(Tìm hiểu về Chân tông Nhật bản và vị tổ sư
khai sáng)
JEAN ERACLE
Thân Loan thánh nhân hiển nhiên
là một nhân vật phi thường mặc dù Ngài thường tự gọi mình là “gã đầu trọc ngu
dốt” với giọng điệu khiêm tốn pha lẫn chút ít hài hước.
Ngài hạ sinh tại Hino, gần
thủ phủ Kyoto vào năm 1173. Xuất thân từ một gia đình danh giá thuộc giai cấp quý tộc
vào thời ấy: dòng họ Fujiwara, ngài có thể trở thành một quan viên cao cấp trong
triều đinh Nhật-bản. Ngay từ thuở ấu thơ, ngài đã biểu lộ một thiên hướng mạnh
mẽ về những thực tại siêu việt, đồng thời cũng luôn luôn bày tỏ những cảm quan
bén nhạy đối với bản chất vô thường tạm bợ của tất cả sự vật chung quanh. Năm lên chín tuổi, ngài trở
thành đứa trẻ mồ côi cha lẫn mẹ, và được người thúc phụ đem về cưu mang.
Thúc phụ của ngài đã nhìn thấy những biểu
hiện khác thường của cháu mình, nên
đã quyết định cho phép ngài xuất gia dưới sự
chăm sóc của thượng tọa Jien (Từ Trấn). Pháp danh của ngài khi
mới bước vào chùa là Hanen.
Suốt hai mươi năm tu học trên núi Tỷ-duệ (Hiéi),
Thân Loan tiếp nhận một sự rèn luyện nghiêm ngặt về giáo thuyết lẫn thực hành,
trong một không gian bao la của những văn bản Phật-giáo, những tác phẩm kinh
viện, cũng như bước vào những cánh cửa bí mật của tông phái Thiên Thai đầy quyền
lực. Tông phái này được đại sư Dengyô (Đạo Nguyên) truyền thừa
từ Trung-hoa và phát triển tại Nhật-bản vào ba thế kỷ trước.
Ngài nỗ lực hướng dẫn bản thân theo phương
thức tu tập Sáu Ba-la-mật của Bồ-tát đạo như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tiến, thiền định và trí tuệ, y như lề lối thông thường của các tu sỹ thời ấy.
Ngài tự khép mình khổ hạnh, tích lũy công đức và tri thức, để một ngày nào đó sẽ
thu đạt sự chứng ngộ tối thượng của chư Phật. Ngài tự thể nghiệm biết bao ngõ
ngách u tối của vô minh, biết bao độc tố của tham dục và giận dữ thường tác động
đến thân tâm ngài một cách liên tục.
Ngài cũng khép mình tu tập
nhiều pháp môn khác nhau, nhưng vẫn không hề gặt hái chút ít thanh bình tâm linh.
Năm hai mươi chín tuổi,
ngài từ bỏ tu viện trên núi Tỷ-duệ, và du hành đến Yoshimitsu nơi mà Thượng nhân
Genku đang hóa đạo dưới danh hiệu Pháp Nhiên (Honen Shônin).
Pháp Nhiên xuất hiện như là một con người
khoan hòa nhân hậu, mặc dù ngài vốn là vị đạo sư vô cùng thông thái. Ngài bỏ công đến hơn năm lần để nghiền ngẫm kho tàng bao la của tam
tạng kinh điển Phật học.
Được đào tạo từ nền triết học và kỹ thuật
tâm linh của phái Thiên Thai, ngài đã khám phá và phát hiện ra một trong những
phương thức tu tập của tông phái này, đó là Xưng Niệm Phật. Nghĩa là, chỉ cần
xướng lên danh hiệu đức Phật A Di Đà với lòng tin trọn vẹn, cũng đủ đưa hết thảy
chúng sanh giải thoát khổ đau. Và tất nhiên, trong lúc thực hành niệm Phật thì
người ta phải kiên trì loại bỏ tất cả những đường lối thực hành khác, dù là của
đạo Phật. Đối với những người niệm Phật, thì tất cả pháp môn khác đều trở nên vô
dụng, không còn ích lợi thiết thực nữa.
Sau đó, Pháp Nhiên dứt khoát bước ra khỏi
tu viện của phái Thiên Thai, lui về ẩn dật tại một căn lều cỏ nơi thôn dã hẻo
lánh cạnh Kurodani, gần thành phố Yoshimitsu. Cuối cùng, ngài
dành trọn vẹn cuộc đời mình cho pháp môn niệm Phật vô cùng giản dị này, rồi
truyền dạy cho rất đông đệ tử đến gõ cửa hỏi đạo.
Chàng trai trẻ Thân Loan
tức khắc trở thành người học trò khiêm cung và siêng năng của Thầy. Pháp Nhiên đặc biệt gởi gắm niềm tin nơi
người học trò có khả năng tiếp nối sự nghiệp tâm linh của mình.
Ngài cho phép Thân
Loan được noi theo mẫu mực cùng nhân
cách của mình, cũng như chỉ dạy Thân Loan nghiên cứu tác phẩm quan trọng và đắc
ý nhất, đó là:
“Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập” (Senjaku Hongan Nemboutsou Shu) do
chính Pháp Nhiên sáng tác.
Giữa những người anh em
cùng học, Thân Loan hiển nhiên là người thấu suốt lời dạy của Thầy nhất. Một hôm, Thân Loan nói với các
vị huynh đệ đồng môn rằng:
“Đức tin của tôi và đức tin của Thầy đều hoàn toàn giống y
như nhau!”
Rất phẫn nộ vì một thái độ
có vẻ tự phụ như vậy, các huynh đệ đem lời phát biểu ấy trình lên sư phụ Pháp
Nhiên, để chờ xem ngài giải quyết thế nào?
Nhưng, Thượng nhân Pháp Nhiên trả lời giản
dị như sau:
“Đức tin của ta là do A
Di Đà ban cho, niềm tin của Thân Loan cũng do A Di Đà ban cho.
Vậy, có gì khác nhau đâu?
Nếu chúng ta có được một đức tin do những nỗ lực cá nhân thì
chúng ta đã thiết lập một niềm tin khác, tùy thuộc vào những công đức tu hành
riêng tư của mình. Nhưng thật ra, đức tin của chúng ta được phát xuất từ tấm
lòng Đại Bi của Phật, qua sự xác lập bởi Bản Nguyện A Di Đà, do đó đức tin ấy
chắc chắn giống hệt như nhau. . .”
Vừa lúc ấy, sư phụ Pháp
Nhiên cho phép Thân Loan lấy vợ. Chủ ý của ngài muốn chứng tỏ rằng, bất cứ kẻ nào có một đức
tin bền chắc như kim cương, thì kẻ ấy không cần thiết phải thực hiện nếp sống từ
bỏ gia đình, cũng chẳng cần giữ mình trinh bạch, khổ hạnh, mà vẫn được tái sanh
nơi Cõi Sạch của đức Phật A Di Đà.
“Một con người rất đỗi bình thường, dù đàn ông hay phụ nữ,
trẻ hay già, thông thái hay ngu độn, đạo đức hay tội lỗi, nếu đem lòng tin chân
thật mà xưng niệm danh hiệu A Di Đà thì thảy đều được cứu độ triệt để bởi năng
lực vượt lên trên mọi tư duy và mô tả của Bản Nguyện. Song
song với việc thực hành niệm Phật, người ta chỉ cần hướng dẫn cuộc sống thường
ngày bằng cách tuân thủ luật pháp xã hội hoặc lề thói của quốc gia mà mình đang
sinh sống.
Nếu người ta kiên trì xưng niệm Phật để thành tựu lòng tin
chuyên nhất trong sự tuyên dương Bản Nguyện A Di Đà, thì người
ta chắc hẳn cảm nhận nội tâm được chuyển hóa, và cuộc sống được biến đổi - những
khuynh hướng bi mẫn và giác ngộ, sẽ thay thế tất cả những thói hư tật xấu mà
mình từng đeo đẳng trong nhiều kiếp quá khứ”.
Một quan niệm cách mạng
như vậy được phổ biến rộng rãi, tất nhiên đã gây nên những làn sóng chống đối dữ
dội. Do áp lực của
những tu viện nổi tiếng cũng như giới tăng lữ uy tín, triều đình và Thiên-hoàng
tỏ ra phẫn nộ và trách cứ. Họ buộc tội Pháp Nhiên và đệ tử
đồng bọn đã phá hủy nền tảng đạo đức xã hội, làm tổn hại đến quyền lực triều
đình.
Thật ra, các tu viện lớn hồi đó thường đóng
vai trò chính trị trong các tổ chức triều đình, và đương nhiên trở nên giàu có,
bỗng thấy rằng họ sẽ trở thành vô dụng nếu tông phái Niệm Phật phát triển to
rộng, quyền lực của họ sẽ bị đổ vỡ và con đường danh lợi của họ sẽ bị tan hoang.
Họ phản ứng mạnh mẽ. Lập tức, Pháp Nhiên và các đệ tử bị tước lột tăng
tịch, rồi bị trục xuất khỏi thành phố, có thể bị kết án
tử hình.
Thân Loan bị đày sang Kokobu thuộc huyện
Echigo (ngày nay là tỉnh Niigata). Đó là năm 1207.
Pháp Nhiên và các đệ tử bị
chính quyền triều đình phân tán thành những bộ phận rời rạc. Nhưng, tai họa này vô tình tạo ra
những điều kiện tốt đẹp nhất cho việc quảng bá giáo lý Niệm Phật dễ dàng thành
công, trong những miền đất lạc hậu, hoang sơ của đất nước Đại Hòa vào thời ấy.
Năm năm sau, năm 1211, triều đình ban hành
sắc lệnh ân xá, cho phép Pháp Nhiên trở về Kyoto, nơi mà ngài sẽ từ bỏ thế gian
vào năm 1212 với tuổi thọ bảy mươi chín tuổi.
Dẫu được ân xá, Thân Loan vẫn lưu trú tại Echigo cho đến vài năm sau
để tiếp tục truyền bá giáo lý Niệm Phật, cũng như để củng cố những nhóm đệ tử do
ngài sáng lập.
Về sau, ngài định cư lâu
dài tại Inada, gần Hidachi, huyện Kasama (thuộc tỉnh
Ibaraki).
Cuộc sống của ngài vẫn còn
xa lánh thế nhân, nhưng nhiều nhân vật với những thân thế và địa vị cao thấp
khác nhau đã đến ra mắt tỏ ý cầu học. Ngài đã ban cho họ nhiều lời giáo huấn thích hợp về pháp
môn Niệm Phật.
Năm 1224, Thân Loan công bố tác phẩm kiệt
xuất và quan trọng nhất của ngài: “Giáo Hành Tín Chứng” (tiếng
Nhật là: Ken Jôdo Shinjitsu Kyôgyôshô Monrui).
Tác phẩm này quan trọng đến nỗi các tín đồ
Niệm Phật đã lấy ngày phát hành làm ngày khai sinh truyền thống và nền tảng của
pháp môn Tịnh-độ Chân-tông, (tiếng Nhật
là : Jodo-Shinshu).
“Giáo Hành Tín Chứng” hiển
nhiên là một tổng hợp thực sự các văn phẩm Phật giáo Tịnh-độ. Sách gồm sáu chương, khéo léo kết hợp và dung hóa nhuần
nhuyễn những dẫn chứng từ các kinh luận cổ điển, những luận giải, cùng những
chiêm nghiệm nội quán của tác giả.
