CHÙA TỪ ĐÀM
NƠI XUẤT PHÁT CÁC PHONG TRÀO
VÀ TỔ CHỨC PHẬT GIÁO TẠI MIỀN TRUNG
TÂM QUANG
LTS : Đến với Huế, du khách không chỉ đến
với thành phố nhà vườn, cung điện, đền miếu, phủ đệ… mà tới đây, du khách còn
chiêm ngưỡng những ngôi chùa được gắn liền với những nét kiến trúc cổ kính rêu
phong hay tân kỳ, và du khách cũng sẽ được hòa quyện, lưu thông trong dòng không
gian thanh bình và trầm lắng của xứ Huế: có những ngôi chùa có rất nhiều Phật tử
thập phương đến chiêm bái, thể hiện tín ngưỡng; có những ngôi chùa bốn bề thanh
tịnh và yên tĩnh rất thích hợp cho việc học tập và thực hành giáo lý để thăng
hoa đời sống tâm linh; có những ngôi chùa mang đậm dấu tích của một thời vàng
son. Trong NS số ra kỳ này, HP xin gửi đến quý độc giả bài viết của
Tâm Quang, trong đó, tác giả đã giới thiệu khá chi tiết về ngôi chùa Từ Đàm
lịch sử, mà đã một thời phát triển rực rỡ, liên kết với những phong trào và các
tổ chức Phật giáo ở miền Trung hồi bấy giờ. Dù lịch sử nay đã sang trang, nhưng
trong miền ký ức của người dân Việt Nam nói chung, cũng như nhân dân Huế nói
riêng, ít nhiều vẫn còn vang vọng, trong khúc nhạc trầm hùng, thanh thoát: «… Ôi ! Uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm/Nơi
yêu thương phát nguồn Đạo vàng/Qua bao dông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn !... »
I. Dẫn nhập:
Chùa Từ Đàm–là ngôi chùa đã in một dấu
tích rạng ngời trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hiện đại. Trải qua bao cuộc
thế thăng trầm, dâu bể đổi thay, bao nhiễu nhương, hưng phế của đạo Pháp, nhưng
dấu tích ấy vẫn uy nghi, trầm mặc, chẳng chút phôi pha cùng tuế nguyệt.
Chùa Từ Đàm–là tên gọi thân quen của
đông đảo quần chúng Phật tử Việt Nam nói riêng và cả Dân tộc Việt Nam nói chung.
Mọi người đã dành cho chùa Từ Đàm một niềm kính yêu vô hạn. Có thể nói, không có
ngôi chùa nào trên dải đất miền Trung nước Việt nầy, có được vinh dự lớn lao ấy.
Chùa Từ Đàm, không chỉ nổi tiếng ở lối
kiến trúc tân kỳ, mang nhiều đường nét và màu sắc khác biệt so với lối kiến trúc
cổ kính, thuần túy của chùa tháp Việt Nam. Chùa Từ Đàm, cũng không chỉ nổi tiếng
là một công trình kiến trúc đẹp đẽ, trên ngọn đồi Long Sơn hùng vĩ ở đất thần
kinh, cùng với một trang lịch sử lâu dài, kể từ khi được Hòa thượng Minh Hoằng
Tử Dung khai sáng, mà chùa Từ Đàm còn nổi tiếng là một trung tâm Phật giáo lớn
lao và phồn thịnh bậc nhất, có một quá trình phát triển rực rỡ, gắn liền với vận
mệnh an nguy của Dân tộc và sự hưng vong của đạo Pháp trong một giai đoạn nhất
định. Một trang lịch sử hào hùng, bi tráng đã tự trong lòng nó phát sinh.
Nếu có ai ví chùa Từ
Đàm là «cái nôi» thì tên gọi ấy cũng không có gì là quá lắm, chắc mọi người đều
hoan hỷ đồng tình.
«Cái nôi» Từ Đàm, đã tận tụy nuôi dưỡng,
chăm sóc chu đáo các phong trào và tổ chức Phật giáo, từ khi sinh ra cho đến lúc
trưởng thành.
- Từ phong trào chấn hưng Phật giáo Việt
Nam vĩ đại, diễn ra rầm rộ trên phạm vi cả nước, thì chùa Từ Đàm đã đứng vào vị
trí tiên phong, oai nghi, trang trọng dưới tấm biển vàng: «AN NAM PHẬT HỌC HỘI».
Một nhân tố tốt đẹp, đã tích cực góp phần rất lớn vào sự thành công kỳ diệu của
phong trào.
- «17 Tỉnh hội, 30 Chi hội và ngót gần
1.000 khuôn Tịnh độ», được thành lập và hoạt động mạnh mẽ thì chùa Từ Đàm cũng
là nơi xuất phát. Về sau, các khuôn Tịnh độ nầy, đều trở thành các khuôn Giáo
hội Phật giáo xã, phường, là đơn vị Phật giáo cơ sở hoạt động xuyên suốt trong
hệ thống Giáo hội từ Trung ương xuống đến địa phương.
- Ban Trị sự của 17 Tỉnh hội và 30 chi
hội Phật học tại miền Trung, được thành lập để lãnh đạo và dìu dắt ngót 1.000
khuôn Tịnh độ nói trên, thì chùa Từ Đàm vẫn đóng vai trò then chốt.
- Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
rất anh dũng của dân tộc Việt Nam chúng ta, giữa thế kỷ vừa qua thì chùa Từ Đàm
cũng là nơi thành lập và đặt trụ sở hoạt động của Hội Phật giáo Liên hiệp Trung
bộ, Hội Tăng già cứu quốc và Hội Phật giáo cứu quốc Thừa Thiên-Huế.
- Các ban Đồng ấu Phật tử, Đoàn Thanh
niên Phật học Đức dục, các Gia đình Phật Hóa phổ đầu tiên được thành lập. Sau
một thời gian sinh hoạt, cả ba mô hình nầy đã hợp nhất thành phong trào Gia đình
Phật hóa phổ. Đến năm Tân Mão, 1951 lại đổi danh hiệu là GIA ĐÌNH PHẬT TỬ, thì
chùa Từ Đàm cũng là nơi khai sinh và nuôi dưỡng trưởng thành phong trào nầy.
- Đầu năm Tân Mão, 1951, tại chùa Từ
Đàm, Tổng trị sự Hội Việt Nam Phật học có quyết định thiết lập một hệ thống giáo
dục Thanh thiếu niên bằng các trường Bồ-đề. Đến mùa Hè năm ấy, trường Trung học
Bồ-đề, Huế, được khởi công xây dựng, tại số 3, đường Đặng Dung, Thành nội, Huế.
Đây là ngôi trường Bồ-đề đầu tiên, mở đầu cho công cuộc xây dựng một hệ thống
trường Bồ-đề trên khắp 17 tỉnh miền Trung. Sau đó, đã lan rộng ra khắp toàn miền
Nam Việt Nam.
- Ngày 24.04.1951 (19.03. năm Tân Mão),
một Hội nghị Huynh trưởng Gia đình Phật hóa phổ toàn quốc được tổ chức, nhằm mục
đích đổi danh hiệu Gia đình Phật hóa phổ thành danh hiệu Gia đình Phật tử. Hội
nghị nầy cũng được tổ chức tại chùa Từ Đàm (trong tiến trình sinh hoạt của GĐPT
thường gọi Hội nghị nầy là Hội nghị lần thứ nhất).
- Bản Tuyên ngôn ngày 13.05.1951 (08.04.
năm Tân Mão) của Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam, đã kết hợp chặt chẽ 6
Tập đoàn Tăng già và cư sĩ ba miền Bắc-Trung-Nam Việt Nam thành một khối, với
danh hiệu TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM, cũng được viết nên và long trọng công bố
lần đầu tiên tại ngôi chùa Từ Đàm nầy.
- Bản Tuyên ngôn ngày 10.05.1963 (17.04.
năm Quý Mão), do Năm cấp Trị sự Phật giáo Việt Nam công bố khẩn cấp trước quốc
dân và thế giới, đã thể hiện đúng đắn Năm nguyện vọng cấp bách, thiết tha và
sống còn của toàn thể Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, trong phong trào đấu tranh
chống kỳ thị tôn giáo dưới chính quyền Ngô Đình Diệm. Cùng với bao nhiêu phong
trào và tổ chức Phật giáo khác, đã được thành lập trong lòng đại cuộc đấu tranh
nầy, để cùng góp sức bảo vệ và xây dựng sự phồn vinh cho đạo Pháp, tất cả đều
xuất phát từ ngôi chùa Từ Đàm lịch sử nầy.
***
Nằm ở vị trí trung tâm của ba miền đất
nước, chùa Từ Đàm là một «trạm giao lưu» trên con đường từ Bắc vô Nam hay từ Nam
ra Bắc, đều vô cùng thuận lợi. Trạm giao lưu thuận lợi nầy, là cái đà thúc đẩy
mạnh mẽ sự hoạt động của Tổng hội hai miền Nam Bắc, vừa là con đường lưu thông
huyết mạch, rất dễ dàng làm chuyên cơ cho các phong trào và tổ chức Phật giáo
lan rộng ra khắp cả nước.
Những sự kiện cụ thể, cho ta thấy: Vào
năm Canh Dần, 1950, Hòa thượng Trí Quang, trên cương vị Phó Hội Trưởng Tổng Trị
Sự Hội Việt Nam Phật học, đã từ ngôi chùa Từ Đàm nầy, Hòa thượng vào miền Nam
«chung sức vận động hợp nhất ba Phật học đường: Liên Hải, Mai Sơn và Ứng Quang
(sau đổi thành Ấn Quang) thành Phật học đường Nam Việt.» Trước khi về lại chùa
Từ Đàm, Hòa thượng tiếp tục «vận động thành lập Hội Phật học Nam Việt.»
Cuối mùa Thu năm Nhâm Thìn (12.09.1952),
cư sĩ Võ Đình Cường, trên cương vị Trưởng Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Thừa
Thiên, cũng xuất phát từ ngôi chùa Từ Đàm nầy, hướng dẫn một phái đoàn ra Hà
Nội, vận động và xúc tiến việc cải tổ phong trào Gia đình Phật hóa phổ tại miền
Bắc.
Gần một phần ba thế kỷ trôi qua, chùa Từ
Đàm như một con thuyền vững chãi, hiên ngang vượt sóng to, gió lớn để đưa quần
chúng Phật tử đến những bến bờ xa lạ, cho mọi người mở tầm mắt nhìn thấy những
khoảng đất trời bao la, trong xanh trước mặt. Có thể nói chắc rằng: nhờ ở tài
đức vô song của các vị «thủy thủ» tài ba và dõng mãnh ấy, mà con thuyền Từ Đàm
đã lướt tới, vươn xa để đưa nền Phật giáo miền Trung tới đích, và con thuyền
vững chãi ấy cũng đã chuyển tải những tinh hoa rạng rỡ của Đạo pháp đến tận ngày
hôm nay.
Giờ đây, có ai nhắc đến chùa Từ Đàm,
chắc không thể nào quên công lao to lớn của các bậc Long tượng Tăng già, uyên
thâm lỗi lạc, các vị thiện tri thức, tràn đầy tâm huyết, đã đóng góp không mỏi
mệt công sức của mình, để tài bồi cho sự nghiệp xây dựng ngôi nhà Phật giáo Việt
Nam hiện đại, đạt đến sự thành công rực rỡ.
Chùa Từ Đàm, trong
quá khứ, đã đóng giữ một vai trò trọng yếu và lớn lao trong sự nghiệp hoằng
dương Phật pháp khắp 17 tỉnh miền Trung. Dù có lúc phải chịu chung những biến cố
đau thương của lịch sử, hay được hưởng thụ phần nào vinh quang của Dân tộc, thì
chùa Từ Đàm vẫn luôn giữ vững nề nếp sinh hoạt thuần túy đạo hạnh của riêng
mình. Phương châm «tùy duyên bất biến» đã như một thông lệ uyên nguyên, độc đáo,
để chùa Từ Đàm chưa từng nghiêng mình khuất phục trước một chướng duyên, hay một
nghịch cảnh nào !
***
Chùa Từ Đàm–là ngôi chùa có dáng đứng
sáng rực cả vùng trời Việt Nam, thì dòng lịch sử chùa Từ Đàm phải là dòng lịch
sử chói lọi, huy hoàng.
Thế nhưng trong giai đoạn Phật giáo đang
trên đà suy vi và hỗn độn ấy, làm sao chùa Từ Đàm lại có sức tự mình vươn lên để
đưa nền Phật giáo tại miền Trung lên đến đỉnh cao của sự hưng thịnh và xác lập
cho mình một dáng đứng rạng ngời trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam!
Để thấy rõ hơn vai trò và vị trí lịch sử
chùa Từ Đàm, xin ngược dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam: từ các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần sức sống của Phật giáo hưng thịnh, rạng rỡ bao nhiêu thì đến
cuối triều đại nhà Nguyễn lại suy đồi, tăm tối bấy nhiêu.
Hiện tượng nầy, đã được sử gia Phật
giáo-Thượng tọa Thích Mật Thể-trong Việt Nam Phật giáo sử lược, mô tả cụ thể như
sau: «Phật giáo về thời đại nầy đã kém lắm rồi, nên dẫu các triều vua vẫn tín
ngưỡng, sùng phụng, làm chùa, đúc chuông mà tinh thần Phật giáo vẫn suy. Đến
đây, từ trên vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật là ở chỗ cúng
cấp, cầu đảo, chứ không biết gì khác hơn nữa, và phần đông họ chỉ trọng ông Thầy
ở chỗ danh vọng, chức tước, mặc dầu ông Thầy ấy thiếu học, thiếu tu. Bởi tệ nạn
ấy, làm cho Tăng đồ trong nước, dần dần sa vào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu
chè, đắm trước thanh sắc...
Tuy vậy, ở miền
Trung ương Bắc kỳ, về kỷ luật Tăng già, bề ngoài còn giữ được nghiêm chỉnh đôi
chút, chứ ở Trung kỳ, phần nhiều họ đã có vợ con một cách công nhiên, không còn
áy náy. Nhất là Nam kỳ, ông Thầy, bà vải lại càng hỗn độn hơn nữa. Cũng vì tình
trạng ấy mà tạo nên mối hại ngày nay. Đến nỗi, gần 15 năm lại đây, hiện tượng
suy đồi ấy càng biểu diễn đến chỗ đồi bại. Phần đông Tăng đồ chỉ nghĩ đến danh
vọng, chức tước, xin bằng Tăng cang, trú trì, sắc tứ…
Một phương diện khác thì chỉ biết cúng
cấp, cầu đảo, phù chú (phù chú đã thành phù thủy hóa) làm tay sai cho các nhà
vua chúa, quan quyền, bá hộ. Thay vì họ cầu đảo, cúng cấp để làm kế sinh nhai,
hoặc phải chăm lo việc đồng áng có thể nuôi sống hằng ngày. Còn một hạng nữa,
chỉ giữ mình cho được thanh nhàn, ăn chơi tiêu khiển, bảo là giải thoát.
Ôi ! Tinh thần Phật giáo đến đây hầu như
đã tuyệt diệt. Bởi vậy, các cảnh chùa trong nước, đã trở thành cảnh gia đình
riêng, không còn gì là tính cách đoàn thể của một tôn giáo nữa…»
Sự sa sút tinh thần, băng hoại Tông môn
một cách trầm trọng của nhiều tầng lớp Tăng đồ trong nước, như sử gia Thích Mật
Thể đã nêu trên, cộng thêm sự tác động mạnh mẽ từ cuộc phục hưng Phật giáo ở
chính quốc Ấn Độ và công cuộc chấn hưng Phật giáo vang dội từ đất nước Trung
Hoa, là nguyên chính, dẫn đến cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam, do quý bậc Cao
Tăng thạc đức, Long Tượng trong Sơn môn, cùng các vị cư sĩ thiện tri thức giàu
tâm huyết, thành tâm với lý tưởng, đề xướng và khởi động từ đầu năm Canh Thân,
1920, trở về sau…
Bởi lẽ, trong các thiền môn trang
nghiêm, thanh tịnh, còn biết bao bậc Tăng già đạo phong trác tuyệt, trí tuệ uyên
thâm. Chắc chắn quý Ngài không thể không nghĩ đến tiền đồ của Đạo pháp, quý Ngài
không thể thờ ơ trước sự sa sút nếp sống Phạm hạnh của Tăng môn mà quý Ngài còn
đặc biệt lưu tâm. Nhờ sự lưu tâm đặc biệt ấy mà quý Ngài đã dốc hết tâm lực để
chấn chỉnh và tái tạo cho nền Phật giáo Việt Nam từ chỗ suy vi, hỗn độn đến nơi
hưng thịnh, vẻ vang như chúng ta được thấy ngày hôm nay.
Xin trân trọng nói rằng: quý Ngài là
những bậc danh Tăng lỗi lạc, là những bậc cư sĩ tiền bối hữu công, có đủ năng
lực và dũng khí để làm đảo ngược hiện tượng suy đồi và tha hóa ấy của nhiều tầng
lớp Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ. Quý Ngài đã thực sự viết thêm
một trang lịch sử huy hoàng cho Phật giáo Việt Nam hiện đại.
Riêng tại miền Trung, khi quý Ngài khởi
xướng việc thành lập An Nam Phật học hội và quyết định chọn ngôi Tổ đình Từ Đàm,
làm điểm tụ hội, để chỉnh đốn môn quy, xiển dương Chánh pháp, rõ ràng bước đầu
quý Ngài đã thành công rực rỡ. Để từ sau đó, các phong trào và tổ chức Phật giáo
khác, thoát thai từ An Nam Phật học hội-hay chùa Từ Đàm -tất cả đều đã làm nên
nhiều Phật sự lớn lao, thiết thực, đã đem lại nhiều thành quả khả quan cho Phật
giáo Việt Nam, và cũng đã góp phần tô bồi cho nền văn hóa Dân tộc thêm phần rạng
rỡ.
Ngày nay, các phong trào và tổ chức Phật
giáo đã xuất phát từ chùa Từ Đàm, không chỉ ảnh hưởng tốt đẹp đến đời sống an
vui của mọi giới Phật tử, đến nền văn hóa hiếu hòa của Dân tộc, mà nó còn có khả
năng vươn lên và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới. Điển hình là các tổ chức
Phật giáo mang truyền thống từ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, nhất là phong trào
Gia đình Phật tử.
Sau cùng, chúng tôi xin mượn một đoạn
lời ca thật trầm hùng, thiết tha và đã đi vào bất tử trong ca khúc Từ Đàm Quê
Hương Tôi, của nhạc sĩ Nguyên Thông và Tâm Đại, để kết thúc phần Dẫn nhập nầy :
« …Ôi ! Uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm,
Nơi yêu thương phát nguồn Đạo vàng,
Qua bao dông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn
còn !...
Ôi ! Anh linh bóng chùa Từ Đàm,
Ôi nơi đây nắng chiều dịu dàng,
Ai hy sinh cứu đời phũ phàng, Từ Đàm
ơi !... »
Trước
khi nhìn lại các phong trào và tổ chức Phật giáo tại miền Trung, tưởng cũng nên
điểm sơ lược lịch sử chùa Từ Đàm, để có thể, có cái nhìn tổng quát hơn về vai
trò, vị trí lịch sử và tầm ảnh hưởng lớn lao của chùa Từ Đàm đối với các phong
trào và tổ chức Phật giáo này.
II. LƯỢC SỬ CHÙA TỪ ĐÀM
Chùa
Từ Đàm, thời mới kiến tạo có tên là Ấn Tôn tự. Đến năm Thiệu Trị nguyên niên,
Tân Sửu, 1841, vua sắc đổi thành Từ Đàm tự. Năm Bính Tý, 1936, chư Sơn Thừa
Thiên quyết định giao Từ Đàm tự cho An Nam Phật học hội phụng thờ. Hai năm sau,
Mậu Dần, 1938, An Nam Phật học hội quyết định dỡ bỏ ngôi chùa cũ và xây dựng lại
một ngôi chùa hoàn toàn mới, như mọi người thấy ngày hôm nay. Từ đó, chùa có tên
là chùa Hội Quán. Cũng trong năm Mậu Dần, 1938 này, Thừa Thiên Tỉnh hội đặt trụ
sở hoạt động chính thức tại chùa Từ Đàm, nên quần chúng Phật tử thường gọi là
chùa Tỉnh Hội.
ẤN TÔN TỰ:
A. Giai đoạn hình thành
Theo
các sử liệu hiện lưu hành thì Ấn Tôn tự do Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung kiến
tạo, trên ngọn đồi Long Sơn (còn gọi là Hoàng Long Sơn), lúc bấy giờ thuộc địa
phận xã An Cựu, tổng Vỹ Dạ, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Địa
giới hành chánh này, từ ấy đến nay đã trải qua nhiều lần thay đổi. Ngày nay chùa
Từ Đàm nằm trong địa phận phường Trường An, thành phố Huế.
- Hòa
thượng Minh Hoằng Tử Dung người tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa. Không có sử liệu nào
ghi chép ngày tháng năm sinh. Hòa thượng là đệ tử của Ngài Siêu Trường Đại Xa,
thuộc đời thứ 34 dòng Thiền Lâm Tế Chánh Tông (theo kệ Ngài Nghĩa Huyền), đời
thứ 13 theo kệ Ngài Vạn Phong. Ngài Vạn Phong thuộc đời thứ 21 dòng Thiền Lâm Tế
Chánh Tông, nhưng vào thời Ngài thì Ngài lại biệt xuất kệ truyền thừa:
“Tổ
Đạo Giới Định Tông
Phước Quả Chiếu Viên Thông
Hạnh SIÊU MINH Thiệt Tế
Liễu
Đạt Ngộ Chân Không
Như
Nhật Quang Thường Chiếu
Phổ
Châu Lợi Ích Đồng
Tín
Hương Sanh Phước Huệ
Tương Kế Chấn Từ Phong”.
Do đó,
Hòa thượng Tử Dung có pháp danh là MINH HOẰNG (1)
Ngài
sang Việt Nam năm nào, hiện không có sử liệu nào khảo cứu chính xác. Chỉ biết
tại Trung Hoa, sau khi nhà Thanh (1662 - 1911) lên thay thế nhà Minh (1368 -
1661) thì tình hình chính trị lúc bấy giờ đã tỏ ra rất bất lợi cho công việc
hoằng pháp, nên phần nhiều quý Ngài đều lánh sang các nước lân cận, trong đó có
Việt Nam.
Công nghiệp hoằng hóa của Ngài các sử liệu chỉ ghi chép sơ
sài, kể cả trên văn bia ở tháp Tổ Liễu Quán (Huế) và văn bia ở chùa Chúc Thánh
(Quảng Nam), cho nên cũng không giúp gì cho chúng ta biết thêm về thân thế cùng
công nghiệp hoằng pháp của một danh Tăng uyên thâm, lỗi lạc khi trao “công án”
và “ấn khả” cho Thiền sư Liễu Quán vào các năm Nhâm Ngọ, 1702 và năm Mậu Tý,
1708 tại Ấn Tôn tự.
Ngài
sang Việt Nam lưu trú tại Thuận Hóa (Huế) rồi kiến tạo Ấn Tôn tự.
Ngài
tịch ngày 16 tháng 11 (không rõ năm nào). Tuy nhiên trên bia hiện tôn trí ở tháp
Ngài còn ghi rõ: “Truyền Lâm Tế Chánh Tông, đệ tam thập tứ thế, thượng Tử hạ Dung, húy Minh Hoằng, Đại lão Hòa
thượng chi tháp”. Sự kiện này đã cho biết rằng: Ngài viên tịch lúc tuổi đã lên
hàng “Đại lão Hòa thượng”.
Tháp
của Ngài hiện nằm trong khuôn viên chùa Bảo Quốc, Huế.
Về
niên đại kiến tạo Ấn Tôn tự, hiện có hai thuyết và một chứng tích lịch sử rõ
ràng:
Thứ nhất:
Theo sử
gia Phật giáo-Thượng tọa Thích Mật Thể-trong cuốn “Việt Nam Phật giáo sử lược”
và bài “Đạo Phật Việt Nam từ thời đại du nhập đến cận đại”, của 4 tác giả: Minh
Châu, Thiện Ân, Đức Tâm và Chân Trí, đăng trong cuốn Phật pháp 4 cấp, dành cho
Gia đình Phật tử đều cho rằng: vào đời chúa Anh Tôn Nguyễn Phúc Trăn (1687 -
1691) (có nhiều sử liệu ghi là Nguyễn Phúc Thái) Hòa thượng Nguyên Thiều Thọ Tôn
phụng mệnh chúa, trở về Trung Hoa thỉnh mời các vị danh Tăng sang Việt Nam để
khai giới đàn tại chùa Thiên Mụ. Trong đó có Hòa thượng Thạch Liêm, Ngài khai
sơn chùa Thiền Lâm (tức Hòa thượng Như Tự
Khắc Huyền (?- 1705)). Ngài khai sơn chùa Kim Tiên, Ngài Minh Hoằng Tử Dung,
khai sơn chùa Ấn Tôn, Ngài Minh Hải Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh (Quảng
Nam), Ngài Minh Hành Tại Toại ...
Đại
giới đàn tại chùa Thiên Mụ được khai giới vào năm Ất Hợi, 1695, sau khi đại giới
đàn hoàn tất viên mãn, Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung trở về ngọn đồi Long Sơn
kiến tạo Ấn Tôn tự.
Theo
thuyết này thì Ấn Tôn tự đã được kiến tạo vào năm Bính Tý, 1696 hoặc Đinh Sửu,
1697...
Thứ hai:
a. Hòa
thượng Thích Thiện Hoa trong cuốn:“50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam”,
viết: “Chùa Từ Đàm, do Tổ Minh Hoằng Tử Dung kiến tạo từ đời Lê (Lê Hy Tôn, 1676
- 1705) vào năm Đinh Vị, 1683. Đến nay (1970) là 287 năm” (xin lưu ý năm 1683 là
năm Quý Hợi, chắc in nhầm là năm Đinh Vị - TQ. chú)
b. Hòa
thượng Thích Thiện Siêu, trong “Trí Đức Văn Lục” tập 3(2) ở phần phụ
lục viết: “Chúng tôi nói rằng an trú thiền thất Ấn Tôn của Ngài Minh Hoằng Tử
Dung đã có trong khoảng thời gian từ năm Quý Hợi, 1683 cho đến năm Ất Hợi, 1695
...”
Thứ ba:
Theo
bức hoành phi hiện treo ở chánh điện chùa Từ Đàm, trong đó có 3 chữ Hán sơn son
thiếp vàng: “ẤN TÔN TỰ”, phía trái có hai ấn hình vuông ghi: “Thiên vận Quí-
Mùi, sơ xuân cát đán” (Quí- Mùi, 1703).
Theo
các thuyết và chứng tích còn lại đã nêu trên và qua sự tham khảo các sử liệu
hiện lưu hành thì thuyết của quý Hòa thượng Thích Thiện Hoa và Thích Thiện Siêu là có tính thuyết phục hơn cả.
(Xin ghi thêm: Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Ngài đã Trú trì Tổ đình Từ Đàm suốt
thời gian 54 năm-từ năm Đinh Hợi, 1947 đến năm Ngài viên tịch Tân Tỵ, 2001)
Bởi
các lẽ mà những nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam về sau, đã khảo chứng
rành mạch như sau:
1.
Hòa thượng Thạch Liêm Thích Đại Sán (1633 - 1702) cùng các Hòa thượng khác,
không sang Việt Nam theo lời mời của Hòa thượng Nguyên Thiều Thọ Tôn mà Ngài
sang Việt Nam theo thư mời của Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
Thư
này do một sứ đoàn của chúa phái đi, mang sang tận Trường Thọ am ở tỉnh Quảng
Đông, nơi Hòa thượng Thạch Liêm đang Trú trì, vào ngày mồng 4 tháng 8 năm Giáp
Tuất, 1694. Sự kiện này đã được Hòa thượng Thạch Liêm ghi trong tập Hải Ngoại ký
sự như sau: “Kể từ Tiên vương có thư mời đến nay là ba lần, mời đến ba lần cũng
là thành tâm lắm vậy”.
Đến
trưa ngày 16 tháng Giêng năm Ất Hợi, 1695, Hòa thượng cùng 50 Tăng nhân xuống
thuyền lên đường sang Việt Nam. Đoàn thuyền của Hòa thượng sang đến Thuận Hóa
(Huế) vào ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi, 1695 và lưu trú tại chùa Thiền Lâm
(tức chùa Thuyền Lâm, tại 150 Điện Biên Phủ, phường Trường An, Huế)
2.
Đại giới đàn do Hòa thượng Thạch Liêm khai giới được tổ chức tại chùa Thiền Lâm
từ ngày 1 - 8 tháng 4 năm Ất Hợi, chứ không phải tại chùa Thiên Mụ.
Ở chùa
Thiên Mụ, Hòa thượng Thạch Liêm có chứng minh lễ sám vạn Phật kéo dài 40 ngày,
bắt đầu từ ngày mồng 4 tháng 11 năm Ất Hợi. Lễ này được tổ chức sau khi Hòa
thượng Thạch Liêm đã vào đến Hội An để lên đường về nước nhưng trời trở gió, nên
thuyền không nhổ neo được. Do đó, chúa Nguyễn Phúc Chu cho người đưa thư vào mời
Hòa thượng ra lại Thuận Hóa.
3.
Nếu căn cứ vào nội dung bức hoành phi cũng không xác thực. Bởi lẽ trong văn bia
hiện tôn trí ở tháp Tổ Liễu Quán, có đoạn ghi rõ: “Nhâm Ngọ, vãng Long Sơn tham
Tử Dung Hòa thượng hướng cầu tham thiền, Hòa thượng linh tham: “Vạn pháp quy
nhất, nhất quy hà xứ”. (Năm Nhâm Ngọ, sư đến Long Sơn bái yết Hòa thượng Tử Dung
xin học pháp tham thiền, Hòa thượng dạy suy gẫm câu: “Muôn pháp về một, một về
chỗ nào?” (Nhâm Ngọ ứng với Tây lịch là năm 1702).
Như
thế, vào năm Nhâm Ngọ, 1702, Ấn Tôn tự đã được kiến tạo hoàn tất ít ra cũng năm,
bảy năm trước đó. Tấm biển “Ấn Tôn Tự”, ghi năm Quí Mùi, 1703, có lẽ là năm Ấn
Tôn tự được xây dựng rộng lớn hơn, từ đó đã tạo ra tấm biển nầy, vì khi đã có
thảo am hoặc chùa viện để ẩn náu tu hành thì Hòa thượng mới yên tâm thu nhận đệ
tử và có thì giờ dạy dỗ chúng Tăng.
Dẫn
chứng các sử liệu trên, để có thể xác định được “Giai đoạn hình thành” Ấn Tôn tự
mà thuyết của nhị vị Hòa thượng Thích Thiện Hoa và Thích Thiện Siêu là rất phù
hợp.
Tóm
lại, qua các sử liệu đã được quý Hòa thượng và các nhà nghiên cứu lịch sử Phật
giáo Việt Nam khảo chứng và trình bày, thì Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung đã kiến
tạo Ấn Tôn tự trong khoảng thời gian từ năm Quí Hợi, 1683, đến năm Ất Hợi, 1695.
Năm kiến tạo chính xác hiện chưa tìm thấy sử liệu nào khảo cứu tường tận.
Kể từ
đó, trải qua gần 100 năm sau, Ấn Tôn tự vẫn tồn tại và phát triển rực rỡ dòng
Thiền Minh Hoằng Tử Dung-Thiệt Diệu Liễu Quán trên khắp dải đất Nam Hà.
Đến
năm Ất Mùi, 1775 chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767 - 1782) xua 30 vạn quân vào
đánh chiếm thành Phú Xuân. Qua ngày 10 - 5 năm Bính Ngọ (15-6-1786), thủy quân
Tây Sơn từ cửa Thuận An đổ bộ lên đánh bại quân Trịnh, chiếm lấy thành Phú Xuân,
rồi lên nắm chính quyền.
Hai
năm sau, Mậu Thân, 1788, dưới chân ngọn đồi Bân Sơn (Thuận Hóa), Nguyễn Huệ làm
lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
Cũng
từ đó trở đi, tất cả chùa viện của Phật giáo khắp miền Thuận Hóa (Huế) đều bị
quân Tây Sơn triệt phá, san bằng. Do đó, Ấn Tôn tự cũng như các chùa viện khác
đều lâm vào tình trạng tiêu điều, hoang phế.
Xin
nêu lên vài sự kiện lịch sử cụ thể đã được các sử gia, các nhà nghiên cứu lịch
sử khảo chứng như sau:
Trong
phần khảo cứu ở sách Hải ngoại ký sự của Hòa thượng Thạch Liêm, (Hải ngoại ký sự
- Thích Đại Sán, Ủy ban phiên dịch lịch sử Việt Nam - Viện Đại học Huế, xuất bản
năm 1963) Giáo sư Trần Kinh Hòa, viết: “Vào thời nầy, các chùa quanh vùng Huế,
đều bị triệt hạ đến sát đất. Chùa Bảo Quốc bị chiếm để chứa diêm tiêu làm công
binh xưởng cho quân Tây Sơn, chùa Kim Tiên chiếm để làm chỗ ở cho mẹ con bà Ngọc
Hân công chúa, chùa Thiền Lâm thì bị Thái sư Bùi Đắc Tuyên chiếm làm tư dinh,
chùa Viên Giác do Hòa thượng Liễu Quán khai sơn, nằm trong khu vực chùa Vạn
Phước ngày nay thì bị phá mất cả dấu tích và đất đai, chùa Quốc Ân cũng bị đập
phá, tháp
Phổ Đồng dựng trước sân chùa bị san bằng mất cả dấu tích...”
Ở giai
đoạn này, Ấn Tôn tự lại nằm gần Thiền Lâm viện (tức chùa Thiền Lâm), chùa lại có
một diện tích rộng lớn, chiếm cả vùng đồi núi mạn Nam sông Phú Xuân (tức sông
Hương) nơi mà nhà Tây Sơn vừa chọn làm phủ liêu, vừa làm công sở, vừa làm nơi
đóng quân thì chắc chắn Ấn Tôn tự cũng không hưởng được chút ân huệ nào, nên
cũng đã cùng các chùa viện khác chịu chung thảm cảnh hoang tàn ấy.
Do đó
mà Ấn Tôn tự mất hết cả dấu tích, chỉ còn lại có tấm biển: “Ấn Tôn Tự” hiện treo
ở chính điện chùa cùng vài ba Long vị đã bị sứt mẻ.
Tình
trạng chùa viện của
Phật giáo bị chiếm dụng và phá hủy như thế đã kéo dài từ năm Bính Ngọ,
1786, cho đến khoảng đầu niên hiệu Gia long, Nhâm Tuất, 1802 mới có cơ hội tái
kiến, trùng hưng.
Mở
đầu, vào niên hiệu Gia Long thứ 2 Quý Hợi, 1803, tín nữ Lê thị Tạ pháp danh Tiên
Quý, cùng nhiều tín nữ khác đã ngoại hộ cho Hòa thượng Đạo Tâm Trung Hậu trùng
kiến Tổ đình Thuyền Tôn.
- Niên
hiệu Gia Long thứ 3 Giáp Tý, 1804 được sự ngoại hộ của quan Đại thần Hoàng Văn
Cẩn và phu nhân Lê thị Cách, cùng đông đảo thiện nam, tín nữ Hòa thượng Đạo
Trung Chánh Định trùng hưng chùa Kỳ Viên. Cũng
dịp này Hòa thượng chứng minh lễ chú tạo một Đại hồng chung. Sau cuộc trùng tu
hoàn tất, chùa đổi tên thành Xuân An tự, tức chùa Trường Xuân, gần chợ Dinh,
thuộc phường Phú Hiệp, Huế hiện nay.
- Niên
hiệu Gia Long thứ 4 Ất Sửu, 1805 được sự ngoại hộ toàn diện của Long Thành công
chúa (chị ruột của vua Gia Long, tên thật là Nguyễn Phúc Ngọc Tú, sinh năm Kỷ
Mão, 1759 mất năm Ất Dậu, 1825. Linh vị của bà hiện thờ ở chùa Quốc Ân, nội dung
ghi rõ: “Thích Môn hộ giáo Hoàng cô, thọ Bồ-tát giới, pháp danh Tế Minh, tự
Thiên Nhật chi vị). Ngài Tế Lịch Chính Văn đã đứng ra trùng tu. Từ đó về sau
chùa Quốc Ân còn có vài đợt trùng tu nữa, nhưng không hiểu vì sao tháp Phổ Đồng
vẫn không được quý Ngài tái kiến.
- Niên
hiệu Gia Long thứ 7, Mậu Thìn, 1808, Bà Hiếu Khương Hoàng thái hậu (mẹ của vua
Gia Long, tên thật là Nguyễn thị Hoàn, sinh ngày 02/ 02/ năm Mậu Ngọ, 1738, mất
ngày 30/10 năm Tân Mùi, 1811) đã cung cấp tiền của để tái kiến hoàn toàn chùa
Bảo Quốc, chú tạo nhiều ngôi tượng Phật và một Đại hồng chung. Đẹp nhất là cổng
tam quan hiện còn đến ngày nay.
Sau
khi công cuộc trùng tu hoàn tất, Hiếu Khương Hoàng Thái hậu cung thỉnh Hòa
thượng Đạo Minh Phổ Tịnh (?-1816) và sắc phong Hòa thượng Trú trì. Cùng năm này,
vua Gia Long ban chỉ dụ đổi tên chùa là Hàm Long Thiên Thọ tự.
- Niên
hiệu Gia Long thứ 10, Tân Mùi, 1811, Bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu (chánh hậu của
vua Gia Long, tên thật là Tống Thị Lan, sinh ngày 25/12/ năm Tân Tỵ (19.01.1762)
mất năm Giáp Tuất, 1814) đã ngoại hộ để trùng hưng chùa Thiền Lâm.
- Đến
niên hiệu Gia Long thứ 12, Quý Dậu, 1813, Hòa thượng Đạo Trung Trọng Nghĩa đứng
ra trùng tu Ấn Tôn tự. Về sự kiện lịch sử nầy, trên thực tế còn thấy ở nhà thờ
Tổ chùa Từ Đàm, có một Long vị ghi: “Sắc tứ Thiên Mụ tự Trú trì, trùng hưng Từ
Đàm đường thượng tam thập bát Đại Trọng Nghĩa Đạo Trung thụy Viên Minh Lão Hòa
thượng” và trên bia ở tháp Ngài, ghi: “Thiên Mụ tự Trú trì, Đạo Trung Trọng
Nghĩa chi tháp”.
(Xin
lưu ý: về mặt lịch sử, trên Long vị của Ngài ghi: “trùng hưng Từ Đàm” là không
đúng, vì vào năm Quý Dậu, 1813 chưa có tên Từ Đàm. Nhưng do một sự kiện xảy ra
là từ năm Mậu Dần, 1878 đến năm Mậu Tuất, 1898 trong khoảng thời gian nầy, chính
phủ Nam triều đã cho mở con đường mới gọi là Nam Giao tân lộ (Nam Giao cựu lộ là
con đường dốc Bến Ngự - nay là đường Phan Bội Châu) chạy thẳng từ Bến Voi (nay
là bến thuyền du lịch, nằm phía Đông nhà khách số 5 Lê Lợi - Huế) lên đến đàn
Nam Giao. Con đường này, khi mở phải chạy băng qua khuôn viên Từ Đàm tự. Do đó,
nên cả 5 ngôi tháp, trong đó có bảo tháp của Tổ Minh Hoằng Tử Dung, phải thiên
di về “cát táng” trong khuôn viên chùa Bảo Quốc, như chúng ta được thấy ngày hôm
nay. Sau khi “cát táng” lại lập Long vị nầy, nên mới khắc “trùng hưng Từ Đàm”).
Sau
khi trùng hưng chùa, Hòa thượng còn chú tạo một Đại hồng chung. Chuông hiện còn
ở chùa Từ Đàm. Cân nặng 416 cân (tương đương 250kg), thân chuông có khắc dòng
chữ: “Gia Long tuế thứ Quý Dậu niên Mạnh Hạ nhị thập tam nhật Mùi thời chú”
(chuông đúc vào khoảng 13 giờ đến 15 giờ ngày 23.4 năm Quý Dậu, niên hiệu Gia
Long thứ 12, 1813). Tại thân chuông còn có dòng chữ ghi: “Hòa thượng Đạo Trung
chứng minh”.
Như
thế, rõ ràng là vào năm Quý Dậu, 1813, Ấn Tôn tự đã được trùng hưng và tên chùa
vẫn gọi là Ấn Tôn tự.
Mãi
cho đến 28 năm sau, vào năm Thiệu Trị nguyên niên Tân Sửu, 1841 do phạm húy tên
vua Miên Tông Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) tức vua Thiệu Trị, nên vua có chỉ dụ
đổi thành Từ Đàm tự.
Sự
kiện nầy, còn thấy rõ trên bức hoành phi hiện treo ở nhà thờ Tổ, ghi bằng chữ
Hán: “Từ Đàm Tự”. Lạc khoản đề Thiệu Trị nguyên niên, tam nguyệt” (tháng ba năm
Tân Sửu, 1841).
Đến
cuối niên hiệu Thành Thái, Bính Ngọ, 1906 đầu niên hiệu Duy Tân, Đinh Mùi, 1907
có Hòa thượng Thanh Hiệp Tường Vân đứng ra trùng tu. Trên một Long vị hiện thờ ở
nhà Tổ chùa Từ Đàm, ghi rõ: “Lâm Tế Chánh Tông đệ tứ thập nhất thế trùng hưng Từ
Đàm tự, húy Thanh Hiệp hiệu Tường Vân Đại sư”.
Đây là
lần trung tu cuối cùng, trước khi chuyển qua “thời kỳ thay đổi”.
Tóm
lại, kể từ khi được Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung khai sáng, cho đến đầu thời kỳ
thay đổi. Ấn Tôn - Từ Đàm tự, dù phải hứng chịu những biến cố đau thương của
lịch sử, để bị tiêu điều, hoang phế trong suốt 25 năm (1788-1813) nhưng
nhờ vào sự nỗ lực không mỏi mệt của các bậc Long Tượng trong Sơn môn, của thiện
nam, tín nữ thành tâm ngoại hộ, cho nên Ấn Tôn-Từ Đàm tự vẫn tồn tại uy nghiêm
trên ngọn đồi Long Sơn hùng vĩ. Dòng Thiền Lâm Tế Chánh Tông Minh Hoằng Tử
Dung-Thiệt Diệu Liễu Quán vẫn không ngừng phát triển rực rỡ và truyền thừa tốt
đẹp.
Thành
quả lớn lao ấy không chỉ đóng góp những tinh hoa đặc sắc cho sự hưng thịnh của
Đạo pháp mà còn góp phần tô bồi cho nền văn hóa dân tộc Việt thêm phong phú,
vững bền.
Ấn Tôn
- Từ Đàm tự: niềm tự hào chung cho hàng hậu thế chúng ta.
B. Thời kỳ thay đổi
An Nam
Phật học hội thành lập ngày mồng 8/02 /năm Nhâm Thân (14.3.1932). Sau khi thành
lập, Hội vẫn chưa có trú sở chính thức để hoạt động.
Ban
đầu, Hội đặt trú sở tạm tại chùa Trúc Lâm (Huế) được một thời gian thì chuyển về
chùa Từ Đàm, rồi về chùa Diệu Đế, sau lại chuyển lên chùa Từ Quang (nơi Hòa
thường Trừng Thanh Giác Bổn (?-1949) đang Trú trì. Ngài là một trong bốn vị Hòa
thượng chứng minh cho An Nam Phật học hội).
Suốt
thời gian bốn năm, Hội đã hoạt động trong điều kiện không có trú sở nhất định
nên thường gặp khó khăn khi điều hành Phật sự. Nhất là trong lúc cao trào chấn
hưng đang bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ, mà Hội vẫn chưa có trú sở ổn
định, điều nầy không chỉ ảnh hưởng rất lớn đến công việc, mà còn cản trở tiềm
năng và tâm lực cho Đại cuộc chấn hưng.
Thực tế
nầy, chắc chắn quý Ngài trong Chư Sơn đã nhận thấy, vì thế cho nên vào ngày 16.6
năm Bính Tý (02.8.1936), Chư Sơn Thừa Thiên đã quyết định giao chùa Từ Đàm cho
An-Nam Phật học hội phụng thờ và làm cơ sở hoằng dương Chánh pháp.
Có thể
nói, đây là một quyết định đã đáp ứng kịp thời và đúng lúc cho công cuộc trọng
đại của Phật giáo miền Trung nói riêng và Phật giáo cả nước nói chung. Một quyết
định đã tăng cường sức mạnh cho sự hoạt động của An Nam Phật học hội. Nhờ quyết
định nầy mà về sau, Hội đã gặt hái được nhiều thành quả lớn lao, đã đem lại niềm
tin vững chắc cho biết bao thế hệ Phật tử vào tiền đồ vẻ vang của Đạo pháp.
Thế
nhưng quyết định nầy cũng đã làm cho “cục diện” chùa Từ Đàm thay đổi.
Hai
năm sau khi tiếp nhận chùa Từ Đàm, An Nam Phật học hội đã quyết định dỡ bỏ ngôi
chùa Từ Đàm cũ, để khởi công xây dựng một ngôi chùa hoàn toàn mới, theo một mô
hình kiến trúc khác lạ, không giống bất kỳ mô hình nào trong lối kiến trúc cổ
kính của chùa tháp Việt Nam.
Lễ động thổ khởi công đã được
Nguyệt san Viên Âm, số 35 ấn hành năm Kỷ Mão, 1939 ghi trong mục tin tức. Xin
tóm lược như sau: “Buổi lễ chính thức được tổ chức vào lúc 10 giờ 30’ ngày 27.
10 năm Mậu- Dần (18.12.1938) tại nhà giảng và khuôn viên chùa Từ- Đàm, dưới sự
chứng minh của Ngài Tăng Cang chùa Linh Mụ Như Đông Đắc Quang, chủ sám là Ngài
Tăng Cang chùa Thánh Duyên (Thúy Vân) Trừng Thủy Giác Nhiên (về sau là Đức Đệ II
Tăng Thống GHPGVNTN 1973 - 1979).
Về
phía chính quyền sở tại có ông Thừa Thiên Phủ Doãn- Đặng Thành Đôn, Hội trưởng
Danh dự của An Nam Phật học hội cùng các quan viên cao cấp khác.
Mở đầu
buổi lễ, Ngài Chánh Hội trưởng - Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám - đọc diễn văn
chào mừng và tuyên đọc biên bản lễ đặt đá.
Dưới
sự chứng minh và chủ sám của nhị vị Tăng Cang, Đại diện cho Chư Sơn Thừa- Thiên
Huế. Ông Thừa Thiên Phủ Doãn và Bác sĩ Chánh Hội trưởng đã long trọng đặt viên
đá đầu tiên xuống nền móng của ngôi chùa Từ Đàm cũ, trong tiếng niệm Phật cầu
gia hộ của hàng ngàn thiện nam, tín nữ cùng học sinh các trường đến tham dự.
Kể từ
giờ phút thiêng liêng và lịch sử này, Ấn Tôn-Từ Đàm tự đã nhường chỗ cho An Nam
Phật Học Tự, hay còn gọi là Chùa Hội Quán.
Cơ
nghiệp sau hơn 250 năm xây dựng và phát triển, giờ đã đi vào quá khứ. Ngày nay
Ấn Tôn - Từ Đàm tự chẳng còn lưu lại chút dấu tích gì, để cho mọi người có thể
hình dung được phần nào ngôi chùa Tổ đã trải qua
bao nổi thịnh suy, hưng phế. Ngoài hai bức hoành phi sơn son thiếp vàng: “ẤN TÔN
TỰ và TỪ ĐÀM TỰ” cùng chiếc Đại hồng chung chú tạo vào niên hiệu Gia Long thứ
12, Quý Dậu, 1813.
Sự
thay đổi tên chùa, chắc chắn quý Ngài trong Chư Sơn đã nhất trí, khi An Nam Phật
học hội đệ trình bản đồ án xây dựng. Do đó, nên ngay trước tiền đường, trên
khuôn đúc lộng chính giữa, hiện có bốn chữ Hán đắp bằng xi măng ghép mảnh sành
rất mỹ thuật: AN NAM PHẬT HỌC.
Ngoài
ra, mặt trước hai trụ chính giữa tiền đường, còn khắc hai vế câu đối.
- PHẬT
chánh biến tri, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức (bên phải, ngoài
nhìn vào)
- HỌC
chơn thiệt nghĩa, như thị văn, như thị tư, như thị tu trì (bên trái)
Chứng
tích này đã thể hiện sự chú tâm của quý Ngài trong việc thay đổi tên chùa.
Tuy
nhiên tên chùa An Nam Phật Học so với thời gian thì còn quá xa lạ và mới mẻ, nên
ít người biết đến. Chỉ có tên chùa Hội Quán và chùa Tỉnh Hội thì có người còn
nhắc đến, nhưng dần dần rồi cũng đi vào lãng quên.
Trong khi đó, tên chùa Từ Đàm
thì quá quen thuộc, dù vóc dáng đã thay đổi, nhưng cái tên uy nghiêm và huyền
diệu ấy đã in sâu vào tâm trí của mọi người, mọi giới. Nhất là từ sau năm Ất Tỵ, 1965 khi cổng tam quan
chùa được xây dựng to lớn, đẹp đẽ với tấm biển bằng chữ Việt rõ ràng “CHÙA TỪ ĐÀM”
thì tên chùa An Nam Phật Học, chùa Hội Quán hay chùa Tỉnh
Hội chẳng còn nghe ai nhắc nhở đến.
Không
gian của An Nam Phật Học, ngày nay vẫn còn hiển hiện uy nghiêm trước mặt, mà tên
tuổi của một thời vẻ vang, hưng thịnh đã như cùng với thời gian chìm sâu trong
ký ức.
Sự thay đổi nào âu cũng là lẽ
vô thường của vạn pháp.
III. Sự hình thành các phong
trào và tổ chức Phật giáo tại miền Trung
Các phong trào và tổ chức Phật giáo xuất phát tại chùa Từ
Đàm thì rất nhiều, không thể kể hết. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến một số
phong trào và tổ chức tiêu biểu, đã hoạt động mạnh mẽ và có tầm ảnh hưởng sâu
rộng, đã đóng góp nhiều ích lợi thiết thực vào nền văn hóa Dân tộc và đã làm
rạng rỡ cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam trong suốt một phần ba thế kỷ.
Hơn nữa, ngày nay các phong trào tổ chức Phật giáo nầy vẫn
còn lan rộng và ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tâm linh của đông đảo đồng bào,
Phật tử không chỉ ở trong nước mà còn ở ngoài nước.
Tổ chức Phật giáo đầu tiên xuất phát tại chùa Từ Đàm là An
Nam Phật học hội.
An Nam Phật học hội ra đời trong một hoàn cảnh khá thuận
lợi, dù ở giai đoạn đất nước đang bị chìm đắm trong vòng nô lệ của ngoại bang.
Bên ngoài, do sự tác động mạnh mẽ từ đại cuộc phục hưng
Phật giáo tại chính quốc Ấn Độ, đến phong trào chấn hưng Phật giáo vang dội do
Thái Hư Đại sư khởi xướng và lãnh đạo thành công tại đất nước Trung Hoa.
Trong nước, chư tôn Thiền đức ở các Thiền môn khắp cả ba
miền Bắc Trung Nam Việt Nam, đều dốc lòng cổ xúy, tích cực vận động thành lập
các Hội Phật học, nhằm mục đích chấn hưng nền Phật giáo Việt Nam sau gần một thế
kỷ bị trì trệ, đình đốn. Điển hình như ở miền Nam vào năm 1920, chư Tổ đã thành
lập Lục Hòa hội. Đến năm 1931, lại thành lập Nam Kỳ nghiên cứu Phật học hội... Ở
miền Bắc, dù chậm hơn ở miền Nam và miền Trung nhưng cũng thành lập được Bắc Kỳ
Phật giáo Tổng hội vào năm 1934.
Tại miền Trung, điển hình là tại tỉnh
Thừa Thiên và cố đô Huế, với nỗi âu lo và niềm thao thức của chư tôn Thiền đức,
cùng với ý thức cao độ của tầng lớp trí thức khoa bảng cả cựu học lẫn tân học,
khi đứng trước thực trạng suy thoái trầm trọng của nền văn hóa truyền thống Dân
tộc, kéo theo sự suy thoái cũng không kém phần trầm trọng của một đại bộ phận
Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam.
Động cơ ấy đã thôi thúc và khởi động mạnh mẽ cho An Nam
Phật học hội ra đời.
An Nam Phật học hội là tổ chức có tầm
vóc lớn lao đầu tiên xuất phát tại chùa Từ Đàm, là tổ chức đã xây dựng nhiều đề
án hoạt động rất khoa học, đã đóng góp vào sự phát triển của nền Phật giáo Việt
Nam nhiều mô hình mới lạ, thực tế, đã gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp trên nhiều
lãnh vực. An Nam Phật học hội đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo Phật giáo miền
Trung nói riêng và đã tích cực góp phần xây dựng thành công nền Phật giáo trên
phạm vi cả nước nói chung, suốt cả thời kỳ chấn hưng cho đến ngày nay. An Nam
Phật học hội đã thay thế hoàn toàn vị trí chùa Từ Đàm.
Từ đây, An Nam Phật học hội-hay chùa Từ
Đàm-là nơi thoát thai của nhiều phong trào và tổ chức Phật giáo khác tiếp tục ra
đời.
Cũng cần trình bày thêm là trong suốt 32
năm hoạt động-từ năm 1932 đến năm 1964-An Nam Phật học hội đã ba lần thay đổi
danh hiệu:
§ Từ năm 1932 đến năm 1945-Hội hoạt động
dưới danh hiệu An Nam Phật học hội (Société d’ Étude et Exerice de la Réligion
Bouddhique de l’Annam-viết tắt là SEERBA).
§ Từ năm 1945 đến năm 1957-Đổi danh hiệu
là Việt Nam Phật học hội, rồi Hội Việt Nam Phật học.
§ Từ năm 1957 đến 1964-lại đổi là Hội Phật
giáo Việt Nam tại Trung Phần (bao gồm cả Trung nguyên và Cao nguyên Trung Phần
Việt Nam).
Đến đầu năm 1964, sau khi Bản Hiến chương của GHPGVNTN ra
đời thì nhiệm vụ của Hội cũng chấm dứt.
Xin lưu ý: Từ “An Nam” ở đây, không phải Hội đã sử dụng từ
An Nam trong tên gọi “An Nam Đô hộ phủ”, thời nội thuộc Trung Hoa lần thứ 3
(603-939), mà từ An Nam này, do trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta, đã
chia nước Việt Nam làm 3 miền và gọi miền Bắc là Tonkin hay Bắc Kỳ, miền Nam là
Cochinechine hay Nam Kỳ và miền Trung là An Nam hay Trung Kỳ (địa giới Trung Kỳ
lúc bấy giờ cũng gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận như ngày nay).
Bắc Kỳ và Nam Kỳ hoàn toàn nằm dưới sự cai trị của người
Pháp. Riêng ở Trung Kỳ thì có chính phủ Nam triều, nên thường xưng là An Nam
Trung Kỳ chính phủ nhưng cũng đặt dưới quyền cai trị của một chức quan gọi là
Trung Kỳ Khâm sứ Đại thần. Trụ sở đặt ở Tòa Khâm (nay là khuôn viên trường Đại
học Sư phạm Huế).
Do đó, cho nên Hội cũng phải dùng từ An Nam mà đặt tên là
An Nam Phật học hội.
Năm Bính Tý, 1936 khi Sơn môn Tăng già
Thừa Thiên quyết định giao chùa Từ Đàm cho An Nam Phật học hội phụng thờ và làm
cơ sở hoằng dương Chánh pháp, thì cũng bắt đầu từ đó, An Nam Phật học hội triển
khai và xúc tiến nhiều Phật sự trọng đại.
Trước hết là thành lập các Tỉnh hội Phật học trên khắp 17
tỉnh miền Trung, từ Thanh Hóa vào đến Bình Thuận. Hơn 30 Chi hội và ngót 1000
khuôn Tịnh độ lần lượt ra đời sau đó.
Có thể nói: An Nam Phật học hội là Hội Phật học có nhiều
đề án lớn lao và sâu rộng về mọi mặt. Các Hội Phật học khác như Lục Hoà hội, Nam
Kỳ nghiên cứu Phật học hội, Liên Đoàn học xã và Lưỡng Xuyên Phật học hội ở miền
Nam, đến Bắc kỳ Phật giáo Tổng hội ở miền Bắc, đều chưa thực hiện được những đề
án có tính cách quy mô, quảng đại và mới mẻ nầy.
Hàng ngàn khuôn Tịnh độ - hay Niệm Phật đường nầy, sau một
thời gian hoạt động, phần nhiều được điều chỉnh theo vị trí hành chánh của quốc
gia. Do đó, về sau đã trở thành các đơn vị Phật giáo cơ sở Xã, Phường. Tạo nên
một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh và chặt chẽ từ Trung ương xuống đến địa phương
như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Đến năm Mậu Dần, 1938, Hội quyết định dở bỏ ngôi chùa Từ
Đàm cũ, để xây dựng một ngôi chùa theo một mô hình mới lạ, không giống bất kỳ mô
hình nào trong lối kiến trúc cổ kính của chùa tháp Việt Nam, như chúng tôi đã
trình bày sơ lược ở phần II (xin xem Hoằng
Pháp số 13, tháng 4 năm Bính Tuất, 2006).
Tuy nhiên, mô hình nầy lại là “mô hình mẫu” cho việc kiến
trúc các Niệm Phật đường - hay các Khuôn hội trên khắp cả miền Nam Việt Nam
trong suốt gần nửa thế kỷ. Dù được xây dựng lớn hay nhỏ, hàng ngàn ngôi Niệm
Phật đường đều có lối kiến trúc hoàn toàn giống mô hình chùa Hội Quán An Nam
Phật học hội - hay chùa Từ Đàm.
Điều thực tế nầy, cho thấy tính cách hài
hòa, thuần nhất giữa tinh thần Phật giáo và Dân tộc, chỉ cần có sự triển khai
đúng đường lối là tất cả đều phát triển theo chiều hướng tốt đẹp và rộng khắp.
Xin nêu lên một con số cụ thể để mọi
người chúng ta có thể hình dung về mô hình chùa Hội Quán An Nam Phật học đã ảnh
hưởng đến kiến trúc các Niệm Phật đường lớn lao biết dường nào.
Theo thống kê năm Phật lịch 2544 (Canh Thìn, 2000), chỉ
riêng ở tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế hiện có đến 318 Niệm Phật đường đang
sinh hoạt (không tính các chùa, tu viện hay tự viện). Trong số nầy, có 24 ngôi
là có chư Tăng, hoặc chư Ni về trú trì. Số còn lại đều do Ban trị sự Khuôn - nay
gọi là Ban hộ tự đảm trách. Trong số nầy, có thể có vài ngôi Niệm Phật đường
ngoại lệ, vì những yếu tố khách quan khi xây dựng.
Như thế, nếu tính theo con số 318 hiện có như ở tỉnh Thừa
Thiên và thành phố Huế thì toàn miền Nam Việt Nam việc xây dựng Niệm Phật đường
theo mô hình chùa Hội Quán - Từ Đàm, chắc chắn không chỉ dừng lại ở con số ngàn!
Để đạt được thành quả lớn lao nầy, chư tôn Hòa thượng
chứng minh, chư vị lãnh đạo Hội, không chỉ có một chủ trương đúng đắn mà quý
Ngài đã không ngừng nỗ lực vận dụng nhiều khả năng khôn khéo khi điều hành Phật
sự.
Điều nầy đã được Ngài Chánh Hội trưởng Tổng Trị sự Hội
Việt Nam Phật học - Hòa thượng Thích Đôn Hậu-trong bài diễn
văn khai mạc Tổng hội đồng thường niên năm thứ 19 (Tân Mão, 1951) tại chùa Từ
Đàm, Huế đã xác định: “Chúng ta có thể nói rằng từ chỗ sơ cơ đến kỳ thuần thục, hầu hết hội
viên Hội Việt Nam Phật học đã tự biết xây dựng lấy một căn bản và riêng mình cố
gắng cung ứng sự hữu ích chung trong mọi giai tầng xã hội. Sự hữu ích chung cho
mọi người phát triển chừng nào thì cái vinh dự riêng của Hội lại càng được vang
dội thêm chừng ấy, cho nên không tiền tài, không uy thế mà một tiếng gọi phải
nghĩa của Hội là hàng triệu người nghe, một việc làm đúng Chánh pháp là hàng
triệu người làm, nên hiện nay Hội Việt Nam Phật học với cơ sở vững vàng, với một
tinh thần chắc chắn, với một lịch trình truyền bá Phật giáo vẻ vang, không những
trong toàn quốc Việt Nam đã chiếm một địa vị khả quan, mà đối với các nước ngoài
cũng đang được lưu ý”().
Sau khi xây dựng chùa Hội Quán, Hội còn có thêm sự góp sức
của các nhà chí sĩ, các bậc túc nho uyên thâm Phật pháp. Qua các câu đối mà quý
Ngài đã hiến cúng hoặc đề tặng và đã được bài trí hay khắc vào các trụ của tiền
đường, là sự dung hòa đầy thi vị giáo lý vi diệu của Phật giáo vào sức sống
thuần lương và nhu hòa của Dân tộc.
Ngày nay, nội dung của các câu đối nầy vẫn còn nguyên giá
trị không chỉ về mặt giáo pháp mà còn về cả mặt triết lý và nhân văn (xin xem
nguyên văn các câu đối ở phần phụ lục cuối bài).
***
Tổ chức Phật giáo thứ hai xuất phát tại
chùa Từ Đàm-hay thoát thai từ An Nam Phật học hội- là Gia đình Phật tử.
Gia đình Phật tử sinh ra trong thời kỳ
hỗn loạn và đau thương nhất của một giai đoạn lịch sử. Thế nhưng có một điều
đáng lưu ý là từ lúc sinh ra cho đến ngày nay, Gia đình Phật tử vẫn một mực giữ
gìn quy củ, mọi sinh hoạt đều đi đúng đường lối.
Điều nầy
chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy qua bài diễn văn do Anh Trưởng ban Hướng dẫn
Gia đình Phật tử Thừa Thiên lúc bấy giờ, đọc trong dịp lễ trao dấu hiệu cho
Thiếu niên, Thiếu nữ tại chùa Từ Đàm, Huế vào ngày mồng 8.12 năm Kỷ Sửu
(25.01.1950) trong đó, có đoạn Anh nói: “Gia đình chúng tôi thành lập năm 1940, do
sáng kiến của đạo hữu Tâm Minh, và sự hướng dẫn của Đoàn Phật học Đức dục. Gia
đình chúng tôi ra đời đã 10 năm. Mười năm đầy sóng gió của thời cuộc, đầy trong
phạm vi của nước nhà cũng như cả thế giới. Tuy thế Gia đình chúng tôi vẫn tồn
tại và tiếp tục công việc. Gia đình có thay đổi, nhưng không phải vì thời cuộc
mà vì những kinh nghiệm thu thập được trong 10 năm qua. Chúng tôi không dám tự
hào rằng Gia đình chúng tôi bây giờ đã hoàn toàn và không có điều gì cần phải
sửa đổi nữa, nhưng chúng tôi có thể tự bảo rằng nó đã hoàn hảo hơn trước nhiều
và nếu có thay đổi đi nữa, thì mục đích tốt đẹp đầu tiên của nó cũng vẫn được
đeo đuổi mãi mãi”
Như thế, trong quá trình hình thành và sinh hoạt, Gia đình
Phật tử đã trải qua nhiều chặng đường vẻ vang, hưng thịnh nhưng cũng đầy dẫy
chướng ngại, gian lao.
Do đó, có thể khẳng định rằng: Gia đình
Phật tử là một tổ chức giáo dục Thanh, Thiếu, Đồng niên có đường lối đúng đắn,
có lý tưởng thiêng liêng, có tổ chức quy mô và có phương pháp khoa học. Gia đình
Phật tử hình thành không phải do sự ngẫu nhiên, mà Gia đình Phật tử ra đời có
chủ trương, đường lối rõ ràng của Hội. Gia đình Phật tử ra đời nhằm đáp ứng
những đòi hỏi cấp bách của một giai đoạn lịch sử đầy khủng hoảng và tha hóa mà
tầng lớp Thanh thiếu niên phải gánh chịu trước sự xâm lấn của nền văn hóa ngoại
lai.
Sau hơn 60 năm xây dựng và phát triển,
tổ chức Gia đình Phật tử đã thu thập được nhiều kinh nghiệm thực tế. Về điều
hành, tuy có thay đổi đôi chút cho phù hợp với trào lưu tiến hóa, nhưng cương
lĩnh vẫn không hề thay đổi, hay đi ngược lại những tiêu chuẩn mẫu mực đã đề ra
từ ban đầu.
Những tiêu chuẩn mẫu mực ấy, đã được Anh
Trưởng ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Thừa Thiên, trình bày rõ ràng trong bài
diễn văn khai mạc cuộc triển lãm của Gia đình Phật tử tại trường Bồ đề, Huế ngày
10.05.1952, gồm có 3 điểm chính như sau:
“ - Gia đình Phật tử
không phải là một tổ chức chính trị.
- Gia đình Phật tử nhằm mục
đích giáo dục con người toàn diện: Thân–Tâm–Trí. Hòa đồng cá nhân với cộng đồng
xã hội, thực tế với lý tưởng.
- Gia đình Phật tử góp phần xây dựng nền móng
cho tương lai Phật giáo và Dân tộc”()
Ngoài ra, nhằm đánh đổ những ngộ nhận hoặc hiểu lầm về tổ
chức Gia đình Phật tử, Anh Trưởng ban lúc bấy giờ cũng đã xác định:
“- Gia đình Phật tử không phải
là một nơi tập luyện cho các em tụng kinh gõ mõ cho giỏi để đi cầu siêu, cầu an
hay cầm tràng phang đi đưa đám ma.
- Gia đình Phật tử không phải
là nơi khuyến khích các em xao lãng bài vở ở trường, để tổ chức những trò chơi
vô nghĩa, những ca xướng vô ích.
- Gia đình Phật tử không phải là một tổ chức
thanh niên có mục đích chính trị, hay một tổ chức Hướng đạo trá hình. Gia đình
Phật tử chỉ mượn một ít phương pháp của thanh niên hay Hướng đạo mà thôi. Còn
tinh thần vẫn là tinh thần Phật giáo, nghĩa là: Từ bi, Trí tuệ, Tinh tấn, Hoan
hỷ, và Thanh tịnh” (6)
Trong sứ mệnh được giao phó, chắc chắn
Gia đình Phật tử không có tham vọng cải tạo xã hội, mà chỉ mong “góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo” đúng như mục
đích của Gia đình Phật tử đã đề ra. Có lẽ nhờ vậy mà Gia đình Phật tử đã làm nên
được nhiều điều lợi ích không riêng cho tự thân mà còn cho cả cộng đồng xã hội.
Có một thực tế mà mọi người đều công
nhận là từ khi các tổ chức Phật giáo khác như Đoàn Thanh niên Phật tử, Sinh viên
Phật tử, Học sinh Phật tử, Hướng đạo Phật tử… thoát thai từ trong lòng đại cuộc
đấu tranh gian khổ năm 1963, tại chùa Từ Đàm, Huế hay một vài nơi khác, nhưng
mới sinh hoạt được vài ba năm thì tất cả đã tàn lụn với thời gian.
Phải chăng, do từ phong trào đấu tranh mà phát khởi, nên
các tổ chức Phật giáo nầy, đã quá nặng về tranh đấu mà lại non yếu về tu học nên
chẳng có chút cơ sở nào để tồn tại. Trong khi ấy, Gia đình Phật tử cũng dấn thân
vào đại cuộc đấu tranh, nhưng không có biểu hiện gì về sự suy thoái, trái lại
còn có cơ hội để thăng tiến hơn lên.
Có thể nói, sự dấn thân của Gia đình Phật tử vào đại cuộc
đấu tranh đã tạo được niềm tin tuyệt đối trong lòng chư Tôn giáo phẩm lãnh đạo,
cùng với toàn thể chư Tăng Ni Việt Nam vào tổ chức Gia đình Phật tử. Quần chúng
và các giới Phật tử khác cũng đã mục kích sự hy sinh, tận tuỵ và tấm lòng trung
kiên của Gia đình Phật tử đối với Đạo pháp và Dân tộc. Tự thân Gia đình Phật tử
chắc cũng thấy được rằng mình đã sống xứng đáng với lý tưởng, thấy không phải để
tự hào mà để tiếp tục sống xứng đáng nhiều hơn nữa.
Nhận xét
về Gia đình Phật tử trong giai đoạn đấu tranh nầy, Hòa thượng Nhật Quang Trí
Quang, người trực tiếp lãnh đạo Giáo hội, lãnh đạo các phong trào và tổ chức
Phật giáo tại chùa Từ Đàm, lại vừa là chứng nhân của lịch sử. Hòa thượng đã ưu
ái nói về Gia đình Phật tử như sau: “Trong cuộc vận động
của Phật giáo Việt Nam, người được bí mật viết và mang biểu ngữ mở đầu cho phong
trào là Gia đình Phật tử. Tám vị Thánh tử cho Đạo pháp tại đài phát thanh Huế,
làm cho phong trào cao hẳn lên là Gia đình Phật tử. Những người can đảm chấp tay
ngồi giữa đường dầu, dưới nắng hè, nhận lấy sự khủng bố đầu tiên có kế hoạch và
vô cùng dữ dội, kết quả là với hàng trăm lựu đạn ác-xít, họ phải điên loạn và
thương tích thê thảm, ngay lúc đó và kéo dài đến ngày nay và chưa biết đến bao
giờ, cũng là Gia đình Phật tử.
Trong tinh thần thuần túy về
Đạo pháp, Gia đình Phật tử đã không có một chút hổ thẹn nào khi nhìn vào các
giới Phật tử đồng hành. Khi nhìn vào liệt vị “thiêu thân vì Chánh pháp”, Gia
đình Phật tử cũng có thể có được sự không hổ thẹn đó.
Điều đáng nói hơn nữa, sau một
Huynh trưởng bị giết tại Kim Long, Huế, mở màn cho chính sách kỳ thị Phật giáo,
nạn nhân thường trực và đáng lo nhất của chính sách nầy là Gia đình Phật tử.
Tất cả các giới
Phật tử khác, khi nhìn vào Gia đình Phật tử, nghĩa là nhìn vào con em và bạn của
mình, thực đã có một sự tự hào và tin tưởng”
Qua những lời nhận xét ưu ái của Hòa
thượng như thế, quả là một điều mà Gia đình Phật tử không thể không lấy làm sung
sướng và tự hào, nhưng còn có một điều cũng đáng tự hào thêm nữa là tổ chức Gia
đình Phật tử đã được sự tin tưởng của chư Tôn giáo phẩm lãnh đạo, và chính nhờ
sự tin tưởng nầy mà Gia đình Phật tử mới có cơ duyên để xây dựng và phát triển
đến mức khả quan như ngày hôm nay.
Để mọi người có một khái niệm về sự lớn
mạnh của tổ chức Gia đình Phật tử, chúng tôi xin nêu lên một vài con số cụ thể
như sau: Theo thống kê và qua tìm kiếm tư liệu của chúng tôi thì tính đến năm Ất
Dậu, 2005. Chỉ riêng ở tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế đã có đến 242 đơn vị Gia
đình Phật tử đang sinh hoạt (chúng tôi chưa có được con số thống kê chính xác và
đầy đủ cả toàn quốc, nhưng nếu có chắc cũng phải là con số ngàn).
Sự phát triển của tổ chức Gia đình Phật
tử không chỉ dừng lại ở trong nước, mà hiện nay (2005) đã lan ra khắp cả 4 Châu
lục trên thế giới. Xin lược ghi như sau:
- Châu Âu: hiện có 9 quốc gia là Pháp,
Đức, Na Uy, Thuỵ Sĩ, Đan Mạch, Phần Lan, Bỉ, Hòa Lan và Anh với 33 đơn vị Gia
đình Phật tử đang sinh hoạt.
- Châu Mỹ: hiện có 2 nước là Canada và
Hoa Kỳ (chúng tôi chưa có con số thống kê đơn vị Gia đình tại hai quốc gia châu
Mỹ nầy).
- Châu Úc: hiện có 8 tiểu bang với 10
đơn vị Gia đình Phật tử đang sinh hoạt.
- Châu Á: ngoài nước Việt Nam ra, hiện
trong trại tỵ nạn ở Hồng Kông và ở 4 quốc gia là Indonesia, Malaysia,
Philippines và Thailand đều có các đơn vị Gia đình Phật tử đang sinh hoạt.(8)
Trải qua một quãng thời gian hơn 60 năm
kể từ khi ra đời cho đến nay, mà sự phát triển còn vượt lên với tốc độ như thế
đủ để thấy được tính chất hài hòa, tốt đẹp và tinh thần trung kiên, bền bỉ của
tổ chức Gia đình Phật tử như thế nào rồi!
Tóm lại, khi xây dựng mô hình Gia đình
Phật tử, An Nam Phật học hội đã có tầm nhìn xuyên suốt cả thời gian và cả không
gian.
Từ một Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục
chỉ có 15 người và 4 Gia đình được hình thành từ các Ban Đồng ấu, tổng số trên
dưới cũng chỉ có 70 người. Thế mà đến ngày hôm nay, tổ chức Gia đình Phật tử đã
phát triển mạnh mẽ lên cả ngàn đơn vị, sự sinh hoạt không chỉ ở trong nước mà
còn lan rộng ra khắp cả 4 Châu lục như chúng tôi đã nêu trên.
Điều nầy, có thể khẳng định rằng: An Nam
Phật học hội đã thành công rất lớn khi áp dụng chủ trương đào tạo thế hệ Thanh,
Thiếu, Đồng niên theo tinh thần Phật giáo qua mô hình Gia đình Phật tử.
Một mô hình mà suốt ba phần tư thế kỷ,
vẫn chưa có động cơ hay áp lực nào có thể chi phối hoặc làm xê dịch đựơc vị trí
ban đầu.
Thật là một mô hình siêu đẳng, đã được
kiến tạo từ một địa danh rạng ngời trong lịch sử: CHÙA TỪ ĐÀM.
Tổ chức Phật giáo thứ ba
xuất phát tại chùa Từ Đàm là
TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
A. Cuộc "Hội nghị Phật giáo Toàn quốc Việt Nam" và sự ra
đời của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam.
Suốt một thời gian dài hơn thế kỷ, Phật giáo Việt Nam trầm
mình trong tình trạng suy vi, đình đốn. Đến đầu thế kỷ XX, mới có cơ duyên phục
hưng và phát triển mạnh mẽ.
Công cuộc chấn hưng vĩ đại, diễn ra rầm rộ trên phạm vi cả
nước, do chư Tổ, chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, tận tâm, tận lực khởi xướng,
vận động, đã làm nao nức muôn triệu trái tim của Tăng Ni và đồng bào Phật tử.
Phật giáo Việt Nam sau bao năm trì trệ, tha hóa, nay đã trổi dậy và trở về với
vị trí vẻ vang của thời hưng thịnh trong lòng Dân tộc.
Dù đã đạt được thành quả vô cùng lớn lao ấy, nhưng chư Tổ,
chư Tôn thiền đức vẫn không ngừng nỗ lực nhằm xúc tiến và cải tổ nền Phật giáo
Việt Nam, trên tinh thần thống nhất Phật giáo cả nước về mọi lãnh vực.
Trong bối cảnh của cuộc "Hội nghị Phật giáo toàn quốc Việt
Nam" năm Tân Mão, 1951 tại chùa Từ Đàm, Huế không chỉ là một sự kiện lịch sử
trọng đại của Phật giáo, mà còn là sự thể hiện nguyện vọng tha thiết của toàn
thể Tăng Ni và đồng bào Phật tử của ba miền Bắc Trung Nam Việt Nam kết hợp lại.
Những nguyện vọng tha thiết ấy, đã thể hiện rõ ràng và
tích cực qua quan điểm và lập trường đúng đắn của các hội Phật học.
