà ta có thể trải nghiệm, và khi dùng nó để giải thích các hiện tượng nhất định, nó hoàn toàn là một lý thuyết đáng ngờ.

Lúc đi vào cảnh giới lý thuyết, cách tốt là chúng ta phải chấp nhận lý thuyết nào có bằng cớ nhất; và toàn bộ bằng cớ khoa học có sẵn đều gợi cho thấy không có cái lớp tiềm ẩn bên dưới ấy. Còn nữa, nó thậm chí cũng không là một nguyên tắc hữu dụng dùng để giải thich.

Khoa học Aristotle Khoa học mang bản sắc Aristotle tìm cách giải thích động thái của vật bằng bản tính của chúng và kết thúc với một số kết quả khá đặc biệt. Vì mỗi vật có một cùng đích nội tại (intrinsic end) nên có thể giải thích động thái của nó như một nỗ lực đạt tới cùng đích ấy. Tảng đá rơi xuống đất, sự rơi đó được giải thích bằng nỗ lực của tảng đá nhằm đạt tới nơi chốn tự nhiên của nó, và ngọn lửa hướng lên trời cũng được giải thích bằng lý do giống y như thế.

Kịch tác gia Pháp *Molière (1622-1673) chế giễu quan điểm đó bằng lời gợi ý rằng thuốc phiện làm người ta buồn ngủ vì công dụng thuốc ngủ của nó. Cũng thật thú vị khi ghi nhận giáo sư Vincent Edward Smith, một đại biểu hiện đại của thuyết Thomas, trong cuốn Philosophical Physics (Vật lý học triết lý, 1950) cũng sử dụng loại ngôn ngữ tương tự khi nói rằng: “Giấy sẽ được tẩy trắng khi gần hơi rất nóng vì thao tác ấy thích hợp với bản tính của giấy và đó là điều tốt nhất cho nó”. Các nhà khoa học hiện đại không chấp nhận giải pháp cho vấn đề động thái đặt cơ sở trên bất cứ lý thuyết nào về bản tính hoặc cùng đích nội tại, vì đối với họ, chúng chỉ là những giải pháp giả tạo.

Vật là kết liên phẩm tính Rõ ràng chúng ta chỉ nhận ra vật nhờ các đặc tính của nó. Tri thức của chúng ta phải bắt đầu với các phẩm tính được quan sát bằng giác quan. Một số nhà tư tưởng hiện đại lập luận rằng vật chỉ là sự kết liên các phẩm tính, trong khi đó một số khác nhấn mạnh tới cấu trúc được phô diễn trong sự kết liên ấy, cái vốn tồn tại kéo dài trong khi các phẩm tính bị biến đổi.

Ðể hiểu hàm ý của những lời quả quyết ấy, điều đầu tiên ta cần phải hiểu là từ ngữ phẩm tính có ngụ ý gì. Sự am hiểu thích đáng thuật ngữ “phẩm tính” có thể hữu ích trong việc am hiểu các đối tượng của kinh nghiệm.

Có một số triết gia hiện đại, đặc biệt những người đánh giá cao các lời tuyên bố mang tính cảm quan chung, hẳn sẽ không đồng ý với kết luận của chương này. Tuy thế người ta có thể quả quyết, với sự quan tâm tới các ngoại lệ, rằng tâm trạng hiện đại của triết học và khoa học đối lập với bất cứ khái niệm nào cho rằng vật là cái gì đó có tự tính, độc lập, tồn tại kéo dài xuyên thời gian, không bị biến đổi và sở hữu các phẩm tính.

Thế giới và vạn vật Có thể tóm tắt tâm trạng hiện đại ấy bằng lời phát biểu của Bradley trong cuốn sách đã dẫn rằng: “Có thể yêu cầu người đọc suy ngẫm liệu chúng ta nay có còn lại cái gì được hiểu là vật không. Xét theo thực tế, khi chúng ta dùng từ ngữ “vật” thì thật khó mà nói cái gì được hiểu một cách tổng quát là nó”.

Từ điểm nhìn của khoa học hiện đại và triết học hiện đại, nay đã tới lúc phải buông bỏ một trong những giả định căn bản của người bình thường rằng thế giới này được làm thành bởi “vạn vật”. Sự nhấn mạnh tới thời gian hoặc quá trình diễn tiến đã vô hiệu hóa khái niệm về cái được gọi là độc lập với thời gian và đồng nhất vượt quá mọi dị biệt.