Sau một bài đề tựa vô cùng hấp dẫn, Thân
Loan giải thích tại sao mình phải căn cứ vào bản kinh Vô Lượng Thọ để làm nền
tảng chính yếu trong việc sáng tác bộ luận thư này. Đây là
Chương I.
Tiếp theo, Thân
Loan chứng minh pháp Niệm Phật đã đúc kết trong bản thân Ngài đến những vô lượng
vô số phương thức tu tập. Đây là Chương II.
Và lòng tin chắc thật, bền vững như
kim cương không những chuyển hóa tâm hồn chúng ta, mà còn đánh động đến
Trái Tim Thuần Khiết của A Di Đà (chân như tâm). Đây là Chương
III.
Kinh điển và sự luận giải
của Đại-thừa Phật-giáo thường đề xướng một sự chứng ngộ cùng tột, viên mãn, - có
nghĩa là đạt đến Niết-bàn tối thượng. Và hình thức chứng ngộ này còn hàm chứa ẩn nghĩa rằng: Dẫu
chư vị Bồ-tát đã hoàn toàn thoát khỏi mạng lưói rối rắm của nghiệp lực, nhưng
các Ngài vẫn tự nguyện tái sinh giữa lòng thế gian khốn khổ, để giải thoát tất
cả chúng sanh bởi lòng thương yêu rộng lớn, cao thượng và không phân biệt sẵn có
của mình. Đây là Chương IV.
Trong hai chương cuối của
“Giáo Hành Tín Chứng”, Thân Loan đã bác bỏ những quan điểm thiên lệch về A Di Đà
và cõi Tịnh-độ của Ngài.
Thân Loan cũng chứng minh rằng: Bằng đức
tin rực rỡ như ánh sáng vô hạn lượng và vĩnh cửu như sức sống không cùng tận,
chư Phật vì mục đích cứu vớt chúng sanh, đã biểu lộ sự viên mãn cao độ
của Phật-tánh rốt ráo. Thân Loan còn xác định rằng:
Cõi Đất Trong Sạch của A Di Đà không phải là một thế giới vật chất được tìm thấy
giữa các thiên hà xa xôi, mà chỉ là một trạng thái thanh bình hạnh phúc thực sự
của Tâm Linh, vượt lên trên tất cả tư duy và diễn tả của thế gian tầm thường.
Không thể nào cảm nhận những ẩn nghĩa trong
giáo huấn của Thân Loan, nếu chúng ta không thấu suốt những bí mật sâu thẳm
trong ba bộ kinh đại-thừa: Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và A Di Đà.
Trong ba bộ kinh nêu trên, qua sự khảo cứu
dày công của Thân Loan, thì bộ kinh Vô Lượng Thọ chứa đựng những giáo lý cốt tủy,
trọng yếu, và chính xác. Còn hai bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ và
A Di Đà thì đóng vai trò bổ túc ý nghiã cho bộ kinh Vô Lượng Thọ mà thôi.
Trong tác phẩm “Giáo, Hành, Tín và Chứng”
được sáng tác bằng Hán-ngữ, thánh nhân Thân Loan đã lựa chọn SÁU trong
số Bốn Mươi Tám Lời Nguyện Vĩ Đại của Bồ-tát Pháp tạng
như là phần thiết lập nòng cốt của bản kinh Vô Lượng Thọ. Lời Nguyện thứ 12 và
13 phù hợp với thể tánh của đức Phật A Di Đà bằng cái nhìn thuộc về không gian
như là “ánh sáng không thể đo lường được” - và bằng cái nhìn thuộc về thời gian
như là “sự sống không cùng tận, không giới hạn”.
Khái niệm “ánh sáng không thể đo lường được”
đồng nghĩa với
tia sáng chói lọi rực rỡ không thể nào bị ngăn che nổi
- mặt khác, còn có ý nghĩa: “trí tuệ không hạn định nổi”.
Khái niệm “sức sống không cùng tận” phù hợp
với một đời sống vĩnh cửu không thể nào hạn định được, và giải nghĩa rằng đức
Phật A Di Đà tự kéo dài tuổi thọ của mình để dẫn dắt chúng
sanh : điều này cho biết tại sao đời sống vô hạn thì đồng nghĩa với Đại
Bi vô hạn. Chính vì sự thành tựu của hai lời thệ nguyện vĩ đại này, bồ-tát Pháp
Tạng đã thành tựu địa vị Phật-đà với danh xưng “Ánh Sáng Vô Lượng” tức AMITÂBHA
- và “Thọ Mạng Vô Lượng” tức
AMITÂYUS. Cả hai danh xưng này được chứa đựng trong danh hiệu
A Di Đà, nghĩa là VÔ LƯỢNG. Thân Loan đã đặt HAI lời nguyện này vào
Chương Thứ Năm của tác phẩm “Giáo Hành Tín Chứng”, và nỗ lực tuyên dương A Di Đà
như là “vị Phật chân thật”, đức Phật của Chân Lý Tuyệt Đối. (thuật
ngữ Phật-học gọi là Pháp Thân Phật).
Đây là Hai Lời Nguyện ấy :
LỜI NGUYỆN THỨ 12: Lúc tôi thành Phật, nếu ánh sáng còn bị giới
hạn, ít nhất là không soi chiếu thấu trăm triệu tỷ cõi Phật, thì tôi thề không
chấp nhận địa vị Toàn Giác.
LỜI NGUYỆN THỨ 13: Nếu lúc tôi thành Phật, thọ mạng của tôi còn
bị hạn chế, ít nhất không kéo dài đến trăm ngàn tỷ tỷ tỷ năm, thì tôi thề không
chấp nhận địa vị Toàn Giác.
Chương Thứ Ba của “Hợp Tuyển” được đặt nền tảng trên Lời Nguyện Thứ 17, Thân
Loan xác định phương pháp thực hành mầu nhiệm trong việc chứng minh danh hiệu A
Di Đà chứa đựng tinh túy và phẩm cách của tất cả chư Phật.
LỜI NGUYỆN THỨ 17:
Khi tôi thành Phật, vô số chư
Phật khắp mười phương trong vũ trụ thảy đều tuyên dương và xưng tán danh hiệu
tôi, nếu không phải vậy thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác.
Chương Thứ Ba của “Hợp Tuyển” còn xác định lòng tin đặt nền tảng trên Lời Nguyện
Thứ 18, mà chúng ta suy diễn bằng cách nắm giữ những dòng giải thích của Thân
Loan:
LỜI NGUYỆN THỨ 18:
Khi tôi thành Phật, tất cả chúng sanh trong mười phương thế
giới hết lòng tin mộ muốn tái sanh trong cõi nước tôi, bằng cách xưng niệm danh
hiệu tôi ít lắm là mười lần - nếu không được tái sanh thì tôi thề không chấp
nhận địa vị Toàn Giác. Ngoại trừ những kẻ tạo tội ngũ
nghịch và hủy báng chánh pháp.
Nơi chương thứ tư, Thân
Loan đã xác định khái niệm về chứng ngộ. Giai đoạn sơ chứng dành cho các bậc bồ-tát sơ địa được dựa vào Lời
Nguyện Thứ 11. Giai đoạn quả chứng dành cho bậc bồ-tát
đại địa được dựa vào Lời Nguyện Thứ 22. Và sau đây là Hai Lời Nguyện ấy:
LỜI NGUYỆN THỨ 11:
Khi tôi thành Phật, nếu hàng Trời Người trong cõi nước tôi
không an trụ nơi Chánh Định hoặc giải thoát hoàn toàn, thì tôi thề sẽ không
chấïp nhận địa vị Toàn Giác.
LỜI NGUYỆN THỨ 22:
Khi tôi thành Phật, các Bồ-tát từ cõi khác đã được sanh về
tịnh-độ của tôi, rốt ráo đều đắc quả Nhất Sanh Bổ Xứ (chỉ
còn tái sanh để tu một kiếp nữa thì thành Phật). Trừ những người
có bản nguyện riêng, tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát thệ nguyện rộng lớn,
thực hành các công đức, độ thoát mọi loài, du hành khắp các thế giới thể hiện
công hạnh Bồ-tát, cúng dường chư Phật ở khắp mười phương, khai hóa vô lượng
chúng sanh, làm cho tất cả đều trụ vững nơi đạo tràng vô thượng chánh giác, vượt
trội công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập tánh đức của Bồ-tát
Phổ Hiền - nếu không được như vậy thì tôi thề sẽ không chấp nhận địa vị Toàn
Giác.
Thân Loan không những chỉ khởi xướng một sự
diễn dịch được đặt nền tảng trên kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, mà còn căn
cứ vào những văn bản quan trọng khác của truyền thống Đại-thừa.
Trong những dòng chữ đầu tiên của cuốn luận
thư: “Giáo hành tín chứng”, Thân Loan hết lòng tri ân và ghi
nhận những kinh luận cũng như diễn giải của 7 vị tổ sư tiền bối,
như :
Hai vị tổ sư phát xuất từ Ấn-độ
:
Long Thọ Bồ-tát (thế kỷ I, II)
Thiên Thân Bồ-tát (thế kỷ IV)
Ba vị tổ sư Trung-hoa là :
Đàm Loan Tổ-sư (476 - 542)
Đạo Xước Tổ-sư (562 - 645)
Thiện Đạo Tổ-sư (613 - 681)
Cuối cùng là hai vị tổ sư Nhật-bản
:
Nguyên Tín (942 - 1017) tức Genshin Shônin
Pháp Nhiên (1133 - 1212) tức Hônen Shônin.
Rốt cuộc, mặc dù bận rộn với vô số họat
động truyền bá giáo lý Niệm Phật, và bắt buộc phải sống rày đây mai đó, nhưng
Thân Loan cũng đã hoàn tất lắm công trình đáng kể: nhiều tác phẩm bằng Hán-ngữ
và Nhật-ngữ, nhiều khảo luận súc tích, nhiều bản ký sự, sưu tập thi kệ và cả vô
số thư từ cho những đệ tử ở nơi xa.
Tuy nhiên, chúng ta phải
nhớ rằng, cuốn “Giáo, Hành, Tín, Chứng” và cuốn “Tịnh-độ loại tụ” mới đúng là
phần cốt tủy đích thật của giáo lý Thân Loan.
Trong giai đoạn cuối cùng của kiếp sống,
Thân Loan thánh nhân trở về Kyoto, nơi mà ngài đã từng thay đổi chỗ ở rất nhiều
lần - và ngài hân hoan mở rộng vòng tay đón nhận những người đến gõ cửa, rồi
giáo hoá họ bằng pháp môn Niệm Phật.
Năm 1263, tại thủ phủ Kyoto, ngài thản
nhiên day mặt về hướng Tây, nằm nghiêng trong tư thế “sư tử ngủ” như phong cách
chư Phật nhập Đại Niết Bàn, rồi từ giã thế gian mà trở về Cõi Sạch A Di Đà, để
lại vô vàn kính ngưỡng cho rất nhiều đệ tử.
Hình ảnh cao đẹp của ngài
vẫn còn sống động trong lòng nhân dân Nhật-bản cho đến thời đại ngày nay.
JEAN ERACLE
Nguyễn Xuân Chiến
dịch
từ bài Le Saint Homme
Shinran, sa vie et ses oeuvres
trích trong cuốn Sur le vrai
bouddhism de la Terre Pure,
của Jean Eracle