Cao quý hơn nữa, là sự quyết tâm và nỗ lực không ngừng của
chư Tổ, chư Tôn Thiền đức ở khắp cả ba miền, đã tích cực vận động cổ xúy, khai
thị đường lối trong một thời gian dài, nên công cuộc thống nhất mới có cơ duyên
thành tựu tốt đẹp.
Tại miền Bắc:
Vào ngày
23.03.1950, một sự kiện lịch sử diễn ra khá thuận lợi, đã tạo đà cho công cuộc
thống nhất. Đó là việc Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt, công cử Thượng tọa Thanh
Lai Tố Liên, Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt, kiêm Hội phó Hội Việt Nam Phật
giáo Bắc Việt (9), tham dự Hội nghị Hội Phật giáo thế giới (World Fellowship of Buddhists -
viết tắt W.F.B) tại Colombo, thủ đô nước Tích Lan (Ceylon), nay là nước Cộng Hòa
Srilanka, vào ngày 25.05.1950.
Tại Hội nghị Phật giáo Thế giới này, Thượng tọa Thanh Lai
Tố Liên được bầu là đại biểu chính thức. Thượng tọa đã nhân danh Đại biểu Phật
giáo Việt Nam, bỏ phiếu biểu quyết các vấn đề trọng đại của Hội nghị. Trong đó
có vấn đề lá cờ Ngũ sắc (Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng, Da Cam) làm cờ Phật giáo Thế
giới.
Tại miền Trung:
Theo
nhận định của Hòa thượng Nhật Quang Trí Quang lúc bấy giờ thì Hội nghị Phật giáo
toàn quốc Việt Nam, có được là do: "Có một phần kích thích tố Phật giáo đồ Thế
giới Hữu nghị thành lập tại Tích Lan" (10)
Hòa
thượng còn cho biết thêm rằng: "Cuối năm ấy (1950) bắt đầu cuộc vận động thống
nhất Phật giáo". (11)
Có lẽ, do đó mà trong Nguyệt san Viên Âm - cơ quan Hoằng
pháp của Hội Việt Nam Phật học lúc bấy giờ, số 99 phát hành ngày 16.12.1950, đã
có bài đề cập đến công cuộc Thống nhất Phật giáo với ý hướng mạnh mẽ, nghiêm túc
như sau: "Phải bước tới Phật giáo toàn quốc - Thống nhất Phật giáo - đây là
nguyện vọng từ lâu, nguyện vọng duy nhất của toàn thể Phật tử, xuất gia cũng như
tại gia."
Tại miền Nam:
Hội Phật học Nam Việt, được chính thức thành lập ngày
19.09.1950. Trong bản Tuyên cáo của Hội, có đoạn đã bày tỏ quan điểm một cách
tích cực và đầy quyết tâm: "Đề xướng việc thành lập Hội Phật học nầy, chúng tôi
có thâm ý là sẽ đi đến chỗ Bắc Trung Nam bắt tay nhau kết thành một khối Phật tử
quảng đại và thống nhất trên nguyên tắc và hành động..."
Như thế, thời cơ Thống nhất Phật giáo ở giai đoạn nầy đã
chín muồi trong điều kiện thuận lợi.
Thông qua lời hiệu triệu của chư vị Trưởng lão Hòa thượng
cả ba miền Bắc Trung Nam Việt Nam, công cuộc Thống nhất Phật giáo đã bắt đầu
khởi sự.
"Hội nghị Phật giáo toàn quốc Việt Nam" được tổ chức trọng
thể từ ngày 06 đến 09.05. 1951 (Mồng 01 đến 04.04. Tân Mão) tại chùa Từ Đàm,
Huế.
Tham dự Hội nghị có 51 Đại biểu chính thức, đại diện cho
ba Tập đoàn Tăng già và ba Tập đoàn Cư sĩ của ba miền Bắc Trung Nam Việt Nam.
Mỗi miền gồm có một phái đoàn, đại diện cho Tăng Ni và
Phật tử tham dự. Mỗi đoàn có một vị trưởng đoàn và một vị phát ngôn viên.
MIỀN BẮC:
- Hòa thượng Thích Mật Ứng làm Trưởng đoàn.
- Thượng tọa Thích Trí Hải làm Phát ngôn viên.
MIỀN TRUNG:
- Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Trưởng đoàn.
- Thượng tọa Thích Trí Quang làm Phát ngôn viên.
MIỀN NAM:
- Hòa thượng Thích Đạt Thanh làm Trưởng đoàn.
- Thượng tọa Thích Thiện Hòa làm Phát ngôn viên.
Riêng tại tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế lúc bấy giờ, có
hơn 300 Đại biểu dự thính, gồm có các vị trong Sơn môn Tăng già Thừa Thiên và
một số Hội viên của các Khuôn hội trong thị xã Huế.
Mục tiêu quan trọng của Hội nghị là thảo luận và quyết
nghị các vấn đề:
§ Thống nhất các Hội cư sĩ
§ Cải cách nội bộ Phật giáo
§ Quy định Lễ
nghi
§ Phổ cập giáo lý
trong dân chúng, chuyên tâm đào tạo thế hệ Phật tử trẻ có học vấn uyên bác.
§ Phê chuẩn việc
Thượng tọa Thanh Lai Tố Liên, Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt, Hội Phó Hội Việt
Nam Phật giáo Bắc Việt, đã Đại diện Phật giáo Việt Nam, ký tên gia nhập Hội Phật
giáo Thế giới cùng các vấn đề liên quan khác.
Hội
nghị Phật giáo toàn quốc Việt Nam, trên cương lĩnh thống nhất cả nước, tuy đã
được kết tụ và ấp ủ từ bao nhiêu năm, với nguyện vọng tha thiết của toàn thể chư
vị Tăng già và Cư sĩ, cũng như của đông đảo đồng bào Phật tử Việt Nam, đến hôm
nay đã thành hiện thực.
Trong bản Tuyên ngôn ngày
mồng 08 tháng 04 Phật lịch 2514 (12),
(ngày 13.05.1951) tại Huế, Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đã long trọng xác định: "Bánh xe Phật pháp xoay vần trên quốc độ Việt Nam đến nay đã gần
hai mươi thế kỷ. Nhơn tâm, phong tục, văn hóa, chính trị trong nước đều đã chịu
ảnh hưởng rất sâu xa của Phật giáo. Tăng đồ thiện tín từ Bắc vào Nam một lòng
quy ngưỡng Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, sống trong tinh thần Từ Bi Hỷ Xả và luôn
lo toan xây dựng hòa bình. Nhưng sự đời không hòa nhịp với lòng mong mỏi, hoàn
cảnh trước đây đã chia ranh giới ba miền, nên Phật sự cũng phải tùy duyên, bất
biến. Sự tướng mỗi miền mỗi khác, làm cho mắt bàng quan xem như có điều chia rẽ.
Nay cơ duyên thuận tiện, Phật giáo Việt Nam tất
phải được Thống nhất..."
Qua
Hội nghị này, Phật giáo Việt Nam đã thật sự Thống nhất. Truyền thống thiêng
liêng từ chư Lịch đại Tổ sư trong suốt 2000 năm huy hoàng của lịch sử đã được
thế hệ hôm nay kế thừa.
Sự
thành công của Hội nghị là niềm hân hoan, vui sướng không chỉ hiện rõ trên khuôn
mặt mọi người, mọi giới lúc bấy giờ mà còn là ấn tượng lịch sử sâu sắc đến các
thế hệ về sau.
Ngày
nay, không gian của ngày trọng đại ấy đã đi vào quá khứ, nhưng dư âm tiếng hát
"Phật giáo Việt Nam Thống nhất" vẫn còn thiết tha vang vọng:
"Phật giáo Việt Nam thống nhất Bắc Nam Trung từ nay,
Một lòng chúng ta tiến lên vì Đạo Thiêng,
Nào cùng vui trong Ánh Đạo Vàng rạng ngời bốn
phương,
Vang ca đón chào Phật giáo Việt Nam."
Và
chắc chắn lời ca thành kính và trọn niềm tin Thống nhất ấy sẽ còn bất tận với
thời gian.
B. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Sự ra
đời của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam là thể hiện toàn vẹn nguyện vọng tha thiết
của toàn thể Tăng Ni và đồng bào Phật tử Việt Nam, mà sự thành công kỳ diệu của
"Hội nghị Phật giáo toàn quốc Việt Nam" đã đem lại.
Mục
tiêu của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam được khẳng định trong bản Tuyên ngôn ngày
Mồng 08 tháng 04 Phật lịch 2514 (ngày 13.05.1951) rõ ràng như sau: "Sau 04 ngày
thảo luận ráo riết, trong một bầu không khí thân mật và hiểu biết, toàn thể Hội
nghị đã quyết định Thống nhất Phật giáo toàn quốc Việt Nam; lấy ngày Phật đản
làm ngày kỷ niệm thành lập TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM; và đã bầu một Ban Quản
trị Trung ương; trụ sở đặt tại Thuận Hóa (Huế) để thực hiện nhanh chóng chương
trình Thống nhất mà Hội nghị đã dự thảo..."
Hội
nghị cũng cung thỉnh Hội đồng chứng minh tối cao, gồm có quý Ngài:
BẮC VIỆT:
Hòa thượng Thích Mật Ứng
Hòa thượng Thích Tuệ Tạng
TRUNG VIỆT:
Hòa thượng Thích Giác
Nhiên
Hòa thượng Thích Giác- Nguyên
NAM VIỆT:
Hòa thượng Thích Đạt Thanh
Hòa thượng Thích Tuệ Chơn
Tổng
Hội Phật giáo Việt Nam ra đời hoạt động rất tích cực trên mọi lãnh vực, nên đã
đem lại cho Phật giáo Việt Nam nhiều thành quả vô cùng lớn lao.
Tuy
nhiên, trong khi hoạt động, Tổng Hội cũng đã gặp nhiều khó khăn, bức bách từ mọi
thế lực.
Hòa thượng Nhật Quang Trí
Quang, với tư cách là Phát ngôn viên chính thức của hai Tập đoàn Phật giáo miền
Trung tham dự Hội nghị, Hòa thượng cho biết: "Tổng Hội nầy, gặp đủ thứ ma
chướng, trong nhà có ba Tập đoàn thiếu hoan hỷ, ở ngoài thì chính quyền Trần Văn
Hữu làm khó, chính quyền Nguyễn Văn Tâm sau đó càng làm khó hơn. Bảng hiệu Văn
phòng (tại chùa Từ Đàm, Huế) bị hạ. Ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết bị buộc nộp
khuôn dấu. Nhân viên Ban Quản trị Trung ương người lánh nạn, kẻ đi tù. Tôi mạo
hiểm nắm việc. Sau một năm xuôi ngược, đến năm Quý Tỵ (1953), Tổng Hội được thừa
nhận. Và chính mười năm sau Tổng Hội là chủ chốt trong pháp nạn năm Quý Mão
(1963)..." (13)
Dù bị
bức hại triền miên như thế, nhưng Tổng Hội Phật giáo Việt Nam vẫn không ngừng nỗ
lực hoạt động.
Ngày
01.04.1956 (ngày 21.02 Bính Thân), Đại hội Tổng Hội Phật giáo Việt Nam lần thứ
hai, tổ chức tại chùa Phước Hòa (trụ sở của Hội Phật học Nam Việt). Đại hội lại
suy tôn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ. Hòa thượng Thích Huệ Quang làm
Đệ nhất Phó Hội chủ, Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định làm Đệ nhị Phó Hội chủ, Cư sĩ
Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm Tổng Thư ký. Trụ sở của Tổng Hội lại di chuyển từ
chùa Từ Đàm, Huế vào đặt tại chùa Ấn Quang, Saigon. Một thời gian lại dời về
chùa Xá Lợi.
Đến
tháng Tư năm Kỷ Hợi, 1959, Tổng Hội tổ chức Đại hội lần thứ ba tại chùa Xá Lợi.
Ban Quản trị vẫn giữ nhiệm vụ như cũ, trừ Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định xin từ chức.
Đại hội đã công cử Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, thay chức vụ nầy.
Suốt
13 năm-từ năm 1951 đến năm 1964-ba nhiệm kỳ hoạt động liên tiếp, đến năm Giáp
Thìn, 1964 sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời, thì Tổng Hội
bàn giao nhiệm vụ lại cho Viện Hóa Đạo, rồi giải thể.
Tóm
lại, thắng lợi rực rỡ của Hội nghị Phật giáo toàn quốc Việt Nam là sự kết tinh
trí tuệ và niềm thao thức của chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni
Việt Nam, trước tiền đồ hưng long của Đạo pháp. Thắng lợi của Hội nghị đã đáp
ứng được nguyện vọng tha thiết của toàn thể Phật giáo đồ cả ba miền Bắc Trung
Nam suốt bao nhiêu năm chờ đợi.
Sự ra
đời của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam là đã kiến tạo được một nền móng vững chắc
cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, là cơ hội quý báu để xây dựng, phát triển và mở
rộng con đường thống nhất Phật giáo xuyên suốt cả ba miền Bắc Trung Nam Việt Nam
trên một quy trình sáng tạo và đổi mới, một tiêu chí bất khả phân.
Thành
tựu sáng ngời của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam là nguồn mạng mạch được tiếp nối
bằng một Hội nghị Phật giáo Thống nhất đầy sinh lực và niềm tin của cả Dân tộc
và Phật giáo vào năm 1964.
Tổng
Hội Phật giáo Việt Nam là đóa hoa Chánh pháp thắm tươi, đã tỏa ngát hương thơm
giữa lòng Dân tộc và nhân loại. Đóa hoa thắm tươi ấy cũng đã bừng nở từ một danh
lam rạng ngời trong lịch sử: CHÙA TỪ ĐÀM.
-]-
Tổ
chức Phật giáo thứ tư, xuất phát tại chùa Từ Đàm là hệ thống giáo dục trường Bồ
đề.
Từ khi
ngôi trường Bồ đề đầu tiên được xây dựng tại Huế, năm 1951, liên tiếp những năm
sau đó, hệ thống trường Bồ đề lần lược được thiết lập và khai giảng khắp 17 tỉnh
miền Trung, rồi lan rộng vào miền Nam Việt Nam.
Theo
thống kê của Tổng Vụ Giáo dục, đến cuối năm 1973, hệ thống trường Bồ đề trên
toàn miền Nam đã có 163 trường từ cấp tiểu học lên đến trung học Đệ nhị cấp (tức
cấp Phổ thông ngày nay), không tính các trường Mẫu giáo các trường Sơ cấp (từ
lớp Một đến lớp Ba) được các chùa, các Tự viện mở ra để giúp đỡ cho một số học
sinh bị thất học tại các địa phương lân cận.
Cơ sở
vật chất của các trường Bồ đề được xây dựng quy mô, rộng lớn. Có nhiều ngôi
trường sĩ số học sinh vượt trên con số 1, 2 ngàn.
Chức
vị Hiệu trưởng các trường Bồ đề phần nhiều đều do quý bậc Tăng già có học vị
cao, có năng lực điều hành đảm nhận.
Chương
trình giảng dạy tại các trường Bồ đề đều áp dụng và theo sát chương trình của Bộ
Giáo dục đương thời. Chứng chỉ và học bạ của các trường Bồ đề cấp phát cho học
sinh sau khi mãn khóa, đều tương đương với các trường công lập.
Ngoài
chương trình của Bộ Giáo dục ra, các trường Bồ đề còn áp dụng chương trình giảng
dạy môn Phật pháp cho học sinh. Đây là một môn học rất mới mẻ, nên được các
trường Bồ đề đặc biệt quan tâm. Môn Phật pháp được quy định là một môn học chính
thức trong chương trình, thường được giảng dạy trực tiếp từ quý bậc Tăng già.
Điểm và hệ số của môn nầy, được cộng chung điểm với các môn khác để tính điểm
trung bình.
Từ năm
1951 đến năm 1963, các trường Bồ đề tại miền Trung đều do Tổng Trị sự Hội Việt
Nam Phật học chỉ đạo, các tỉnh Giáo hội trực tiếp điều hành. Ở miền Nam thì do
Hội Phật học Nam Việt trực tiếp điều hành.
Đến
đầu năm 1964, sau khi bản Hiến chương của GHPGVNTN ra đời, thì hệ thống trường
Bồ đề trên toàn miền Nam Việt Nam đều đặt dưới sự chỉ đạo và điều hành trực tiếp
của Tổng Vụ Giáo dục thuộc Viện Hóa Đạo.
Phải chăng, hệ thống giáo dục trường Bồ đề đã kiến tạo nên
một nền móng vững chắc và đã đạt đến đỉnh cao trong quyết định thành lập Viện
Cao Đẳng Phật Học tại Saigon vào ngày 13.03.1964, để sau đó trở thành Viện Đại
Học Vạn Hạnh lừng danh của Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.
Qua
đó, có thể thấy: Hệ thống trường Bồ đề được thiết lập trên toàn miền Nam Việt
Nam là một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh về mọi mặt, xuyên suốt từ cấp Mẫu giáo
lên đến bậc Đại học. Một hệ thống giáo dục duy nhất, độc đáo, chỉ ở miền Nam
Việt Nam mới có. Có thể nói, chưa có quốc gia Phật giáo nào thiết lập được một
hệ thống giáo dục bằng trường Bồ đề như thế nầy.
Suốt
24 năm xây dựng và phát triển - từ năm 1951 đến năm 1975 - Hệ thống trường Bồ đề
đã có nhiều cơ sở vững chắc, một đường hướng giáo dục đúng đắn, thiết thực, đã
đáp ứng kịp thời nhu cầu học hỏi Giáo lý của đông đảo tầng lớp Thanh, Thiếu niên
Việt Nam lúc bấy giờ.
Có thể
khẳng định rằng: Đây là một thành quả vô cùng lớn lao mà Hội Việt Nam Phật học
đã đạt được khi chủ trương giáo dục thế hệ Thanh, Thiếu niên bằng hệ thống
trường Bồ đề. Một điểm son chói lọi trong quyết định năm 1951 của Hội - hay của
chùa Từ Đàm.
Sau ngày 30.04.1975, hệ thống trường Bồ đề trên toàn miền Nam
Việt Nam đều tan rã. Một số trường được xây dựng biệt lập, không nằm trong khuôn
viên chùa hay Tự viện như trường Bồ Đề Thành Nội, Bồ Đề Hữu Ngạn, Bồ Đề Tây Lộc
ở Huế, Bồ Đề Saigon... thì chính quyền đã trưng dụng vào hệ thống Giáo dục quốc
gia. Số còn lại, nằm trong khuôn viên chùa hay Tự viện phần nhiều đều bị hoang
phế đến đổ nát rồi phải dỡ bỏ, như trường Bồ Đề Hàm Long trong khuôn viên chùa
Báo Quốc, Huế... (Có một điều lạ, xin ghi thêm ở đây là, trong bản tin lúc 19
giờ 25 ngày 17.02.2006, của Đài truyền hình Việt Nam, phát sóng trên VTV3, cho
biết ở xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn có một ngôi trường
đang hoạt động mang tên là Trường tiểu học Bồ đề 2?)
Ngày nay, hệ thống trường Bồ đề của một thời hưng thịnh chỉ
còn vang vọng xa xôi trong miền ký ức, nhưng chắc chắn trên trang lịch sử vàng
son của Phật giáo Việt Nam đã ghi đậm nét một đề án giáo dục thành công xuất sắc
của Hội Việt Nam Phật học:
Hệ thống trường Bồ đề.
-]-
Tổ chức
Phật giáo tiêu biểu cuối cùng xuất phát tại chùa Từ Đàm mà chúng tôi đề cập
trong bài viết này là: Phong trào tranh đấu cho tự do tín ngưỡng và bình đẳng
tôn giáo của Phật giáo đồ Việt Nam, năm Quý Mão, 1963.
Để có
ý niệm rõ ràng hơn về nguyên nhân, mở đầu cuộc tranh đấu này, xin nghe qua lời
của Hòa thượng Trí Quang, người trực tiếp phát động và lãnh đạo phong trào, Hòa
thượng nói: "Ông Ngô Đình Diệm muốn Thiên Chúa giáo của ông độc tôn, muốn anh
của ông là Tổng Giám mục Ngô Đình Thục làm Hồng y Giáo chủ, nên ông kỳ thị đàn
áp Phật giáo.
Ấp
chiến lược chỗ thì rào chùa vào trong để hạn chế đi lại, chỗ thì rào chùa ra
ngoài để tự do bắn phá. Khu trù mật thì bắt cán bộ Phật giáo phá nhà bỏ cửa mà
đi. Quân dịch thì bắt Tăng sĩ Phật giáo làm những chức vụ nguy hiểm và vô quyền,
để tu sĩ Thiên Chúa giáo nắm quyền chỉ huy từ hạ tầng. Giải thưởng văn học thì
thưởng cho cuốn văn chương bình dân nội dung cốt chống Phật giáo. Chương trình
tú tài C thì đổi toàn lý thuyết thượng đế và nhân vị, lại thêm một bằng ban D
với cổ ngữ La Tinh.
Sát
hại Phật tử thì có tập thể lên đến 36 người ở một nơi, cùng một lúc không còn lẻ
tẻ nữa. Cả gan hủy bỏ ngày Phật đản trong danh sách ngày lễ được nghỉ của công
tư chức, và danh sách này bao giờ Thiên Chúa giáo cũng gấp đôi cả ngày và giờ
nghỉ.
Đạo dụ
số 10, được thêm dụ bổ túc, tăng cường thêm sự hạ giá và kềm chế đối với Phật
giáo. Rồi sửa điện Thái Hòa của Hoàng thành Huế, có lưỡng long mà không có nhật
nguyệt, để phòng cắm thánh giá. Mọi việc xuôi thì tòa Hồng y đặt ở đó.
Cái
làm cho không xuôi là cờ Phật giáo.
Vatican
điều tra thấy Huế, địa phận của Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, sao mà Phật giáo
nhiều quá. Phật đản thì cờ Phật giáo đầy hai bên đường từ Huế ra La Vang. Kiệu
đức Mẹ thì từ La Vang vào Huế không có cờ của Vatican. Ông Ngô Đình Diệm bèn bắt
công chức Huế kê tên cả nhà để đưa cho anh mình báo cáo là giáo dân, và Phật đản
2507 (1963) thì triệt hạ cờ Phật giáo để Vatican thấy dân Huế theo anh mình rồi.
Phật giáo thì từ thời Pháp
thuộc cho đến lúc đó chồng chất biết bao nhiêu chịu đựng. Nay thì không chịu
nữa..." (14)
Sự
việc như thế, đã buộc phong trào đấu tranh của Phật giáo đồ phát khởi.
Sau
đêm Phật đản, PL. 2507 (1963), kinh hoàng đẫm máu tại đài phát thanh Huế, Năm
Cấp Trị sự lãnh đạo Phật giáo, bằng đường lối ôn hòa, nhưng vô cùng cương quyết
đã long trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới, qua bản Tuyên ngôn như sau:
"Đã
nhiều ngàn năm, Tăng và tín đồ Phật giáo thế giới, cũng như trong nước đã trung
thành với tôn chỉ: Từ bi, vị tha và chân thật của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Do đó,
Phật giáo đến đâu, đều đem lại một không khí an lành ở đó. Điều ấy lịch sử đã
chứng minh một cách rõ ràng. Vì vậy, từ nhiều năm nay, Phật giáo đồ đã bị đàn
áp, khủng bố khắp nơi, chúng tôi vẫn nhẫn nhục, đương nhiên không phải yếu hèn,
mà vì ý thức được nỗi khổ đau, tang tóc của hoàn cảnh Dân tộc ta hiện tại. Nhưng
đau đớn thay, một số đã lợi dụng quyền hành gây ra không biết bao nhiêu tang
tóc, đối với Tăng Ni và Phật giáo đồ khắp trong nước, đối xử một cách bất công
với một tôn giáo có hàng nghìn năm lịch sử của Dân tộc. Từ hành động này đến
manh tâm khác, thậm chí chà đạp lên quyền lợi thiêng liêng nhất của Phật giáo
đồ: Cờ Phật giáo Quốc tế bị triệt hạ.
Quyết
định này đã trái với Hiến pháp và ngang nhiên vi phạm quyền tự do tín ngưỡng.
Trước những hành động bất công đó, Tăng và tín đồ trong nước chúng tôi bắt buộc
phải đứng lên tranh đấu cho lý tưởng của mình.
Sự
kiện xảy ra ba ngày nay, chính phản ảnh tinh thần đó. Máu đã chảy, nhân mạng đã
bị hy sinh. Một lần nữa, chúng tôi cương quyết đệ đạt nguyện vọng lên Chính phủ,
yêu cầu thực thi các điểm:
§ Yêu cầu
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ Phật giáo.
§ Yêu cầu
Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa
đã được ghi trong Đạo dụ số 10.
§ Yêu cầu
Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
§ Yêu cầu
cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
§ Yêu cầu
Chính phủ phải đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oan vô tội, và kẻ
chủ mưu giết hại phải đền tội đúng mức.
Những
điểm trên đây là những nguyện vọng tối thiểu và thiết tha nhất của toàn thể Tăng
và tín đồ Phật giáo trong nước.
Chúng
tôi sẵn sàng hy sinh cho đến lúc nào nguyện vọng hợp lý trên được thực hiện.
Phật lịch 2507, Huế, ngày 10.05.1963
Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam
Ký tên: Hòa thượng Thích Tịnh Khiết
Tổng Trị Sự GHTG Trung Phần
Ký tên: Thích Mật Nguyện
Ban Trị Sự GHTG Thừa Thiên
Ký tên: Thích Mật Hiển
Tổng Trị Sự Hội Phật giáo Việt Nam tại Trung Phần
Ký tên: Thích Trí Quang
Ban Trị Sự Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên
Ký tên: Thích Thiện Siêu.
Sau
khi bản Tuyên ngôn được công bố thì các giới Phật tử tại tỉnh Thừa Thiên và thị
xã Huế đã khẩn trương tổ chức thành các đoàn thể, kết nên một phong trào với khí
thế đấu tranh sục sôi, cuồn cuộn như sóng triều dâng.
Chùa
Từ Đàm-đã trở thành cơ quan lãnh đạo tối cao của Năm Cấp Trị sự, và là Trung tâm
hoạt động của các tổ chức Phật giáo đấu tranh nầy.
Số
lượng người tham gia tranh đấu đông và chật như nêm cối trong khuôn viên chùa Từ
Đàm. Hàng hàng, lớp lớp nhưng vẫn rất nghiêm túc và vô cùng trật tự dưới sự chỉ
đạo và lãnh đạo trực tiếp của chư Tôn Giáo phẩm.
Gia
đình Phật tử là tổ chức đầu tiên được xem như trụ cột của phong trào, nên các
cấp lãnh đạo đã bí mật giao cho trách nhiệm "mở đường" vào sáng Rằm Phật đản
2507 (08.05.1963) bằng các câu khẩu hiệu có nội dung tranh đấu, được giương cao
lên trên các nẻo đường trong lễ rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm. Lực
lượng này cùng Hội viên các khuôn hội rải đều khắp nơi. Khuôn hội nào cũng có
Gia đình Phật tử. Chỉ cần một tiếng hô của cấp lãnh đạo là lực lượng nầy có mặt
ngay. Có thể nói là lực lượng "xung kích".
Xông
xáo và năng nổ nhất là Đoàn Sinh viên Phật tử Huế. Tiếng nói và việc làm của lực
lượng trí thức trẻ nầy đã tạo nên một bầu không khí đấu tranh hừng hực, làm phấn
chấn các tổ chức Phật giáo khác. Bản Tuyên ngôn đầu tiên của các tổ chức Phật
giáo có mặt trong phong trào là Bản Tuyên ngôn của Đoàn Sinh viên Phật tử Huế.
Nội dung nghiêm túc mà rực lửa hào hùng.
Các
Đoàn Hướng đạo Phật tử, Thanh niên Phật tử, Học sinh Phật tử, Công nhân Phật tử,
Xích lô Phật tử, Tiểu thương Phật tử các chợ Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự, Tây Lộc,
tất cả đều vào cuộc. Đây là lực lượng hùng hậu, nòng cốt, nhanh nhẹn trong việc
tiếp tế lương thực, thực phẩm cho cơ quan lãnh đạo tối cao, cho Trung tâm điều
hành tranh đấu tại chùa Từ Đàm, là lực lượng hăng hái nhất trong các cuộc biểu
tình, đình công, bãi thị, bãi khóa, bãi trường, tuyệt thực... luôn luôn ở vị trí
tiên phong. Lực lượng nầy đã "bủa vây" quân đàn áp trên khắp mọi nẻo đường, chận
chúng từ mọi phía.
Có thể
nói, đây là lực lượng đã làm cho tập đoàn Ngô Đình Diệm nao núng, mặc dầu họ chỉ
có hai bàn tay không và một tấm lòng sẵn sàng hy sinh vì Đạo pháp.
Đến
khi các đoàn Công chức Phật tử, Giáo chức Phật tử, Trí thức Phật tử, nhất là
Quân nhân Phật tử vào cuộc thì khí thế đấu tranh của phong trào bùng lên ác liệt
như cơn hồng thủy.
Điểm
qua giờ phút lịch sử đấu tranh trọng đại nầy, mới thấy hết tinh thần cao cả của
mọi người, mọi giới. Họ luôn ý thức rằng: Một Dân tộc còn không chịu cúi mình
làm nô lệ, thì một Tôn giáo cũng không thể cam tâm làm nô lệ. Thà chịu chết, chứ
không bao giờ khuất phục trước những thế lực vô minh. Cho nên tất cả đều sẵn
sàng xả bỏ thân mạng, hy sinh vì Đại cuộc. Hăng hái xông lên phía trước để ngăn
chận các cuộc đàn áp dã man của bọn lính mỏ heo, với lưỡi lê, lựu đạn ác xít,
lựu đạn cay, chó săn, kẽm gai, vòi rồng... Trong các cuộc biểu tình diễn ra hằng
ngày.
Khi
phong trào nổi lên mạnh mẽ, toàn diện và lan rộng ra khắp nước thì cả Dân tộc
đều đứng lên. Các tổ chức Phật giáo, cũng như không Phật giáo yêu chuộng công
bằng xã hội, tôn trọng tự do tín ngưỡng trên thế giới cũng đều đứng lên ủng hộ,
chia sẻ, góp sức đấu tranh cùng Phật giáo đồ Việt Nam. Khí thế sục sôi ấy, đã
tạo nên "bước đường cùng" cho chế độ Ngô Đình Diệm.
178
ngày đêm ròng rã "vật lộn" với dùi cui ma trắc, súng đạn lưỡi lê, xe tăng thiết
giáp, lựu đạn ác xít, lựu đạn cay, tấn công đàn áp trăm mưu nghìn kế quỷ quyệt
gian manh của tập đoàn gia đình trị họ Ngô, nhưng rồi phong trào cũng đạt được
phần thắng lợi.
Ngày
01.11.1963, chế độ Ngô Đình Diệm, sau 09 năm (1954-1963) làm mưa, làm gió trên
chính trường và gieo rắc biết bao điêu linh thống khổ không riêng cho Phật giáo
mà còn cho cả Dân tộc ở miền Nam Việt Nam đã bị lật đổ.
Phật
giáo Việt Nam thoát khỏi cơn Đại Pháp nạn. Bắt đầu công cuộc phục hưng, xây dựng
và phát triển...
Các tổ
chức Phật giáo trong phong trào đấu tranh nầy, cũng trở về ổn định công việc tu
học, nhưng được một thời gian rồi cũng dần dần phân tán. Chỉ còn lại duy nhất
một tổ chức vẫn không ngừng hoạt động và phát triển mạnh mẽ đến ngày hôm nay, đó
là tổ chức Gia đình Phật tử mà chúng tôi đã đề cập ở phần trên.
Cuối cùng, để thấy được giá
trị lịch sử thuần nhất và trung thực về phong trào đấu tranh nầy, nhất là để
tránh sự lợi dụng, tranh công trên xương máu của chư vị Tăng Ni và Phật tử đã đổ
ra cho sự tồn vong của Đạo pháp. Xin trân trọng nhắc lại lời của Hòa thượng Trí
Quang, người trực tiếp phát động và lãnh đạo phong trào, Hòa thượng khẳng định:
"Có một điều phải nói, trước và sau năm 1963 cho đến năm 1975, Phật giáo Việt
Nam không bao giờ nằm trong túi ai cả. Mặc dầu trong suốt thời gian nầy, việc gì
nổi lên mà không có sự khai thác theo ý riêng." (15)
Tóm
lại, thắng lợi của phong trào tranh đấu năm 1963, là sự kết tụ tinh thần hy sinh
cao cả của toàn thể Tăng Ni và đồng bào Phật tử Việt Nam, là sức mạnh Bi Trí
Dũng đã đạp tung cái cùm nô dịch, được mệnh danh là Dụ số 10, cài cùm oan nghiệt
này đã cùm chân Phật giáo trên lộ trình phát triển ròng rã suốt 14 năm
(1950-1964).
Thắng
lợi của phong trào đã làm cho nguồn năng lượng của Phật giáo hồi sinh, sau 9 năm
bị khống chế vô cùng hà khắc bởi một chế độ muốn độc tôn tôn giáo.
Có thể nói chắc rằng: Thắng lợi của phong trào đấu tranh
năm 1963, đã làm nên một giai đoạn lịch sử hào hùng không riêng cho Phật giáo,
mà còn thể hiện sâu sắc tinh thần bất khuất trong truyền thống ngàn đời của Dân
tộc. Một dấu son chói lọi chung cho cả hai dòng lịch sử Phật giáo và Dân tộc.
KẾT LUẬN
Trong
suốt 32 năm - từ năm 1932 đến năm 1964 - Các phong trào và tổ chức Phật giáo
phát xuất từ chùa Từ Đàm - hay từ An Nam Phật Học Hội - đều đã hăng hái, tích
cực cống hiến trí tuệ, tài năng và công sức vào sự nghiệp xây dựng, hoằng dương
và hộ trì Chánh pháp trong mọi điều kiện.
Phật
giáo miền Trung, sau một thời gian dài đắm mình trong suy vi, thoái hóa, nhưng
khi các phong trào và tổ chức Phật giáo nầy xuất phát mạnh mẽ thì đã trổi dậy và
vươn lên đến đỉnh cao của thời hưng thịnh.
Các
phong trào và tổ chức Phật giáo nầy không những đóng giữ một vai trò trọng yếu
trong một giai đoạn đầy cam go, thách thức để đưa nền Phật giáo miền Trung vượt
ra khỏi thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, mà còn chung sức tô bồi cho ngôi nhà
Phật giáo Việt Nam ngày một thêm hưng long bền vững, giành lại vị trí xứng đáng
của một thời vẻ vang trong lịch sử.
Các phong trào và tổ chức Phật giáo nầy cũng đã đem đến cho
mọi người, mọi giới một đời sống tâm linh đầy an vui và hạnh phúc trong giáo
pháp vi diệu của Đức Như Lai, và cũng đã đóng góp nhiều tinh hoa vào nền văn hóa
của Dân tộc, đã đưa nền Phật giáo Dân tộc lên ngang tầm cao cùng với các nước
Phật giáo trên thế giới.
Ngày
nay, các phong trào và tổ chức Phật giáo nầy tuy có phân tán, đổi thay nhưng
tinh thần trung kiên và quyết tâm cao độ ấy vẫn chẳng hề mai một.
Chắc
chắn trên trang sử vàng Phật giáo vẫn mãi mãi còn ghi một dòng rạng rỡ: "CHÙA TỪ
ĐÀM, nơi xuất phát các phong trào và tổ chức Phật giáo tại miền Trung."³
PHẦN PHỤ LỤC
Tại
chùa Từ Đàm, hiện có tất cả 4 câu đối (8 vế), những câu đối này, được tạo nên từ
năm xây dựng chùa Hội Quán An Nam Phật Học Hội, Mậu Dần, 1938.
Xin
trình bày như sau:
Trước
hết là câu đối treo trong chánh điện, dưới bức hoành phi “Ấn Tôn Tự”. Câu này do
Thái Tử Thiếu Bảo Cần Chánh điện Đại học sĩ Bố Chánh thần Tri sự đồng nguyên lão
quan Công bộ Tôn Thất Hân, hiến cúng.
Có nội
dung như sau:
淨 瓶甘 露 一 滴 遍 塵 間
三千界內 普 慈 悲 洗 盡 煩 根 曼
陀作雨。
蓮 座 香 華 十 方 依 淨 土 百
八清 中 醉 夢 聽 來 說 法 頑 石 點
頭。
Âm:
Tịnh
bình cam lộ nhất trích biến trần gian tam thiên giới nội phổ Từ Bi tẩy tận phiền
căn Mạn đà tác vũ.
Liên
tòa hương hoa thập phương y Tịnh độ bách bát thanh trung tuý mộng thính lai
thuyết pháp ngoan thạch điểm đầu.
Nghĩa:
Cam lộ trong tịnh bình, một
giọt khắp trần gian Từ Bi rải khắp ba ngàn thế giới, rửa sạch cội rễ ưu phiền
làm mưa hoa Mạn đà.
Hương
hoa ở toà sen, mười phương nương Tịnh
độ, một trăm lẻ tám tiếng hiệu Phật gọi tỉnh người say, trở về nghe Pháp đá cũng
gật đầu.
Ba câu
ở ngoài được bố trí đều đặn dọc theo mặt trước của sáu trụ tiền đường, chữ được
đắp nổi bằng xi măng ghép mảnh sành rất mỹ thuật.
Câu 1
và câu 2, gồm 4 vế, được đắp ở hai trụ chính giữa và hai trụ phải trái kế tiếp
trong hàng 6 trụ của tiền đường. Hai cầu này, do Ngài Chánh Hội trưởng An Nam
Phật học hội - Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Tham, đề:
Câu 1:
佛 正 遍 知 無 量 壽 無 量 光無 量功 德。
學真 實 義 如 是 文 如 是 思 如 是 修 持。
Âm:
Phật
chánh biến tri vô lượng thọ vô lượng quang vô lượng công đức.
Học
chơn thiệt nghĩa như thị văn như thị tư như thị tu trì.
Nghĩa:
Phật
là bậc chánh biến tri, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức.
Học
theo nghĩa chơn thiệt, nghe như vậy, nghĩ như vậy, tu trì như vậy.
Câu 2:
隋塵 逐 影 我 法 歡 生 迷 流 救 竟 妄 成 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業。
絕 相纏 根 自 他 不隔 覺 性 本 來 具 足 慈 悲 喜 捨 無 量 心。
Âm:
Tuỳ
trần trục ảnh ngã pháp hoan sanh mê lưu cứu cánh vọng thành tham sân si mạn hữu
lậu nghiệp.
Tuyệt
tướng triền căn tự tha bất cách giác tính bổn lai cụ túc Từ Bi Hỷ Xả vô lượng
tâm.
Nghĩa:
Theo
trần đuổi bóng, quấy sanh chấp ngã pháp dùng trong mê rốt cuộc vọng thành nghiệp
hữu lậu tham sân si mạn.
Dứt
tướng xoay sáu căn, tự tha không cách biệt, giác tính xưa nay vốn đủ tâm vô
lượng Từ Bi Hỷ Xả.
Câu
cuối cùng cũng được đắp nổi ở hai trụ 5 và 6 (tức hai trụ trái phải ngoài cùng).
Câu
đối nầy, do chí sĩ Sào Nam Phan Bội Châu đề tặng:
業 緣 萍 合 年 年 百 髮 崔 對 面 即 空 寧 把 挑 華 仆 流 水。
世事 旗 分 處 處 黃 梁 夢 回 頭 是 岸 願 翻 貝 葉 出 憂 曇。
Âm:
Nghiệp
duyên bình hiệp niên niên bách phát thôi đối diện tức không ninh bả thiêu hoa
phó lưu thủy.
Thế sự
kỳ phân xứ xứ hoàng lương mộng hồi đầu thị ngạn nguyện phiên bối diệp xuất Ưu
đàm.
Nghĩa:
Nghiệp
duyên như bèo hợp, hằng năm tóc cứ bạc mãi, đối diện là không há nỡ đem tuổi
xuân quăng dòng nước.
Thế sự
như bàn cờ, nơi nơi giấc mộng hoàng lương, quay đầu là bến, nguyện dịch kinh Lá
Bối tỏa hương Ưu đàm.
- ] -
Khi
chúng tôi kết thúc bài viết nầy, thì chùa Từ Đàm đang bắt đầu công cuộc đại
trùng tu.
Lễ
động thổ khởi công đã được tổ chức trọng thể vào lúc 8 giờ sáng ngày 10.06. năm
Bính Tuất, Phật lịch 2550 (04.07.2006).
Như
thế là đã trải qua 68 - từ năm Mậu Dần, 1938 đến năm Bính Tuất 2006 - tồn tại và
phát triển, chùa Từ Đàm của thời An Nam Phật học hội kiến tạo đến đây đã hoàn
toàn bị triệt hạ. Ba câu đối được đắp nổi như chúng tôi đã trình bày ở trên cũng
cùng chung số phận.
Không rõ rồi đây, sau khi công cuộc xây dựng xong ngôi chùa
Từ Đàm theo mô hình kiến trúc hoàn toàn mới, các câu đối này có còn được chư Tôn
Thiền đức lưu tâm cho khắc lại để ghi dấu một thời kỳ vàng son của An Nam Phật
học hội, hay chỉ còn là nỗi ngậm ngùi trong miền ký ức xa xôi của chư vị Tăng Ni
và Phật tử khi nghĩ về một thời vẻ vang hưng thịnh của một ngôi danh lam rạng
ngời trong lịch sử: “Ấn Tôn - Từ Đàm Tự”.
CHÚ THÍCH:
1. Về pháp danh của Hòa
thượng Minh Hoằng Tử Dung, trong Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1-2 (2005)
có chủ đề : “Tuyển dịch Văn bia chùa Huế của Lê Nguyễn Lưu, do Sở Khoa học và
Công nghệ Thừa Thiên-Huế xuất bản. Ở phần chú thích, trang 183, tác giả viết : “Minh Hoằng Tử Dung là một trong nhiều nhà sư Trung Quốc vượt biển
sang nước ta khi nhà Thanh diệt xong nhà Minh năm 1664 (cho nên hiệu của họ đều
dùng từ “Minh”: Minh Hải Pháp Bảo, Minh Vật Nhất Trí…). Ông khai sơn chùa Ấn Tôn
(thời Thiệu Trị đổi tên Từ Đàm, năm 1841, khi trùng hưng.)”
Lời chú thích của tác giả Lê Nguyễn Lưu như thế, thật
hết sức sai lầm. Mong tác giả tìm hiểu và có sự đính chính tường tận. Tâm Quang
chú.
2. Thư Viện Từ Đàm ấn hành,
năm 1997, PL.2541.
3. Trích Nguyệt san Viên Âm, số 100-101, năm thứ X, ngày 13.02.1951
4, 5,
6. Trích Đây... Gia đình, Võ Đình
Cường, Liên Hoa-Huế ấn hành, Bính Thân-1956
7. Tâm
Ảnh lục, Hòa thượng Thích Trí Quang, Thần Đinh xb, Phật lịch 2508, 1964.
8.
Theo Nội san Sen Trắng, các số 3, 4
và 8 năm 2005.
9. Trong
cuốn "Ký sự Phái đoàn Phật giáo Việt Nam đi Ấn Độ và Tích Lan" của Thượng tọa Tố
Liên, nhà in Đuốc Tuệ Hà Nội, 1951, trang 17, ghi: "Hôm qua Hội Tăng Ni Bắc Việt
và Hội Việt Nam Phật giáo với các Giáo hữu có tặng số tiền lớn..."
Nhưng trong cuốn "Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam" của Thượng tọa Đồng Bổn, Thành hội
Phật giáo Tp. HCM, 1995, trang 528, ghi: “Hội Tăng Ni Chỉnh lý Bắc Việt, Hội này
là tiền thân của Hội Phật giáo Tăng già Bắc Việt.”
Và trong cuốn “ Lịch sử Phật giáo xứ Huế” của Thượng tọa Hải Ấn và Hà Xuân Liêm,
Nxb Tp. HCM, 2001, trang 465, cũng ghi: “Đó là Hội Phật giáo Tăng già Bắc Việt
công cử Thượng tọa Tố Liên đi dự Hội nghị…”
Chúng tôi e rằng danh hiệu “Hội Phật giáo Tăng già Bắc Việt” là không đúng và
cũng không có. Vì từ trước đến nay, kể cả 3 miền, chỉ có Giáo hội Tăng già, Sơn
môn Tăng già, chứ không có hội nào là “Hội Phật giáo Tăng già” cả.
10-15. Theo “Tiểu truyện tự ghi của Hòa thượng
Trí Quang”.
(Trích từ
http://www.quangduc.com/Danhnhanvn/09triquang.html). Phật lịch 2514 là Phật lịch cũ. Phật lịch này tính theo niên đại
Đức Phật đản sinh vào năm 563 tr. CN. Phật giáo Việt Nam đã sử dụng Phật lịch
này cho đến năm Đinh Dậu, 1957 mới thay đổi Phật lịch mới, Phật lịch này tính
theo niên đại Đức Phật nhập Niết-bàn vào năm 544 tr. CN, tức là Phật lịch hiện
lưu hành.
Tài liệu tham khảo:
-
Tiểu truyện tự ghi của Hòa thượng Thích Trí Quang,
trích từ: http// quangduc.com.
2. 50 năm chấn
hưng Phật giáo Việt nam, HT Thiện Hoa (soạn), Sài gòn, 1970.
3. Niên biểu
Việt Nam, Vụ bảo tồn Bảo tàng
(soạn), Nxb: Khoa học Xã hội, Hà nội, 1984.
4. Tiểu sử Bác sĩ Tâm
Minh Lê Đình Thám, trích từ “GĐPT Thừa Thiên Huế, kỷ niệm 50
năm GĐPT Việt Nam”, Huế-2001.
5. Việt nam đất
nước-con người, Nxb: Thông tấn, Bình Định, 2003. Và cùng một số tư
liệu khác.