Ðồng nhất trong dị biệt Nếu có sự đồng nhất nào thì đó là sự đồng nhất trong dị biệt chứ không nằm ngoài hay vượt lên trên dị biệt, nghĩa là nó là loại đồng nhất mà chúng ta tìm thấy trong một hệ thống, thí dụ xã hội Việt Nam, cái vẫn tồn tại trong khi các phần tử của nó biến đổi.

Chừng nào vấn đề bản thể còn liên quan tới bản tính của vật, chừng đó phải thay đổi lối tiếp cận từ sự xem xét cái vẫn là đồng nhất trong khi các đặc tính của nó bị biến đổi tới cái, bằng cách này hay cách khác, liên kết một cách không thể tháo gỡ với các đặc tính tự chúng đang biến đổi.

Không tự tính chẳng độc lập Bởi thế, chúng ta phải đặt câu hỏi về sự giả định mang tính cảm quan chung rằng từ ngữ “vật” quả thật có ý nghĩa gì? Trong một vũ trụ động (dynamic universe), không thể có thực thể nào có tự tính hay độc lập; mọi vật hẳn phải biểu lộ, bằng một hình thức nào đó, ảnh hưởng của môi trường.

Khi nhấn mạnh tới môi trường và được bổ sung bởi ý tưởng tiến trình, thì những cân nhắc tới biến đổi trở thành có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và việc sử dụng từ ngữ “biến cố” để chỉ các thực thể là cách mô tả tốt nhất.

Bằng thông giải này, vật không bao giờ thật sự đang là mà lúc nào cũng đang trở thành. Theo gợi ý của Bergson, có thể diễn tả nó như là một tích lũy kinh nghiệm. Không có bằng chứng về một bản ngã thường tại đang xuyên suốt kinh nghiệm như sợi chỉ xâu chuỗi cẩm thạch. Trong vũ trụ động, mọi biến cố đều tương tác và sự tách biệt vật này với vật khác không là điều có thật mà đúng hơn, đó chỉ là một hình thức trừu tượng hóa.

Kết luận này làm ta nhớ tới khái niệm Không tính của *Long Thọ, triết gia Trung quán tông của Phật giáo Ðại thừa khoảng hai ngàn năm trước và khái niệm “hỗ tương nhiếp nhập” của Hoa nghiêm tông. (Xem Ðại cương triết học Ðông phương, chương Ðại thừa, cùng một soan giả).

Triết học suy ngẫm và phê phán Vấn đề về bản thể cho chúng ta thấy rõ chức năng của triết học. Triết học là một nỗ lực đơn thuần bằng sự suy ngẫm hợp lý để phê phán những giả định không bị tranh cãi về cuộc sống hằng ngày, được hướng dẫn bởi những thông tin sẵn có và tốt nhất. Nhưng triết học không bị giới hạn trong việc phê phán cảm quan chung; nó còn có chức năng thẩm tra các giả định của khoa học với một thái độ giống y như thế.

Ngoại trừ những giới hạn của tự thân lý trí con người, không thể có giới hạn nào đối với các vấn đề có thể phát sinh. Chỉ khi nào vượt qua hết thảy các giả định ấy bằng những thử thách cam go của phê phán, lúc đó chúng ta mới ở trong vị trí có thể hình thành lý thuyết tổng quát về bản tính của vũ trụ như một toàn bộ.

Kinh nghiệm và lý trí Thế giới này là của chúng ta, nhưng để sở hữu nó và nhận biết nó, chúng ta phải tiếp cận nó với lòng khiêm tốn thích đáng nếu chúng ta muốn đạt tới cứu cánh đáng ao ước ấy.

Trong cuộc thẩm tra của chúng ta, kinh nghiệm là nguồn đầu tiên và là kiểm tra sau cùng, nhưng lý trí là công cụ độc nhất, nó biểu thị trong sự tự nguyên xem xét mọi chứng cớ và chỉ chấp nhận kết luận nào có kèm theo chứng cớ.n

 

Nguyễn Ước

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác